Chương I - 1-
Ở K65 thị xã Sơn Tây

    
“gồi đó!”
“Ngồi đó!”
“Ngồi xuống!”
“Ngồi xuống đó!”
Một hai ba ông không nhìn tôi chỉ cái ghế quay lưng ngay ở cửa ra vào nói. Tôi ngồi xuống, rồi dớm người kéo vạt áo bông lên. Hình như hai cái bàn đâu lại với nhau. Ghế, ghế xung quanh. Tôi nghe tiếng chân ghế kéo lẹt xẹt trên nền xi măng. Rất nhiều ông đã ngồi trước. Rất nhiều ông đội mũ cát dạ, kiểu Trung Quốc, kiểu Liên Xô; một hai ba cái mũ bê-rê. Tất cả đều mặc áo ấm, áo đại cán và áo bông, và choàng khăn cùng một loại bằng len, chỉ khác màu, lấm tấm đỏ đen xanh trắng. Tôi lấy thuốc ra hút. Trước mặt tôi là cái cửa sổ to rộng, nhiều cánh, không có song và tàng cây xanh ở ngoài xa. Sột soạt, với tiếng ghế đụng nhau, họ soạn sổ sách, giấy bút. Tất cả bọn họ đều là một màu xanh đậm đen và đen, và to phồng. Mặt của họ đỏ, đen chì, trắng xám, có mặt đỏ láng. Số đông bọn họ đều già, tuổi từ 50 trở lên. Có một hai người suýt soát trên dưới 40. Bọn họ đều lạ đối với tôi và hầu hết tôi không biết tên, và nếu tôi có biết thì cũng nghe họ xưng hô với nhau. Tôi cũng không biết rõ họ là ai, ở đâu đến.
Tôi nghe có tiếng nói giữa đám người đó, giọng Thừa Thiên pha giọng Bắc rất khó chịu:
“Thôi, làm đi!”
Ông vừa nói tên Lai, mặt đỏ láng.
Một người mở tờ giấy ra để trước mặt và đọc:
“Họ và tên: Nguyễn Đính. Sinh ngày: 12-12-1942...”
Người đó dướng hai con mắt khỏi cặp kính ngó tôi; nói bằng giọng Quảng cũng pha Bắc chớt chớt:
“Thật không?”
Tôi ngó người đó không trả lời. Người đó cuối xuống đọc tiếp. Trong lúc ông này đọc lý lịch của tôi, tất cả bọn họ đều ngó chằm tôi. Một ông trễ kính xuống đầu chót mũi dướng mắt ngó; một ông nghiêng đầu sang ông bên cạnh miệng mấp máy, mắt liếc xéo tôi; một ông dim mắt tay đỡ cằm ngó tôi; một ông dựa ngửa nhìn tôi qua khói thuốc; một ông miệng méo như cười, tai đụng vai ngó tôi, ông nữa phía bên cạnh chống tay một bên đầu, răng cắn vào môi ngó tôi; ông nữa cắn gọng kính khịt mũi ngó tôi; ông nữa vừa xoay vừa thổ xuống mặt bàn cái bi-kê Trung Quốc, đánh hai hàm răng theo nhịp ngó tôi; ông nữa mím thít hai hàm răng, bạnh cằm ra ngó tôi; ông nữa cắn răng vào khẩu tay ngó tôi; ông nữa ngửa mặt lên trần ngó mắt xuống vào tôi.
Ông kia đọc xong, một ông khác dựa ngửa gõ gõ cả bàn tay xuống mặt bàn, gục gặc đầu, hất hàm hỏi:
“Anh khai thật chứ?”
Tôi nghe tiếng nước chảy dưới nhà lỏng bỏng. Có tiếng đàn bà nói:
“Mở nước ra rồi thì phải đóng lại chứ. Lãng phí thế này...”
Tiếng nước chảy to hơn, nước đổ vào cái thau men thì phải; tiếng bọt sủi, nước tràn rồi. Chỗ này thỉnh thoảng tôi hay rửa chân cho mát khi đi qua đây. Tiếng nước tắt. Tiếng người đàn bà:
“Đun nước lên con!”
“Từ ngày ra Bắc đến bây giờ anh đã làm gì?” Cái ông tên Lai mặt đỏ láng, đội mũ cát xanh gần như đen kiểu Trung Quốc, lắc người trên ghế. Khi cái ghế dừng lại, ông ta chồm người ra phía trước, nói như thế. Hai con mắt ngó thẳng vào tôi. Hết câu ông ta dựa ngửa người lại, mười ngón tay gõ hết lên mặt bàn, điếu Điện Biên bao bạc ngậm trên miệng, đầu hất ra phía trước, cằm đụng vào cái cổ áo lông màu đà. Hai hàm răng ông Lai đó mở ra:
“Nói đi và nói thật!”
