Dịch giả: Hồ Ngọc Minh
Hiệu đính: Nguyễn Giang Chi
Phần IX (tt)

Nếu xảy ra các sự kiện bột phát, ví dụ như sát thủ tài chính đột ngột công kích đồng đô-la, các phần tử khủng bố tấn công nước Mỹ bằng chiến tranh hạt nhân hoặc chiến tranh sinh học, hoặc nếu như giá vàng tiếp tục tăng cao, thị trường công trái Mỹ ắt sẽ chấn động dữ dội. Một khi các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ gặp vấn đề thì lượng công trái trị giá mấy trăm nghìn tỉ đô-la có thể mất đi tính thanh khoản chỉ sau vài tiếng đồng hồ, thậm chí lúc này, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cũng không thể ra tay cứu vớt, mà với sự sụp đổ quy mô như vậy thì Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cũng đành bó tay vì lực bất tòng tâm. Cuối cùng, 60% ngân hàng Mỹ có thể phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng, thị trường sản phẩm tài chính phái sinh trị giá 370 nghìn tỉ đô-la sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn với hiệu ứng tuyết lở.
Rủi ro lớn nhất của thị trường sản phẩm tài chính phái sinh được phản ánh đầy đủ thông qua các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ, trong khi chính các doanh nghiệp này chẳng qua chỉ là một góc núi băng.
Trong cuốn “Tham vọng xa xỉ của sự vay mượn”, Robert Kiyosaki - tác giả cuốn sách nổi tiếng “Dạy con làm giàu” (Rich Dad, Poor Dad) - đã miêu tả về sự “phồn vinh kinh tế vay nợ” của thế giới ngày nay:
Kinh nghiệm của tôi cho biết, trong tương lai nhất định sẽ có kẻ phải hoàn trả những khoản nợ này. Sự sụp đổ của đế quốc Tây Ban Nha gắn liên với lòng tham lam vô đáy của họ đối với chiến tranh. Tôi e rằng, lòng tham vô đáy của con người sẽ kéo nhân loại đi theo vết xe đổ. Vậy kiến nghị của tôi là gì? Đối với hiện tại, hãy hoan lạc điên cuồng tại bữa yến tiệc của lòng tham di, nhưng đừng uống quá nhiều, và phải đứng ở gần lối ra(9).
Trong một sới bạc náo nhiệt, các con bạc đang dồn hết tâm trí để đặt cược vào đồng đô-la Mỹ vốn bị Robert Toru Kiyosaki gọi là “tiền tệ tếu”. Lúc này, những kẻ còn tỉnh táo đầu óc đã nhận ra rằng, góc khuất của chiếu bạc đang bắt đầu bốc khói. Họ cố hết sức bình sinh để thoát ra khỏi chiếu bạc theo hướng cửa hẹp. Lúc này, các con bạc đã có thể nhìn thấy ngọn lửa lờ mờ. Tuy nhiên, họ vẫn hoàn toàn chưa hay biết. Chỉ có một số người đã ngửi thấy mùi khói. Họ nhớn nhác tứ phía và bắt đầu rì rầm bàn tán. Sợ mọi người phát hiện thấy ngọn lửa, ông chủ sới bạc bèn bày rượu chè kích thích, và phần lớn con bạc lại bị hút trở lại bên chiếu bạc.
Mồi lửa cuối cùng cũng bén thành ngọn lửa, người người hoảng sợ và tháo chạy nhưng không biết phải làm sao. Để trấn an sới bạc, chủ sới cho rằng, việc có lửa có khói là chuyện bình thường và chuyện kiểm soát ngọn lửa là điều hoàn toàn làm được. Tử năm 1971 đến nay, mọi việc đều diễn ra như thế. Những điều này đã làm yên lòng mọi người, vậy là người ta lại tiếp tục đánh bạc. Chỉ có điều, số người đứng ở cửa ra vào ngày càng đông hơn. Lúc này, điều đáng sợ nhất chính là khi có tiếng thét chói tai báo hiệu đám cháy đang lan đến và mỗi người đều sẽ phải tìm đường thoát cho mình. Đối với Robert Toru Kiyosaki, cửa thoát hiểm của sới bạc chính là vàng và bạc. Trong tác phẩm “Đánh vàng, đừng đánh bạc tếu”, ông đã chỉ ra:
Tôi cảm thấy vàng là tài sản rất tiện dụng. Trong điều kiện giá dầu mỏ tăng lên và các nước như Liên bang Nga, Venezuela, A-rập và châu Phi không muốn tiếp nhận đồng đô-la của chúng ta, vàng sẽ còn tăng giá mạnh. Trước mắt, chúng ta có thể dùng “tiền tếu” của mình để chi trả cho hàng hoá và dịch vụ của quốc gia khác, nhưng thế giới đã dần dần mất hứng với đồng đô-la rồi. Chiến lược của tôi trong nhiều năm trở lại đây là: đầu tư tiền thật, chúng chính là vàng và bạc. Tôi cũng tiếp tục vay “tiền tếu” để mua bất động sản. Mỗi khi giá vàng tăng cao, thì hiện vật mà tôi mua vào càng nhiều. Có nhà đầu tư thông minh nào sẽ không muốn vay “tiền tếu” để mua tiền thật với giá rẻ chứ(10)?

6. Vàng - một loại tiền tệ bị giam lỏng

Bản thân vàng mang trong mình rất nhiều yếu tố bất ổn. Việc chính phủ của một số quốc gia lớn vẫn luôn tìm cách lung lạc giá vàng chính là một trong những yếu tố ấy. Nếu như quan tâm đến chinh sách của chính phủ đối với vàng trong suốt 20 năm qua, bạn sẽ nhận ra ràng, khi giá vàng cao đến mức 800 đô-la/ounce (năm 1980), chẳng có chính phủ nào bán vàng ra. Việc bán vàng ra khi đó có thể nói là rất hợp thời, lại còn có thể ổn định giá vàng. Nhưng chính phủ lại bạn vàng ra khi giá vàng xuống thấp nhất (năm 1999). Chính phủ Anh đã làm như vậy và đó chính là một trong những yếu tố khiến cho giá vàng trở nên bất ổn(11).