Có tiếng kẹt bi-kê. Tôi rút một điếu thuốc, rối vuốt điếu thuốc cho thẳng. Tôi đưa điếu thuốc lên môi, hai bàn tay đan vào nhau trên mặt bàn. Tôi không hút. Tôi khịt mũi, rồi lấy điếu thuốc ra khỏi miệng và nhổ từng sợi thuốc dính trên môi ra. Tôi hút thuốc.
Hôm đó là sáng 25 tháng 1 năm 1972 tại Viện điều dưỡng K65 ở Thị xã Sơn Tây.
Đêm hôm qua, khoảng bảy tám giờ, tôi thấy có một người đàn ông trên 50 tuổi vào phòng tôi ngồi nói chuyện với ông già người Phú Yên tên Giác ở cùng phòng với tôi. Trong khi nói chuyện, thỉnh thoảng ông người lạ này giả đò bâng quơ nhìn tôi. Lúc đó tôi ngồi ở phòng trong. Tôi không để ý đến thái độ của ông ta. Tôi đang đọc và viết.
Bảy giờ sáng hôm sau, ngày 25-1-1972, ông trưởng khối bệnh nhân đến gặp tôi nói:
“Anh qua gác hai nhà C, có mấy anh ở trên gặp”.
Thôi, tôi bị rồi. Tôi đi dọc dãy hành lang. Những con mắt, những con mắt ngó tôi không như thường. Họ biết hết tôi rồi. Họ đã cùng nhau họp hành, sắp xếp hết cho tôi rồi. Tôi bị dòm ngó như một con quỷ sứ bắt đầu từ dãy hành lang này, từ ngày này.
Gần một tháng nay tôi đã đoán biết mọi sự rồi sẽ xảy ra cho tôi. Nhưng tôi không biết người ta sẽ xử tôi như thế nào và bằng cách nào. Cách đây một tháng, bà bác sĩ chủ nhiệm khoa tôi ở, tên Quy, đến báo cho tôi biết:
“Sáng mai anh về E2 kiểm tra sức khỏe và nhất là để chụp phim lại cái dạ dày. Anh nhớ mang theo quần áo để dùng trong một tuần”.
E2 là bệnh viện dành cho cán bộ miền Nam ra Bắc chữa bệnh. Bệnh viện này ở làng Cổ Nhuế cách trường đảng Nguyễn Ái Quốc độ ba trăm mét. Về E2 kiểm tra sức khỏe là phải ở lại đó một tuần. Tôi hoàn toàn không biết đây là sự sắp xếp của Ban bảo vệ Đảng (thuộc Ban Thống nhất của Chính Phủ) (?) và Cục đón tiếp cán bộ B. (Tất cả các cơ quan bí mật hay công khai này tôi không biết rõ, chỉ gọi chung là Ban Thống nhất hoặc Cục đón tiếp).
Tôi lại cho là tôi gặp may, vì đây là một dịp tôi ở gần Hà Nội để đi chơi với Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính Tình (bí danh là Hồ Thanh) và những anh em bạn bè khác. Hơn nữa, thường sau một thời gian chữa bệnh, người nào được kiểm tra lại sức khỏe tức là sắp sửa chuẩn bị vào Nam lại. Lúc này tôi rất muốn trở lại chiến trường. Tôi vui. Những ngày ở E2 thỉnh thoảng tôi về Hà Nội ở chơi với bạn bè. Thời gian này tôi viết tiếp cho xong bài thơ dài trên 500 câu: “Bản Thánh ca của một người dựa cột đình liếm lá bánh”. Một sáng thứ bảy tôi thanh toán tiền ăn của tôi những ngày ở E2 (tất cả đều trên giấy tờ). Sáng Chủ nhật tôi qua K10 ở Gia Lâm thăm ông Sự. Ông Sự là Phó ban tuyên huấn Thành ủy Huế ra Bắc chữa bệnh và học tập. Lúc đó, ông ta đang ở K10 bồi dưỡng sức khỏe chuẩn bị vào Nam. Tôi ngỏ ý với ông Sự là tôi muốn trở lại chiến trường và nhờ ông tạo điều kiện cho tôi vào càng sớm càng tốt. Khác với những lần gặp trước, bao giờ ông Sự cũng hỏi tôi đã khỏe chưa, vết thương ở đầu gối và cái bụng thế nào, có đủ sức leo dốc không. Lần này ông Sự chỉ ậm à ậm ừ với tôi. Tôi không để ý đến thái độ lạnh nhạt của ông đối với tôi. Tôi hỏi ông:
“Bao giờ anh vào lại?”
Ông Sự loay hoay xếp dọn, lục lọi, tìm kiếm những thứ vặt vãnh giấy má gì đó giữa giường, trong ba lô với những cử chỉ, động tác của chân tay quờ quạng lúng túng, thừa một cách vô ích, thỉnh thoảng lại khịt mũi vài cái. Ông nói không nhìn tôi:
“Cũng chưa biết nữa”.
Rồi xoay qua xoay lại Ông nói lảng một mình:
“Chà không biết để mô hè?”
Tôi đi gặp một vài người quen ở các phòng gần đó. Lúc tôi quay lại thì ông Sự đã đi đâu rồi. Tôi tìm một miếng giấy loại để đi cầu. Tôi thấy ở dưới đất phía trên đầu giường của ông Sự một tờ giấy vo tròn lại. Tôi nhặt lên. Vào ngồi trong cầu, tôi trăn tờ giấy ra, hoàn toàn tình cờ. Chữ của thằng Trần Nguyên Vấn, bằng bút bi bấm màu xanh viết trên giấy kẻ ngang, tờ ét, xếp đôi. Hèn gì ông Sự đối xử với mình lạnh nhạt và đờ đẫn. Lâu nay tôi có hơi nghi thằng Nguyễn Viết Trác (chứ không nghĩ nó có thể phản tôi), tôi nghi ngờ về lòng thành thật và thẳng thắn của hắn. Khi nói chuyện với tôi, nhất là về chuyện chính trị, về tình trạng xã hội ở miền Bắc, về chiến tranh, về Đảng... hắn bao giờ cũng chỉ ậm ờ và làm ra vẻ lắng nghe, và không bao giờ tỏ vẻ phản đối hay đồng ý. Còn thằng Trần Nguyên Vấn, hắn ở với tôi cùng một cơ quan trong rừng. Lúc ra Hà Nội cho đến lúc này, hình như tôi có gặp một hai lần gì đó. Nó không biết gì về tôi lúc ở miền Bắc hết. Chỉ có thằng Trác. Tôi giật mình và đắng cuống cổ. Tôi hoàn toàn không ngờ và cho đến hôm nay, ngày 25 tháng 1 năm 1972, người ta đem xử tôi, tôi cũng không nghĩ là người ta đã xử sự với tôi như thế. Không phải là công việc của họ đã được tổ chức và âm mưu một cách bí mật, rất tài nên tôi không biết được. Thực sự lúc này đây, lúc tôi đang ngồi trong cầu tiêu của K10 này, tôi đã dự đoán được một đôi điều sẽ xảy đến cho tôi và tôi đã biết người muốn “lật tẩy phản động, chống Đảng” của tôi là ai. Tôi cho rằng tôi không có gì phải sợ về những điều tôi viết trong nhật ký và trong những bài thơ của tôi lúc tôi ở miền Bắc. Trong thư gửi cho ông Sự mà tình cờ tôi tưởng là giấy loại đó và lúc này tôi ngồi trong nhà cầu đang đọc đây, thằng Vấn báo cho ông Sự biết công việc của hắn và thằng Trác, đại ý thế này: Cả hai đứa đã làm việc với Ban bảo vệ Đảng và Cục đón tiếp cán bộ B về tôi và hỏi ý kiến ông Sự với tư cách là thủ trưởng của tôi về cách xử lý trường hợp của tôi như thế nào. Cứ như lời lẽ trong thư thì thằng Vấn không nói trắng ra nhưng cố giành phần lớn công cho hắn về việc “phát hiện tôi là một tên phản động chống Đảng”. Khoảng năm 1978, 1979 gì đó; Võ Quê có nói với tôi “ông Trác luôn vỗ ngực cho là mình đã lập được một công lớn là phát hiện Trần Vàng Sao là một tên phản động”. Võ Đại Ngẫu kể hồi 1976 hắn gặp thằng Vấn ở Hà Nội, thằng Vấn cũng vỗ ngực giành công kịp thời tố cáo tôi là một tên phản động chống Đảng.
Tôi vò lá thư của thằng Vấn lại như cũ và xé bao thuốc thay vào cho việc riêng của tôi trong nhà cầu. Tôi bỏ lại lá thư vào chỗ cũ dưới thềm nhà trên đầu giường của ông Sự. Tôi nghĩ một cách dại rằng như thế làm như tôi không biết gì về âm mưu của thằng Trác, thằng Vấn với ông Sự. Tiếc là tôi đã không giữ được lá thư đó. Nhưng nếu tôi có giữ thì sau này cũng bị tịch thu.
Tôi chào ông Sự rồi về Hà Nội. Gặp Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính Tình tôi chỉ nói: Sáng thứ hai tao lên Sơn Tây. Loanh quanh luẩn quẩn trong Hà Nội với anh em bè bạn, mượn một vài cuốn sách, mua một vài tờ báo rồi về bệnh viện E2. Tôi hoàn toàn không biết kể từ lúc này tôi đang bị theo dõi sát nút. Tôi đi đâu, đến nhà ai, gặp ai ở Hà Nội người ta đều biết.