Robert A. Mundell, năm 1999.
 
Yếu tố làm bất ổn giá vàng mà Robert A. Mundell nói đến năm 1999 chính là một bộ phận quan trọng của màn kịch tài chính tinh vi do các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế dàn dựng kể từ năm 1980. Nhưng việc thao túng giá vàng lại là một kế hoạch tài tình được dàn xếp nghiêm ngặt với thủ pháp cao siêu khiến người ta khó phát hiện ra. Việc khống chế thành công giá vàng trong khoảng thời gian hơn 20 năm vẫn là chuyện thật khó tin trong lịch sử nhân loại.
Điều khó hiểu nhất chính là tuyên bố của ngân hàng Anh quốc vào ngày 7 tháng 5 năm 1999. Ngân hàng này đột ngột thông báo sẽ bán đứt một nữa số vàng dự trữ (chừng 415 tấn). Đây là lần ngân hàng Anh bán tháo vàng với quy mô lớn nhất kể từ khi cuộc chiến tranh giữa đế quốc Anh và Napoleon nổ ra. Thông tin động trời này đã khiến cho giá vàng quốc tế đã rớt xuống ngưỡng 280 đô-la/ounce.
Mọi người không khỏi hoài nghi: rốt cuộc thì ngân hàng Anh muốn gì? Đầu tư ư? Không đúng, bởi nếu đầu tư thì họ phải bán ra với giá 800 đô-la/ounce từ năm 1980 rồi thu gom công trái Mỹ kỳ hạn 30 năm với mức lãi suất lên đến 13% vào thời đó để kiếm lãi. Nhưng ngân hàng Anh lại phá bĩnh khi bán tháo vàng ra với giá thấp nhất trong lịch sử là 280 đô-la/ounce vào năm 1999, rồi đi đầu tư công trái Mỹ với lãi suất khi đó chưa đến 5%. Việc Mundell không thể hiểu được nguyên nhân vì sao cũng không phải là chuyện lạ.
Phải chăng ngân hàng quốc tế không biết gì về làm ăn? Đương nhiên là không phải. Trong suốt gần 300 năm kể từ khi thành lập vào năm 1694, Ngân hàng Anh đã xưng hùng xưng bá trên thị trường tài chính, đã trải qua mọi biến cố thăng trầm, thậm chí, đối với họ, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chỉ đáng là một cậu học trò nhỏ. Vì thế, nếu nói trắng ngân hàng Anh ngờ nghệch trong kinh doanh thì thật là nực cười.
Vậy tại sao Ngân hàng Anh lại hành xử một cách ngược đời như vậy? Chỉ có một lí do duy nhất: nỗi lo sợ. Họ không sợ giá vàng tiếp tục giảm xuống khiến cho nguồn dự trữ vàng mất hiệu lực mà lại sợ giá vàng tiếp tục tăng giá? Bởi trong sổ sách giấy tờ của ngân hàng thì vàng đã không cánh mà bay. Số vàng cần phải thu vào để ghi chép trong sổ sách kia có thể mãi mãi không thu hồi lại được.
Ferdinand Lips - một nhà tài phiệt ngân hàng Thuỵ Sĩ - đã từng nói rằng, nếu như người dân Anh biết được ngân hàng trung ương của họ xử trí một cách điên khùng và khinh suất như thế nào đối với nguồn tài sản chân chính (vàng) mà họ cố công tích luỹ trong suốt mấy trăm năm thì dưới đoạn đầu đài sẽ có khối hộp sọ nằm lổn nhổn. Nói một cách chính xác hơn, nếu người dân thế giới biết được các ngân hàng trung ương đã thao túng giá vàng như thế nào thì tội lỗi lớn nhất trong lịch sử loài người sẽ được phơi bày ra ánh sáng.
Vậy thì số vàng của ngân hàng Anh đã bốc hơi đi đâu? Hoá ra, số vàng này đã bị các nhà ngân hàng Anh mang đi cho các đồng nghiệp buôn vàng nén (Bullion Bankers) thuê mướn mất rồi.
Ngọn ngành của sự việc là thế này: đầu những năm 90, trục London - phố Wall hạ gục nền kinh tế Nhật, khống chế được tiến trình thống nhất tiền tệ châu Âu. Tuy tỏ ra hớn hở đắc chí nhưng các đại gia ngân hàng vẫn không thể nào lơ là mất cảnh giác với vàng. Nên nhớ rằng, đối với giới tài chính của trục London - phố Wall thì đồng tiền châu Âu và đồng yên Nhật chỉ là một cái mụn nhỏ mà thôi, trong khi vàng mới là khối u ác tính. Nếu một khi vàng trở nên có giá thì mọi hệ thống tiền tệ pháp định sẽ phải thần phục nó. Tuy không còn được coi là tiền tệ của thế giới, nhưng trước sau vàng vẫn là trở ngại lớn nhất đối với các nhà ngân hàng trong việc tước đoạt tài sản của người dân thế giới thông qua nạn lạm phát tiền tệ. Tuy bị “giam lỏng” nhưng vàng vẫn được coi là một thứ. tài sản quý với sức hấp dẫn mãnh liệt. Chỉ cần có chút biến động trong xã hội là người ta lập tức đổ xô đi mua vàng. Nếu muốn loại bỏ vàng thì các nhà ngân hàng quốc tế phải tìm cách “giam lỏng” vàng vĩnh viễn.
Nếu muốn thực hiện việc này, các nhà ngân hàng cần phải làm sao để cả thế giới thấy được rằng vàng là một thứ tài sản vô dụng và không có khả năng bảo vệ tiền bạc của người dân và cũng không thể trở thành một chỉ tiêu ổn định, thậm chí không có sức thu hút sự quan tâm của các nhà đầu cơ Vì vậy giá trị của vàng cần phải được khống chế nghiêm ngặt.
Năm 1968, rút kinh nghiệm xương máu từ thảm bại của “Quỹ hỗ trợ vàng”, các nhà ngân hàng quốc tế quyết không dùng vàng thực để làm thứ đối chọi với nhu cầu thị trường khổng lồ. Năm 1980, sau khi nâng mức lãi suất lên đến 20% và tạm thời khống chế được giá vàng đồng thời khôi phục được lòng tin của dân chúng vào đồng đô-la, các nhà ngân hàng bắt đầu sử dụng một loại vũ khí mới là công cụ tài chính phái sinh.
Binh pháp có câu “công tâm vi thượng, công thành vi hạ” (đánh vào lòng người mới là thượng sách, còn đánh thành chỉ là hạ sách mà thôi). Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế khá hiểu rõ chân lý này. Vàng cũng tốt, đô-la Mỹ cũng xong, mà cổ phiếu, công trái, bất động sản cũng đều chấp nhận được. Nhưng dù có dính dáng đến bất cứ thứ nào trong đó thì cũng có nghĩa là ta đang đùa giỡn với niềm tin! Mâ sản phẩm tài chính phái sinh chính là vũ khí niềm tin siêu cấp. Năm 1987, sau khi thử nghiệm thành công vụ nổ “bom hạt nhân tài chính phái sinh” trong cơn đại hoạ của thị trường chứng khoán, loại vũ khí này đã được đem ra sử dụng. Năm 1990, thứ vũ khí hiệu năng này lại được sử dụng một lần nữa trên thị trường chứng khoán Tokyo mà mức độ sức sát thương của nó khiến cho các nhà ngân hàng quốc tế hân hoan ra mặt. Tuy nhiên, cách thức này chỉ có hiệu quả trong một khoảng thời gian ngắn. Vì vàng được coi là mối đe doạ lớn đối với các nhà ngân hàng, để tạo ra sự đe doạ mang tính lâu dài đối với vàng, người ta cần phải sử dụng nhiều loại vũ khí đánh vào lòng tin của dân chúng.
Việc ngân hàng trung ương tư hữu khống chế để đem lượng vàng dự trữ quốc gia cho thuê là một trong những loại vũ khí hữu hiệu. Đầu những năm 90 của thế kỷ 20, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế bắt đầu tung ra một chiêu thức mới: cho các nhà ngân hàng thuê lại nguồn vàng đang lưu giữ trong kho của ngân hàng trung ương với lãi suất cho dù chỉ 1% bởi nếu không làm vậy thì lượng vàng đó cứ “ngủ yên” trong kho mà chẳng hề sinh lợi, lại còn tốn công lau bụi bám vào, tốn chi phi bảo quản. Quả nhiên, cách thức này đã nhanh chóng trở thành phong trào rầm rộ ở châu Âu.
Vậy thì các khách hàng thuê lại vàng của họ là những ai? Đó chính là các đại gia ngân hàng như công ty J.P. Morgan chẳng hạn. Dựa vào uy tín “tốt lành” của mình, họ “vay” vàng lừ tay các ngân hàng trung ương với lãi suất siêu rẻ 1%, rồi bán ra trên thị trường vàng, nhận một khoản hoa hồng rồi sau đó mua công trái Mỹ với lãi suất 5%. Như vậy, họ ăn chắc khoản lãi suất chênh lệch 4% và thủ đoạn này được gọi là “Giao dịch vàng hưởng lãi suất chênh lệch (Gold Carry Trade). Cứ như vậy, việc ngân hàng trung ương bán vàng rẻ mạt đã tạo ra sự ép buộc với giá vàng và giúp các nhà ngân hàng hưởng một khoản chênh lệch béo bở đồng thời còn kích thích được nhu cầu của dân chúng đối với công trái Mỹ. Như vậy, một mũi tên của các nhà ngân hàng đã trúng tới mấy đích.
Tuy nhiên, việc làm này vẫn hàm chứa một nguy cơ rủi ro. Phần lớn số vàng mà các nhà ngân hàng vay được từ ngân hàng trung ương là hợp đồng ngắn hạn, thường có hiệu lực trong khoảng 6 tháng, nhưng đối tượng đầu tư rất có thể là công trái dài hạn, và khi đến kỳ hạn, các ngân hàng trung ương đơn phương yêu cầu khách hàng hoàn trả lại số vàng đã vay. Lúc này, nếu giá vàng liên tục tăng cao thì tình cảnh của các nhà ngân hàng đi vay sẽ cực kỳ nguy hiểm.
Để phòng ngừa rủi ro này, các thiên tài phố Wall đã tập trung chú ý vào ngành sản xuất vàng. Họ không ngừng nhồi nhét vào đầu các nhà sản xuất vàng tư tưởng mang tính “tất yếu lịch sử” rằng, về lâu dài, giá vàng khai thác được sẽ giảm xuống, chỉ bằng cách chốt giá bán trong tương lai ngay thời điểm hiện tại thì họ mới có thể tránh được rủi ro. Ngoài ra, các nhà ngân hàng quốc tế còn có thể cung cấp một khoản vay lãi suất thấp khoảng 4% và cung cấp kinh phí cho ngành sản xuất vàng (khảo sát và khai phá). Mức lãi suất này khiến người ta khó có thể từ chối, hơn nữa, khi thấy giá vàng quốc tế biến đổi hàng năm, thay vì đợi đến sau này bán vàng hạ giá thì thà ngay bây giờ đem vàng còn nằm trong lòng đất bán ra với một giá tốt vẫn hơn. Điều này gọi là “hợp đồng viễn kỳ vàng” (bán vàng trước khi khai thác, Gold Forward Sale) Vậy là các nhà tài phiệt ngân hàng đã có trong tay một sản lượng vàng của tương lai và dùng chính số vàng này làm thế chấp cho việc hoàn trả nợ vay vàng của ngân hàng Trung ương. Hơn nữa, vì ngân hàng Trung ương và các nhà ngân hàng vay vàng vốn dĩ là người trong một nhà, cho nên “hợp đồng cho thuê“ gần như có thể kéo dài vô thời hạn (Loan Roll Over). Như vậy, các nhà tài phiệt ngân hàng vay vàng đã được bảo hiểm kép.
Sau một thời gian ngắn thực hiện ý tưởng này, các thiên tài phố Wall lại bắt đầu tung ra thị trường một loạt sản phẩm tài chính phái sinh mới như Hợp đồng giao hàng chậm (Spot Defered Sales), hợp đồng viễn kỳ điều kiện (Contingent Forward), hợp đồng viễn kỳ biến lượng (Variable Volume Forward), Đối xung Delta (Delta Hedging), và các loài hợp đồng quyền kỳ hạn khác.