Sáng thứ hai có xe, tôi lên Sơn Tây. Tôi sống trong một tâm trạng bồn chồn, lo lắng, không yên. Trước sau tôi cũng bị. Thằng Trác cố tránh tôi. Tôi hoàn toàn không biết là thời gian tôi ở bệnh viện E2, va ly của tôi đã bị lục soát. Và thằng Trác chủ mưu trong việc này. (Lúc tôi về E2 tôi gửi chìa khóa va ly cho hắn). Vài ngày sau đó tôi tìm cách đốt mấy tập nhật ký của tôi rất dày, khoảng 4, 5 tập vở một trăm trang viết hai mặt. Việc đốt tập nhật ký rất khó. Tôi đã đốt và làm như việc đốt giấy loại. Có khi tôi đốt trước mặt mọi người, nhưng không ai để ý. Có khi nhân chuyện làm vệ sinh đốt rác, tôi xé nhỏ các tập vở lấp rác lên rồi đốt. Tôi làm như một kẻ không có việc chi làm lấy chuyện đốt rác nhìn lửa cháy khói bay cho vui.
Và bây giờ đây tôi đang bị tra tấn trong cái phòng của căn nhà C này.
“Từ ngày ra Bắc đến nay anh đã làm gì? Hãy khai đi, khai cho thật”.
Bây giờ cái ông tên Lai mặt đỏ láng này không nói “hãy nói” nữa mà “hãy khai đi”.
Những người chung quanh tôi mặt mày lạnh tanh. Tôi có cảm tưởng họ bất động. Tôi nói:
“Tôi không biết các anh muốn tôi khai cái gì?”
Cái ông Lai đó ngó căm vào tôi:
“Anh khai hết tất cả những việc mà anh đã làm từ ngày ra Bắc đến nay”.
“Nhưng mà việc gì mới khai được chứ? Tại sao tôi lại phải khai? Tôi không biết các anh muốn gì?”
Những người chung quanh tôi động đậy. Có người cầm tách nước lên uống; có người đổi thế ngồi; có người phịp phịp trong miệng. Ông tên Lai trề môi dưới, gật gật cái đầu, dim mắt nhìn tôi. Ông ta hừ trong miệng một tiếng:
“Anh đừng có giả vờ. Anh tưởng anh qua mặt được chúng tôi hả? Chúng tôi biết hết anh rồi. Anh thành thật đi cho rồi”.
Đến lúc này thành thật mà nói tôi không hiểu họ muốn gì ở tôi. Tôi nói:
“Tôi ra Bắc làm gì các anh đều đã biết”.
Có tiếng “hử” và tiếng khịt mũi.
“Này, tôi nói cho anh biết. Anh không giấu được chúng tôi đâu. Tất cả những việc làm của anh chúng tôi đã biết và có đầy đủ tài liệu làm bằng cớ. Anh thành khẩn sẽ được khoan hồng”. Cũng cái ông tên Lai đó nói.
Đã đến nước này, tôi bực lắm rồi:
“Tôi không hiểu các anh muốn tôi nói gì. Tôi ra Bắc nằm ở E2, lên E1 và bây giờ ở K65. Những việc đó các anh đã biết rồi”.
“Anh ngoan cố, không chịu thành khẩn”.
Ông Lai đó hất hàm cho một người trong bọn. Ông này khoảng dưới bốn mươi tuổi. Ông ta thủng thẳng hỏi tôi:
“Anh Đính, chúng tôi gặp anh hôm nay là tạo cho anh một cơ hội để anh sớm thức tỉnh, đừng đi sâu thêm nữa vào con đường tội lỗi của anh. Anh nên thành thật khai hết những việc làm của anh”.
Ông ta nghỉ một lát, rồi nói tiếp:
“Khi ra Bắc, ai giao nhiệm vụ cho anh? Nhiệm vụ đó là nhiệm vụ gì? Anh đã gặp ai, ở đâu, bao giờ? Anh đã tổ chức họ như thế nào? Công việc của anh hiện nay đã tiến hành đến đâu? Anh phải nói thật, nói hết, không được giấu giếm. Sinh mạng của anh là do nơi sự thành khẩn của anh quyết định đó”.
Đợi cho ông này nói xong, một ông khác một tay dựa lên thành ghế, một tay đặt trên bàn, nghiêng người về phía tôi, nó thêm vào:
“Chúng tôi biết hết những việc anh làm, nhưng chúng tôi muốn tự anh nói ra hết. Vì chỉ có như thế, anh mới hưởng được lượng khoan hồng của Đảng”.
A, thì ra như thế. Bây giờ thì tôi hiểu ra rồi, họ nói tôi là CIA. Như thế tôi chẳng cần gì phải đối phó gì với họ về điều này nữa. Tôi dựa ngửa người ra và hút thuốc. Thái độ của tôi làm cho họ bực tức. Tôi nói:
“Tôi đau dạ dày và bị thương. Tôi được Thành ủy Huế cho ra Bắc chữa bệnh”.