Dưới sự trợ giúp của các ngân hàng đầu tư, ngành công nghiệp sản xuất vàng bắt đầu tham gia tích cực vào các hoạt động đầu cơ tài chính chưa từng thấy trước đó. Ngành sản xuất vàng của các nước bắt đầu ồ ạt đem lượng vàng dự trữ dưới lòng đất quy tính thành sản lượng hiện hữu để tiến hành “bán trước”. Ngành sản xuất vàng của Úc thậm chí còn đem sản lượng vàng trong 7 năm tới bán ra ngoài. Tổng số hợp đồng sản phẩm tài chính phái sinh mà Ashanti - công ty sản xuất vàng quan trọng của Ghana, Tây Phi - đã mua dưới sự “tham mưu” của Goldman Sachs và 16 nhà ngân hàng đã lên đến 2500 bản, đến tháng 6 năm 1999, tài sản thể hiện trên sổ sách của công ty này đã đại mức 290 triệu đô-la Mỹ. Các nhà bình luận chỉ ra rằng, các công ty sản xuất vàng đang dùng kim loại quý này để đầu cơ mạo hiểm.
Trong trào lưu “cách mạng đối xung” đang dâng lên trong ngành sản xuất vàng, công ty vàng Barrick có thể được xem là một ví dụ điển hình về quy mô hoạt động. Quy mô đối xung của Barrisk đã vượt qua phạm trù hợp lý của việc khống chế rủi ro, vì thế cũng chẳng có gì sai nếu nói sách lược của công ty này là một canh bạc lớn về tài chính. Trong hành động mua khống vàng một chiều với số lượng lớn, Barrick đã tạo ra sự ép giá mang tính cạnh tranh giữa các đơn vị cùng ngành, và kết quả tất yếu là thị trường không còn cơ hội để tồn tại. Trong báo cáo thường niên của mình, Barrick đã thổi phồng sách lượng đối xung phức tạp nhằm khiến cho họ có thể bán vàng ra với giá cao hơn thị trường.
Thực ra, một phần trong số vàng mà Barrick bán được trên thị trường là vàng “vay” với lãi suất thấp từ các ngân hàng trung ương. Khoản thu nhập có được từ việc bán tháo lượng vàng “vay” này trên thị trường được dùng để mua công trái Mỹ. Khoản chênh lệch lãi suất từ việc mua bán này chính là kết quả diệu kỳ được sinh ra từ cái gọi là “công cụ đối xung phức tạp“ - một trò bịp bợm tài chính điển hình.
Tuy nhiên, giá vàng không ngừng tuột dốc, và điều này phù hợp với lợi ích của các bên tham gia. Khi giá vàng tuột dốc, do đã chốt giá bán ra, các đơn vị sản xuất vàng đã biến báo giá vàng trên giấy tờ sổ sách và khẳng định rằng vàng sẽ còn tăng giá. Vậy là, ngành sản xuất vàng trở thành kẻ đồng loã trong việc làm cho giá vàng sụt giảm một cách kỳ quái. Thực ra, thứ mà ngành sản xuất vàng có được chỉ là thứ lợi lộc nhất thời, còn cái mất đi lại là lợi ích lâu dài.
Rush More - Chủ tịch uỷ ban hành động chống lũng đoạn vàng (Gold Anti-trust Action Committee) đã gọi Barrick là “Gold Cartel”. Thành viên chính của tập đoàn này bao gồm: công ty J.P. Morgan, ngân hàng Anh, Deutsche Bank, ngân hàng Hoa Kỳ, Công ty Goldman Sachs, ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS), Bộ tài chính Mỹ và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Trong khi giá vàng được đẩy lên cao không ngừng do nhu cầu thị trường tăng mạnh thì ngân hàng trung ương lại đột kích vào tuyến thứ nhất bằng việc công khai bán tháo một lượng lớn vàng, mãi cho đến khi các nhà đầu tư cảm thấy khiếp sợ mới thôi.
Trong phiên điều trần tại uỷ ban ngân hàng hạ nghị viện tháng 7 năm 1998, Greenspan đã lên tiếng nói rằng: “Vàng là một loại hàng hoá có rất nhiều sản phẩm tài chính phái sinh được tiến hành giao dịch ngoài thị trường. Nhà đầu tư không thể khống chế lượng cung ứng vàng, nếu như giá vàng tăng thì các ngân hàng trung ương sẽ “cho thuê“ vàng dự trữ bất cứ lúc nào”. Hay nói cách khác, Greenspan đã công khai thừa nhận, nếu cần thiết, giá vàng hoàn toàn nằm dưới sự khống chế của các nhà ngân hàng trung ương.
Tháng 3 năm 1999, chiến tranh Kosovo bùng phát, tình hình đã có sự thay đổi. Cuộc tập kích của khối NATO chưa thể đạt hiệu quả sớm như mong muốn của các nhà hoạch định chiến lược, trong khi đó, giá vàng không ngừng leo thang. Một khi giá vàng liên tục tăng và bị mất kiểm soát thì các nhà ngân hàng tất yếu phải gom vàng với giá cao trên thị trường để hoàn trả lại cho các ngân hàng trung ương. Nếu trên thị trường không có nhiều hàng hoá hoặc ngành sản xuất vàng lấy sản lượng vàng chưa khai thác dưới lòng đất làm thế chấp lâm vào cảnh phá sản, hoặc trữ lượng vàng dưới đất không đủ, thì không chỉ nhà ngân hàng quốc tế phải gánh chịu tổn thất nặng nề mà khoản dự trữ vàng của các nhà ngân hàng trung ương cũng sẽ thiếu hụt trầm trọng. Nếu như sự việc bại lộ thì ắt sẽ có kẻ phải bước lên đoạn dầu đài. Trong tình huống khẩn cấp như vậy, ngày 7 tháng 5 năm 1999, ngân hàng Anh đã phải ra tay.
Trong tình cảnh này, tháng 9 năm 1999, các nhà tài phiệt ngân hàng trung ương châu Âu đã ký “thoả thuận Washington” nhằm hạn chế tổng lượng vàng bán ra hoặc cho thuê trong vòng năm năm tới của các nước. Tin tức truyền đi, lãi suất vàng “cho thuê” đã nhảy vọt từ 1% lên đến 9% trong vòng mấy tiếng đồng hồ, khiến cho các nhà sản xuất làm khống vàng và sản phẩm tài chính phái sinh của các nhà đầu cơ đều bị tổn thất thảm hại.
Thị trường vàng sôi động trong gần 20 năm cuối cùng cũng đã chấm dứt thời hoàng kim của mình và mở ra một tương lai ảm đạm cho thị trường hàng hoá.
Năm 1999 đánh dấu một bước ngoặc chiến lược quan trọng trên chiến trường vàng. Thời điểm này được ví như cuộc chiến tranh bảo vệ Volgagrad trong thế chiến thứ hai vậy Kể từ đây, các nhà ngân hàng vẫn chưa thể giành được thế chủ động trên chiến trường vàng. Hệ thống tiền tệ pháp định lấy đồng đô-la Mỹ làm biểu tượng đã phải lùi bước trước sự tấn công mạnh mẽ của vàng.
Ngoài việc khống chế giá vàng, các nhà ngân hàng quốc tế còn đặt nền móng cho cuộc chiến trường thứ hai - cuộc chiến dư luận và cuộc chiến học thuật. Thành công lớn nhất của các nhà ngân hàng quốc tế chính là việc “tẩy não” một cách hệ thống đối với giới kinh tế học, dẫn dắt giới học thuật bước vào trò lường gạt dân thường. Trong khi phần lớn các nhà kinh tế học hiện đại đặt ra câu hỏi đầy nghi vấn về công dụng của vàng thì các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế lại cảm thấy hí hửng điều đó có nghĩa là mọi việc vẫn còn đang nằm trong tầm khống chế của họ.
Vậy chế độ tiền tệ pháp định có gì không tốt? Không phải là chúng ta đã sống dưới chế độ tiền tệ pháp định này suốt 30 năm rồi đó sao? Kinh tế không phải là đang phát triển như thường đó sao?
Câu trả lời của John Exeter - nguyên Phó Chủ tịch ngân hàng New York thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và phó chủ tịch tập đoàn Hoa Kỳ là:
Với một hệ thống như vậy, chẳng có quốc gia nào cần phải chi trả tiền bảo đảm giá trị tiền gửi cho một quốc gia khác. Bởi họ không chịu sự trói buộc của quy luật hối đoái (tiền vàng). Chúng la có thể dùng tiền giấy để mua dầu, bất kể với số lượng tiền in là bao nhiêu. Các nhà kinh tế học đã xem thường khát vọng của nhân dân đối với một loại tiền tệ có thể dùng làm tài sản tích trữ. Trên thực tế, họ đã từ chối thừa nhận vàng là tiền tệ mà nhận định một cách võ đoán rằng vàng chỉ là một loại hàng hoá phổ biến giống như chì hay kẽm và chẳng có vị trí gì trong hệ thống tiền tệ. Thậm chí họ còn đề nghị Bộ tài chính ngừng tiếp tục tích trữ vàng đồng thời từng bước bán tháo vàng ra thị trường. Sau khi xử lý xong vàng, họ bắt đầu tuỳ ý xác định giá trị của tiền giấy. Họ đã không cho chúng la biết làm thế nào mà thứ giấy nợ “IOU” luôn tăng trưởng với tốc độ thần kỳ lại có thể thực hiện được chức năng bảo đảm giá trị tiền tệ. Hầu như họ hoàn toàn không ý thức được rằng việc dùng loại tiền giấy có tốc độ phát triển sẽ có ngày tạo nên gánh nặng nợ nần.
Keynes và Friedman chỉ là phiên bản của John Law trong thế kỷ 20. Họ đã xem thường luật hoán đổi từ tiền giấy sang vàng và cố ý sử dụng bộ óc của các nhà kinh tế học hoặc các chính trị gia cho việc in ấn tiền giấy. Họ cho rằng, điều này có thể đi ngược với quy luật tự nhiên, tạo nên của cải theo cách bịa đặt dối trá, triệt tiêu chu kỳ thương mại, đảm bảo toàn dân luôn có việc làm và xã hội mãi mãi phồn thịnh. Điều này cũng có nghĩa rằng một số nhà kinh tế học nào đó đã đặt ra chính sách theo khuynh hướng chính trị riêng mà không cần mạo hiểm tiền bạc của bản thân. Họ sử dùng trí tuệ kiểu John Law thời đó, nghĩa là uyên bác, tuỳ ý quyết định chính sách tiền tệ, tài chính, thu thuế, thương mại, giá cả, thu nhập, và thậm chí còn nói cho chúng ta biết rằng những điều này là tốt nhất cho chúng ta. Như vậy họ đã điều khiển nền kinh tế vi mô của chúng ta.
Đại đa số các nhà kinh tế học hiện nay đều là những người được các học trò của Keynes “bồi dưỡng” và “huấn luyện”, bao gồm cả những người đã giành được giải thưởng Nobel như Paul A. Samuelson - tác giả của cuốn giáo trình “Kinh tế học” nổi tiếng. Trong giáo trình của ông đầy rẫy những công thức số học và các loại biểu đồ. Nhưng khi đọc đến quan điểm của ông đối với vàng, người ta mới phát hiện ra rằng, cách nhìn của ông ta hầu như chẳng có giá trị lịch sử nào mà tỏ ra hết sức nông cạn. Ông là một trường hợp điển hình của giới học thuật thế kỷ 20 - những người coi thường việc nghiên cứu lịch sử của vàng, hoặc là vì một số lý do nào đó mà chọn cách cố ý xem thường(12).