Ông tên Lai đó chồm người ra phía trước, cùi tay chống lên bàn, rung rung ngón tay trỏ chỉ vào tôi, lần này ông ta nói to, dằn từng tiếng một:
“Đến lúc này mà anh vẫn còn ngoan cố. Được, chúng tôi có cách để cho anh phải khai thật, nhưng chúng tôi vẫn muốn chính anh thành thật khai báo để cho anh có cơ hội được hưởng khoan hồng của Đảng. Anh nghe chưa?”
“Tôi có gì mà ngoan cố. Tôi được Thành ủy Huế cho ra Bắc chữa bệnh. Tôi có làm gì đâu mà các anh bảo tôi phải khai báo”.
“Thôi được. Anh không nói, nhưng rồi anh cũng phải nói”.
Cái ông độ dưới bốn mươi tuổi mở cặp ra, cái cặp da rất to màu đen, loại cặp đựng sách vở của học trò (loại cặp bấy giờ khó thấy có ở miền Bắc). Bây giờ tôi mới để ý người nào trong bọn họ cũng có cặp xách riêng. Một hai người có cặp to, còn phần đông là xách. Ông này lấy trong cặp ra một cái cặp bìa cứng dày to đựng toàn giấy. Ông ta lật lật giấy tờ. Trong lúc đó, ông tên Lai vẫn cái giọng dữ tợn hỏi tôi:
“Anh đã viết gì trong nhật ký?”
Hỏi chi lạ. Tôi nói:
“Tôi không thể nhớ hết được”.
“Được rồi, anh phải nhớ”.
Cái ông dưới bốn mươi tuổi đó để hai tay lên cặp giấy mở ra trước mặt, nói:
“Anh Đính, tất nhiên đã gọi anh đến đây để làm việc, chúng tôi phải có đầy đủ hồ sơ và bằng chứng về anh. Anh đừng tưởng là tôi nói thế để dọa anh đâu, cũng không phải nói thế để lừa anh. Chúng tôi chỉ muốn cứu anh. Một người có học như anh tôi chắc anh hiểu được những hậu quả của việc làm của mình lâu nay”.
Tôi uống nước và ngó ra ngoài cửa sổ. Trời khô và lạnh. Không khí bắt đầu căng thẳng. Trên mặt của họ đã lộ vẻ căm tức. Họ không còn như bất động nữa. Tiếng giày dép kéo trên sàn nhà; tiếng áo quần xát trên ghế; chân ghế đụng chân bàn. Bọn họ xoay người, nghiêng, ngửa, đổi thế ngồi, chống tay lên cằm, cắn môi, cắn ngón tay, đẩy gương sát vào mắt, đẩy tách nước ra xa, bẻ ngón tay.
Ông tên Lai, chắc ông ta là trưởng đoàn của đoàn người tra khảo tôi, nói, nói nhanh:
“Tôi biết hiện nay anh đang nghĩ gì về chúng tôi. Tôi biết những gì đang chứa trong đầu óc của anh. Tôi nói thẳng anh là một tên phản động, chống Đảng. Anh căm thù chúng tôi, căm thù chủ nghĩa xã hội, căm thù chế độ này. Anh đang âm mưu lật đổ chế độ này. Có phải chính anh đã kêu gọi biểu tình, viết báo chữ to lật đổ chế độ này hay không? Anh sợ? Anh chối à? Nói đi, nói đi, có phải không?”
Ông ta chồm người ra trước dằn giọng:
“Đây, đây này, anh đòi bắn, đòi treo cổ tất cả bọn chúng nó; đã đến lúc phải biểu tình, viết báo chữ to tố cáo tội ác của chúng nó”.
Ông ta dừng lại, bỏ kính xuống bàn nghe cạch:
“Có phải anh đã viết trong nhật ký như thế không?”
“Tôi không nhớ”.
“Anh viết mà anh lại không nhớ à?”
“Làm sao tôi nhớ hết những gì tôi viết”.
Cái ông trẻ dưới bốn mươi tuổi đứng dậy, xoay người ra phía sau lấy cái cặp da để đứng dưới sàn nhà. Cái cặp đã mở sẵn. Ông ta xây lưng về phía tôi. Ông rút ra một tờ giấy đưa ra trước mặt tôi:
“Cái gì đây? Có phải chữ của anh không?”
“Phải?”
Đó là bức ảnh chụp một trang nhật ký của tôi, khổ bằng tờ giấy kẻ ngang. Đến lúc này tôi mới biết là toàn bộ nhật ký của tôi đã bị chụp ảnh trong thời gian tôi về bệnh viện E2 để kiểm tra sức khỏe, và bây giờ tôi mới biết việc tôi đi E2 kiểm tra sức khỏe là một sự xếp đặt của Ban Thống nhất Trung ương, Cục đón tiếp cán bộ B và Cục 78.