Trong một bài bình luận nổi tiếng về vàng sau năm 1968, Samuelson đã nói thế này: “Cuối cùng, vàng đã bị tiền tệ hoá hoàn toàn. Giá trị của nó hoàn toàn do quan hệ cung cầu quyết định, cũng chẳng khác gì đồng, lúa mạch, bạc hay muối cả. Nếu như đã mua vàng với giá 55 đô-la Mỹ/ounce và bán ra với giá 68 đô-la Mỹ/ounce, một tù trưởng của vùng Trung Đông nhất định sẽ kiếm được bộn tiền. Nhưng nếu như mua vào với giá 55 đô-la Mỹ mà bán tháo ra với giá 38,5 đô la thậm chí là 33 đô-la Mỹ/ounce thì đảm bảo rằng ông ta sẽ thua đến mức chẳng còn áo mà mặc”.
Samuelson tin rằng, một khi vàng bị hất văng khỏi hệ thống tiền tệ thì nhu cầu đối với vàng chỉ hạn chế trong mấy loại nhu cầu công nghiệp rất nhỏ như ngành trang sức. Cho nên, ngày 15 tháng 8 năm 1971, sau khi Nixon đóng cửa vàng, hiệp ước Bretton Woods không còn hiệu lực thì vàng đã không còn là tiền tệ nữa, và cũng chẳng còn ai cần đến vàng nữa. Đến năm 1973, vị giáo sư này cho rằng, mức 75 đô-la Mỹ/ounce vàng năm 1972 nhất định sẽ không duy trì được lâu cuối cùng giá vàng có thể sẽ rớt xuống mức dưới 35 đô-la Mỹ/ounce. Điều khiến vị giáo sư này ngọng miệng chính là bảy năm sau, giá vàng đã tăng vọt lên đến 850 đô-la Mỹ/ounce.
May là Samuelson không giữ chức giám đốc Quỹ đối xung của phố Wall, nếu không thì thứ mà ông ta mất đã không chỉ là quần áo trên người.

7. Cảnh báo cấp I: Năm 2004, Rothschild rút lui khỏi hệ thống định giá vàng

Nguồn gốc của mọi quyền lực đều thể hiện ở quyền định giá thông qua quá trình khống chế giá cả để thực hiện phương thức phân phối của cải theo kiểu “lợi mình, hại người”. Việc tranh giành quyền định giá cũng khốc liệt như sự tranh giành địa vị đế vương vậy và luôn chứa đầy những âm mưu và dối trá. Hiếm khi giá cả được sinh ra một cách tự nhiên, phía chiếm ưu thế vốn dĩ không từ bất cứ thủ đoạn nào để bảo vệ lợi ích của mình, và điều này chẳng có sự khác biệt nào về bản chất so với chiến tranh. Để bàn về vấn đề giá cả, chúng ta cần phải liên tưởng tới việc nghiên cứu chiến tranh nhằm tiếp cận được hình ảnh gốc của sự việc. Đặt ra giá cả, lật ngược giá cả, bóp méo giá cả, thao túng giá cả đều là kết quả của những cuộc đọ sức quyết liệt lặp đi lặp lại giữa những người trong cuộc. Nếu không có yếu tố con người làm bối cảnh tham chiếu thì chúng ta không thể hiểu rõ quỹ đạo hình thành giá cả.
Điều thú vị là cả người ngồi ở vị trí ông chủ phát hiệu lệnh lẫn số đông những kẻ phục tùng đều có cảm giác đau như hoạn. Xét từ góc độ vàng, ai khống chế được các nhà buôn vàng lớn nhất thế giới thì người đó khống chế được giá vàng. Khống chế là việc làm cho các nhà buôn vàng chủ động hoặc bị động chấp nhận sự sắp đặt cấp cao hơn về quyền lực vì lợi ích hoặc do bị ép buộc.
Trong suốt gần 200 năm kể từ cuộc chiến tranh Napoleon năm 1815, gia tộc Rothschild đã đoạt được quyền định giá vàng. Thể chế định giá vàng hiện đại được ban bố vào ngày 12 tháng 9 năm 1919, khi năm đại biểu của các tập đoàn tài chính lớn tụ tập ở ngân hàng Rothschild. Lúc này, giá vàng được định ở mức 4 bảng 18 shiling 9 penny, tức khoảng 7,5 đô-la Mỹ. Đến năm 1968, việc định giá vàng vẫn không hề thay đổi, dù đã sử dụng đồng đô-la Mỹ để xác định mức giá vàng. Ngoài gia tộc Rothschild còn có các đại diện của Mocatta & Goldsmid, Pixley & Abell, Samuel Montagu & Co., Sharps Wilkins tham gia vào việc định giá vàng lần thứ nhất. Sau đó, trong nhiều năm liền, gia tộc Rothschild đóng vai trò Chủ tịch kiêm đơn vị chủ trì triệu tập cuộc họp. Kể từ đó, năm vị đại biểu họp mặt hai lần một ngày ở ngân hàng Rothschild để thảo luận về giá vàng. Bắt đầu phiên giao dịch, chủ tịch ra giá vàng, sau đó giá này được chuyển đến các sàn giao dịch bằng điện thoại. Sau khi xác định được lượng nhu cầu và căn cứ vào giá thoả thuận giữa bên mua và bán, chủ tịch tuyên bố giá vàng được “xác lập” (The London Good Fix).
Chế độ định giá vàng này được vận hành liên tục mãi đến năm 2004.
Ngày 14 tháng 4 năm 2004, dòng họ Rothschild đột nhiên rút lui khỏi hệ thống định giá vàng London. Tin này lập tức làm chấn động các nhà đầu tư trên toàn thế giới. David Rothschild giải thích rằng: “thu nhập trong giao dịch (bao gồm cả vàng) của chúng tôi ở thị trường hàng hoá London trong thời gian 5 năm qua đã giảm xuống đến mức chưa bằng 1% tổng thu nhập của chúng tôi. Xét từ góc độ phân tích chiến lược, kinh doanh vàng đã không còn là nghiệp vụ chính của chúng tôi nữa, vì thế chúng tôi quyết định rút lui khỏi thị trường này”.
Ngày 16 tháng 4, tờ Financial Times của Anh lập tức phụ hoạ rằng, “Đúng như Keynes đã từng nói, “di tích dã man” này (vàng) đang dần trở thành bụi trần của lịch sử. Việc gia tộc Rothschild rút lui khỏi thị trường vàng đã khiến cho Ngân hàng Pháp “chảnh” là thế cũng phải cân nhấc kho dự trữ vàng của mình. Và trong vai trò là một sản phẩm đầu tư, vàng đang đến hồi giãy chết”.