Ông Lai nói:
“Anh hết chối chưa?”
Mọi người ở đây đều đã biết trước sự việc sẽ diễn tiến ra sao rồi. Tối hôm qua họ đã họp với nhau bàn kế hoạch.
“Tại sao anh lại đòi bắn, đòi treo cổ? Bắn ai, treo cổ ai? Nói đi!”
Tôi nói:
“Tôi đòi bắn tất cả những kẻ nào, người nào đã ăn đường, sữa, tã lót của trẻ con, ăn hòm, vải liệm của người chết, những kẻ đã đẩy con dân vào chiến trường còn con cháu họ thì qua Liên Xô, Bulgari, Hungari...”
“Anh đòi bắn cả Trung ương Đảng kia mà”.
“Nếu trong Trung ương Đảng, trong Chính phủ có người nào đã ăn như thế, theo tôi, đều đem bắn được hết”.
“Anh lại còn kêu gọi biểu tình?”
“Tôi đâu có kêu gọi ai. Tôi nói là đã đến lúc phải làm như thế”.
“Vì sao lại viết báo chữ to?”
“Viết báo chữ to để mọi người đều biết”.
“Mọi người là ai?”
“Nhân dân”.
“Nhân dân, hừ”, một ông chỉ vào mặt tôi, “nhân dân! Anh làm gì có nhân dân. Nhân dân theo Đảng làm cách mạng, đổ xương, đổ máu để có được như ngày nay. Nhân dân của anh là nhân dân kiểu Mỹ Ngụy. Anh là kẻ thù của nhân dân thì có”.
Giọng ông ta mỗi lúc một to, mỗi lúc mỗi gấp.
“Anh là một tên gian dối. Anh khai lý lịch không thật. Anh bảo anh thuộc tầng lớp dân nghèo thành thị. Anh tưởng anh qua mặt được tổ chức à? Dân nghèo thành thị dưới chế độ Mỹ Ngụy mà học hành được như anh à, mà lại lên được đại học như anh à? Không phải là tư sản thì gia đình anh cũng thuộc tầng lớp tay sai Mỹ Ngụy. Đúng là Mỹ Ngụy đã đào tạo anh không uổng. Anh chui rúc vào tổ chức cách mạng cũng khá sâu, anh Đính”.
Ông ta dừng lại. Một vài người trong đám người này gật gật đầu tán thưởng ý kiến của ông ta. Một vài người ghé đầu vào nhau to nhỏ. Ông ta nói tiếp vừa nói vừa nhìn xuống cuốn sổ:
“Theo tôi, tất cả những tư tưởng phản động của anh trong nhật ký, trong thơ không phải chỉ là lẻ tẻ, ngây thơ, không phải là do nhận thức bị hạn chế. Tất cả đều có hệ thống, đều nằm trong một hệ thống, từ văn chương đến triết học, chế độ xã hội chủ nghĩa, Quốc hội, chuyên chính vô sản, sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức quần chúng, hạn chế sinh đẻ, sinh hoạt xã hội, chiến tranh, các đồng chí lãnh tụ, thậm chí cái áo, cái quần, lon sữa miếng đường, rác rưởi đều có trong nhật ký của anh, đều bị anh xuyên tạc, nói xấu. Anh xem cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta hiện nay là máu, là chết chóc. Anh không phân biệt được chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc. Anh lên án tất cả mọi cuộc chiến tranh, cho chiến tranh là ghê tởm”.
Cái ông dưới 40 tuổi lại chìa ra một bức ảnh:
“Có phải như thế không?”
Đó là bức ảnh chụp một trang nhật ký của tôi, trong đó có đoạn tôi nói về chiến tranh. Tôi không nhớ nguyên văn, đại ý tôi cho rằng tất cả mọi cuộc chiến tranh đều là thảm họa, đều là máu và xác chết. Tôi ghê tởm và sợ chiến tranh. Hình như tôi có dẫn lời của một người nào đó nói về trận đánh ở Nam Lào: “Đó là một chiến thắng vĩ đại, nhưng hết sức đau lòng, vì có quá nhiều người chết mà đều là người Việt Nam”.
“Vậy là anh đã không phân biệt địch và ta, tức là anh đứng về phía kẻ thù. Anh ghê tởm cuộc chiến tranh này, tức là anh chấp nhận cuộc chiến tranh xâm lược, anh cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai là chính nghĩa”.
Một ông khoảng 57, 58 tuổi mặc áo đại cán màu nâu, ngồi đối diện với tôi ở cuối hai cái bàn đâu lại, từ nãy giờ không nói, bây giờ vươn hai tay ra trước và nhìn vào xấp giấy để trên bàn, nói:
“Đây này, anh viết bằng tiếng Pháp, đại ý: ‘Chiến tranh là thế đấy con hãy nhìn và nhớ lấy, vâng, chiến tranh là thế đấy, là chết chóc, hận thù, hủy diệt, là làm cho con người quên tất cả những tình cảm nhân loại’. Hừ, nhân loại, nhân dân! Nhân loại, nhân dân của anh là nhân loại, nhân dân của bọn tư sản, đế quốc. Chủ nghĩa của bọn thực dân đã làm cho anh trở nên ngu đần”.
Tôi nhớ tôi có ghi lại trong nhật ký lần tôi, Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính Tình đi thăm ông Nguyễn Đóa, ông Tôn Thất Dương Tiềm và bà Nguyễn Đình Chi ở phố Nguyễn Du, Hà Nội. Lúc đó những người này ở trong Mặt trận Liên minh thành phố Huế ra Hà Nội cư trú. Ông Đóa là thầy dạy Pháp văn, ông Tiềm là thầy dạy quốc văn của tôi năm đệ tứ ở trường Bồ Đề Huế. Tôi nói với thầy Đóa: “Thưa thầy, con nhớ mãi câu mà thầy dạy bọn con năm học đệ tứ ở Bồ Đề”. Tôi đọc câu nói về chiến tranh đó bằng tiếng Pháp. Thầy Đóa xua tay: “Thôi, thôi.....”. Tôi biết lúc đó, trong hoàn cảnh đó thầy ngại.
Cái ông trẻ dưới 40 này (thôi cứ tạm gọi ông ta tên Thanh) nói tiếp theo liền:
“Rõ ràng đây anh Đính này. Anh viết: ‘Đâm mũi chông vào ngực kẻ thù, tôi tự do và trở thành thi sĩ’.”
Ông ta đọc thêm một số câu trích trong bài “Những con đường đã đi qua và những con đường sẽ đi tới” của tôi viết khoảng đầu năm 1968 lúc còn ở trong rừng, trong đó có những câu nói về những bàn tay rướm máu vì kéo thép gai (tôi không nhớ rõ nguyên văn). Hình như ông ta có đọc câu: “hàng cờ bay trên đống thịt người” thì phải.
Ông mặc áo đại cán màu nâu giải thích thêm:
“Kẻ thù? Hừ! Anh đã để lộ rõ con người thật của anh rồi. Kẻ thù ở đây, thưa các đồng chí, là kẻ thù của anh ta, là cách mạng, là chúng ta ngồi ở đây. Anh ta đâm vào cách mạng, vào Đảng để anh được tự do và trở thành nhà thơ. Kinh thật! Còn những người kéo thép gai tay rướm máu, đó là anh muốn ám chỉ các chiến sĩ giải phóng phải sống cuộc sống đọa đày... chớ gì nữa”.
Tôi không cãi gì thêm mệt. Khoảng tháng 11-1968, tôi có làm bài thơ tưởng niệm Trần Quang Long (hy sinh tháng 10-1968 tại chiến trường Tây Ninh) và dán trên tờ báo tường của Chi đoàn Thanh niên thuộc cơ quan Thanh vận Thành ủy Huế (C90). Tôi nhớ mấy câu của Trần Quang Long trong bài “Thưa mẹ trái tim”:
Con sẽ vót nhọn thơ thành chông
Xuyên vào gan lũ giặc
.........
Và tôi viết:
Đâm mũi chông vào ngực kẻ thù
tôi tự do
và trở thành thi sĩ
Tôi chỉ nói:
“Chỉ có ta mới dùng chông chứ địch không dùng chông. Còn những bàn tay kéo thép gai rướm máu là tôi nói đến những người sống trong vùng địch bị bắt đi xây đồn đắp lũy”.
Cái ông 57, 58 tuổi mặc dại cán màu nâu, xoay sang hỏi tôi:
“Trong nhật ký anh có viết mấy chữ tắt C. C., nghĩa là gì?”
“Comité Central”.
“Vì sao anh lại viết tắt mà không viết thẳng ra là Trung ương Đảng?”
“Đó là thói quen ghi chép của tôi. Tôi viết cho tôi”.
“Anh cố ý che mắt những người nào đó tình cờ đọc nhật ký của anh chứ gì nữa? Đây, anh viết...”
Ông ta chìa cho tôi một tấm ảnh khác.
“Một câu tiếng Pháp có nghĩa như thế này: “Cách mạng cần lao muôn năm!” Anh có giấu ý đồ của anh ở đâu cho được. Anh vẫn nuôi mộng Bắc tiến của bọn Cần lao nhân vị Ngô Đình Diệm”.
Tôi cấm bức ảnh đọc và nói:
“Không phải như thế. Tôi viết thế này: “Vive la révolution prolétarienne!”, nghĩa là “cách mạng vô sản muôn năm!”. Đó không phải tôi nói, câu đó là của Lenine”.