Không chỉ vậy, ngày 1 tháng 6, tập đoàn AIG - một tên tuổi lẫy lừng trên thị trường giao dịch bạc trắng - đã tuyên bố rút lui khỏi hệ thống định giá bạc, tự nguyện giáng cấp xuống làm nhà giao dịch bình thường.
Cả hai việc này đều có vẻ hết sức kỳ quặc.
Lẽ nào dòng họ Rothschild đã thật sự xem nhẹ vàng? Nếu không phải thế thì tại sao họ không rút lui vào thời điểm giá vàng xuống đến điểm thấp nhất trong lịch sử vào năm 1999 mà lại phải rửa tay gác kiếm vào thời điểm giá vàng bạc đang thịnh như năm 2004?
Một khả năng khác chính là giá vàng bạc cuối cùng sẽ mất kiểm soát, và một khi âm mưu khống chế giá vàng và bạc bị bại lộ thì người nắm quyền khống chế sẽ trở thành kẻ thù chung của thế giới. Cắt đứt mối quan hệ với vàng một cách đột ngột, gia tộc Rothschild sẽ tránh được sự nguyền rủa của người đời nếu như mười năm sau giá vàng bạc có trục trặc.
Đừng quên rằng, tứ trước tới nay, gia tộc Rothschild luôn nắm giữ mạng lưới tình báo chiến lược có hiệu suất cao nhất, bí mật nhất trên thế giới. Nhà Rothschild nắm giữ những nguồn thông tin quý giá nhất, tuyệt mật nhất. Mưu cao kế hiểm cộng thêm nguồn tài chính khổng lồ cũng như khả năng thu thập, phân tích thông tin một cách hiệu quả đã giúp cho gia tộc này nắm giữ số phận của cả thế giới từ hơn 200 năm qua.
Việc gia tộc này đột ngột tuyên bố rút lui khỏi thị trường vàng - một thị trường béo bở mà họ đã lao tâm khổ tứ trong suốt 200 năm qua - đã không còn là chuyện bình thường.

8. Ngày tận thế của nền kinh tế bong bóng

Để tạo nên sự bất mãn của quốc tế đối với Trung Quốc đồng thời hòng che dấu mưu đồ tăng giá dầu để kích thích nhu cầu đối với đồng đô-la Mỹ, trục phố Wall - London khăng khăng cho rằng, nguyên nhân của việc mất cân đối trong cung cầu giá dầu trong thời gian gần đây xuất phát từ sự phát triển quá nóng của nền kinh tế Trung Quốc. Hệt như năm 1973, giới tài phiệt trục phố Wall - London đã tăng giá dầu lên 400% để kích thích nhu cầu đối với đồng đô-la Mỹ đồng thời đổ toàn bộ trách nhiệm về việc tăng giá dầu cho chính sách cấm vận dầu mỏ của các quốc gia Trung Đông.
Từ những năm 70, do vàng bị “giam lỏng”, thị trường chứng khoán thế giới và thị trường hàng hoá chủ lực tăng giảm ngược chiều nhau. Thập niên 70, thị trường hàng hoá chủ lực cực kỳ sôi động, trong khi thị trường chứng khoán lại suy sụp trong thời gian đó. Trong suốt 18 năm liền kể từ đầu thập niên 80, thị trường chứng khoán sa sút mạnh, nhưng lúc này, thị trường hàng hoá chủ lực lại tăng trưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2001, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường hàng hoá chủ lực, các thị trường khác như cổ phiếu, cho vay tín dụng, bất động sản, thị trường tài chính phái sinh cũng đồng bộ tăng trưởng mạnh. Xét ở khía cạnh bề ngoài thì có vẻ như đồng đô-la Mỹ tăng giá trị, nhưng trên thực tế, do công nợ đồng đô-la tạo ra mà mọi khoản nợ đều đến hạn chi trả lãi suất, kết quả là, chỉ cần tăng thêm sức chứa, chiếc vò đựng cả thị trường hàng hoá chủ lực lẫn thị trường chứng khoán có thể tiêu hoá hết lượng đô-la dư thừa. Tuy nhiên, vì quá nhiều nên đồng đô-la Mỹ đã tràn ra ngoài chiếc vò này.
Vấn đề là làm thế nào để tìm được một chiếc vò có sức chứa lớn như thế Các thiên tài phố Wall bắt đầu bàn luận về khái niệm dung lượng vô hạn của thị trường tài chính phái sinh. Họ liên tiếp tung ra thị trường các “sản phẩm tài chính” mới với số lượng lớn. Họ không chỉ nghĩ đến tiền tệ, công trái, hàng hoá, cổ phiếu, tín dụng, lãi suất, mà còn sáng tạo ra những trò chơi mới và trên cơ sở lý luận này, họ có thể đem sự tốt xấu của mỗi ngày trong một năm tương lai rồi dán nhãn đồng đô-la Mỹ lên để bán ra thị trường. Tương tự, họ có thể đem mỗi giở trong mỗi ngày của 100 năm trong tương lai thế giới, thậm chí là cả động đất, núi lửa, lũ lụt, hạn hán, hoả hoạn, bệnh dịch truyền nhiễm, tai nạn giao thông, hôn nhân ma chay… để biến thành “sản phẩm tài chính phái sinh” và đàng hoàng giao dịch trên thị trường tài chính. Vì vậy, có thể nói rằng, thị trường tài chính phái sinh chính là thứ sản phẩm mang tính vô hạn định. Điều thú vị là, luận điệu này ít nhiều có nét tương đồng với sự cố Y2K vốn được đẩy đến cực điểm trong năm 1999, khi các nhà phân tích phố Wall tuyên bố một cách chắc nịch rằng cần phải phân phối địa chỉ IP đến mỗi hạt cát trên trái đất này.
Trong khi người đời đang lên cơn “sốt” cao như vậy thì bão táp tài chính cũng đã cận kề trong gang tấc.
Giá vàng tăng mạnh và liên tục sẽ vô tình đẩy lãi suất nợ vay dài hạn của Mỹ lên cao, do các nhà ngân hàng quốc tế đã chào bán ra thị trường tài chính hợp đồng “bảo hiểm lãi suất” lên đến mấy trăm nghìn tỉ đô-la Mỹ, đảm bảo lãi suất dài hạn sẽ không tăng lên, nhưng một khi lãi suất nợ dài hạn bị ép bởi giá vàng thì các nhà ngân hàng quốc tế sẽ để lộ mưu đồ của họ do lòng tham của bản thân tạo ra.
Mục tiêu đầu tiên sẽ là thị trường sản phẩm tài chính phái sinh - quả bong bóng phình to siêu cấp của “lãi suất vượt kỳ“ trị giá 74 nghìn tỉ đô-la Mỹ (chỉ tính riêng số liệu được ngân hàng thương nghiệp Mỹ công bố). Các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ với 3,5% vốn trong tay sẽ chẳng khác nào trứng để đầu gậy. Với sự sụt giảm giá vàng đột ngột, mức dao động lãi suất của công trái biến động khác thường, phòng tuyến đối xung lãi suất yếu ớt của các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ sẽ bị phá vỡ trước tiên, công trái ngắn hạn của các doanh nghiệp này trị giá 4 nghìn tỉ đô-la sẽ hoàn toàn mất đi tính thanh khoản chỉ trong thời gian ngắn. Cùng rơi vào thảm cảnh còn có ông chủ của Morgan - kẻ chuyên lũng đoạn thị trường tài chính phái sinh và thị trường phái sinh vàng. Như vậy, họ buộc phải tìm cách xoay chuyển cục diện áp chế giá vàng và lãi suất dài hạn.
Việc thị trường tài chính phái sinh sụp đổ trước tiên sẽ làm giảm tính thanh khoản của các sản phẩm tài chính tiền tệ. Ngay khi ý đồ bán tháo các loại “hợp đồng bảo hiểm” hiện có trong tay của các nhà đầu tư thế giới trớ - thành hiện thực, nền tảng của những sản phẩm phái sinh như tiền tệ, công trái, hàng hoá, dầu mỏ, cổ phiếu sẽ đồng thời bị ảnh hưởng theo hiệu ứng domino, tính thanh khoản của thị trường tài chính quốc tế sẽ bùng phát khủng hoảng trên quy mô lớn. Để cứu vãn đống hoang tàn của thị trường tài chính vốn hết thuốc chữa, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ buộc phải phát hành thêm đồng đô-la với số lượng lớn. Ngay khi mấy chục nghìn tỉ đô-la được phát hành thêm như sóng biển dội vào nền kinh tế thế giới, thì nền kinh tế trên toàn cầu sẽ rơi vào cảnh hỗn loạn.
Sau 30 năm kể từ khi ngân hàng quốc tế âm mưu loại bỏ bản vị vàng, nước Mỹ đã dự chi 80% lượng tích luỹ của thế giới. Đến nay, mỗi ngày nước Mỹ cần “hút” một khoản tích luỹ 2 tỉ đô-la từ cơ thể người dân các nước trên thế giới để có thể khiến cho “cỗ máy kinh tế vĩnh cửu' của nước này vận hành tiếp được, tốc độ tăng của các khoản nợ và lãi suất của nước Mỹ đã vượt rất xa sức tăng trưởng của nền kinh tế thế giới. Đến khi mọi nguồn tích luỹ vàng bạc của các quốc gia bị rút sạch thì cũng chính là ngày tận thế của nền tài chính thế giới. Liệu ngày này có đến hay không? Vấn đề không phải là có hay không, mà là vào thời gian nào và cách thức ra sao.
Hệ thống bong bóng đô-la Mỹ thoạt nhìn thì có vẻ đồ sộ nhưng hiểm hoạ của nó chính là nằm ở hai chữ lòng tin. Và vàng chính là ngón đòn “nhất dương chỉ” đã điểm trúng huyệt vị này.

CHÚ THÍCH

(1) Irving Fisher, 100% tiền tệ (100% Money) - Pickering & Chatto Ltd; 11/1996.
(2) Murray N. Rothbard, Bí ẩn của ngân hàng (The Mistery of Banking) - E P. Dutton, 1983, tr. 61.
(3) Cơ học tiền tệ hiện đại (Modern Money Mechamcs), Ngân hàng dự trữ liên bang Chicago.
(4) Báo cáo của cơ quan kiểm soát tiền tệ về các hoạt động dẫn xuất ngân hàng quý hai 2006.
(5) Dam Hamilton, J.P. Morgan Chase - quái vật khổng lồ (The J.P.M. Derivatives Monster) - Nghiên cứu năm 2001.
(6) Diễn văn của William Poole (Chủ tịch Ngân hàng dự trữ St. Louis), Rủi ro của các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ, 2005.
(7) Fannie Mae, Freddie Mac và nhu cầu cho sự đổi mới các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ (Fannie Mae, Freddie Mac and the need for GSE reform), OFHEO.
(8) Diễn văn của William Poole (Chủ tịch Ngân hàng dự trữ St. Louis), Rủi ro của các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ, 2005.
(91 Robert Kiyosaki, Mùi vị của nợ nần (A Taste of Debt) - Yahoo Finace Experts Column 31/10/2006).
(10) Robert Kiyosaki, Đánh cược vào vàng chứ không phái đánh cược vào tiền (Bet on Gold, Not on Funny Money (Yahoo Finace Experts Column July 25, 2006).
(11) Ferdinand Lips, Cuộc chiến vàng: Trận chiến chống lại tiền tệ từ cách nhìn của người Thuỵ Sĩ (Gold War, The Battle Against Sound Money as Seen From a Swiss Perspective) - New York: The Foundation for the Advancement of Monetary Education 2001, tr. 125.
(12) Ferdinand Lips, Cuộc chiến vàng: Trận chiến chống lại tiền tệ từ cách nhìn của người Thuỵ Sĩ (Gold War, The Battle Against Sound Money as Seen From a Swiss Perspective) - New York: The Foundation for the Advancement of Monetary Education 2001, tr. 86, 87.