Tôi biết đây là một sự cố tình xuyên tạc của ông ta. Ông ta có lẽ là người duy nhất trong đoàn khảo tra tôi biết tiếng Pháp. Ông ta là người tra vấn tôi về những đoạn ghi chép, trích dẫn của tôi bằng tiếng Pháp. Nhưng từ đó, người ta vẫn cứ buộc tôi là một tên CIA-Cần-lao-nhân-vị-tay-sai-Mỹ-Ngụy, “muốn phục hồi một chế độ đã từng lê máy chém khắp miền Nam sát hại nhân dân, tiêu diệt cách mạng, một chế độ mà ngay nhân dân miền Nam đã đạp đổ từ năm 1963”.
Ông này nói tiếp, ông coi như không có những lời của tôi nói vừa rồi.
“Cho nên tôi nói thẳng cho anh biết rằng trong máu anh đã có sẵn máu phản động chống Cộng rồi. Những tư tưởng suy nghĩ như thế sẽ dẫn anh đến hành động chống đối, làm loạn”.
Rồi ông ta chuyển sang vấn đề khác:
“Trường Nguyễn Ái Quốc là một trường Đảng nổi tiếng khắp thế giới mà anh cũng không trừ ra. Anh cho trường Nguyễn Ái Quốc chỉ đào tạo những mẫu người trung thành với chế độ, với Đảng mà không có đầu óc suy nghĩ độc lập, thậm chí anh còn nói là có những người mới học có lớp bốn trên danh nghĩa, chữ viết còn sai chính tả mà cũng học lớp trung cấp, cao cấp Nguyễn Ái Quốc”.
Trong nhật ký tôi có ghi lại lần Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính Tình và tôi gặp ông Phạm Như Cương với ông Tịnh và một bà nào đó (hình như tên Quỳ thì phải) tại Viện Triết học ở Hà Nội. Trong câu chuyện tôi có nói đại ý: trường Nguyễn Ái Quốc đã đào tạo được những cán bộ trung thành với đường lối và chủ trương của Đảng, nhưng không đào tạo được những con người có đầu óc phản tỉnh, suy nghĩ độc lập, nhất là về mặt tư tưởng triết học. Hình như ít có người (hay là không có người) sau khi học xong có thể viết được một bài ngắn về triết học Mác-Lênin, một vài dòng về bản tuyên ngôn Đảng Cộng sản...
Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính Tình nói: “Những thứ mà các anh gọi là triết học đã dạy ở các trường Đảng chỉ là một thứ triết học hành chính, mà hết chữ cho nên phải dùng hai chữ triết học đó...”.
Tôi có nói: “Theo tôi, tinh thần triết học trước hết là đối thoại. Đối với triết học Mác-Lênin thì không có đối thoại. Vì chủ nghĩa Mác-Lênin là vô địch, là bách chiến bách thắng, là muôn năm. Đối thoại ở đây là vô ích mà còn bị... tù nữa là khác. Bởi vì các anh hãy cất khẩu súng trong hộc bàn đi khi nói chuyện triết học, văn chương với người khác... Đối với các anh, chủ nghĩa Mác-Lênin là đỉnh cao tuyệt vời nhất của nhân loại, và xưa nay, chỉ có tư tưởng, triết học Mác-Lênin là triết học chân chính, duy nhất vĩ đại. Thậm chí, trong các bài giảng, sách vở của các anh, các anh đã khinh bỉ Hegel. Các anh cố tìm xem trong nhân loại xưa nay, có ai có tư tưởng duy vật hay không. Và nếu có ai, na ná như thế, hoặc các anh tự gán ép na ná như thế, và kết luận: một thứ chủ nghĩa duy vật ngây thơ, tự phát... và những người đó, các anh cho là... tiến bộ... còn toàn thể là duy tâm phản động...”.
Tôi nói, thằng Ngô nói, thằng Tình nói... Ông Phạm Như Cương (tôi không nhớ lúc đó có phải ông ta là Viện trưởng Viện triết học hay không) vẫn để tay trên cuốn sách mở ra làm như đang đọc nữa chừng: Les Problèmes de la dialectique dans le Capital de Karl Marx của Rosenthal (bản dịch từ tiếng Nga, cuốn này đã có bản dịch tiếng Việt). Sau này khi nghe tin tôi là một tên phản động, ông ta nói: “CIA giỏi thật, cài anh ta vào sâu đến như thế”.
Ông tên Lai nói tiếp:
“Đối với anh ta chỉ có triết học duy tâm phản động của bọn đế quốc tư bản mới là triết học. Đúng anh ta là một tên phản động nguy hiểm. Đây, nhật ký của anh ta đây. Anh đã nói gì về Quốc hội, về Đảng... Anh ta tỏ ra khinh bỉ giới tri thức miền Bắc, anh cho đó chỉ là những kẻ nói thuội, Đảng dạy gì nói nấy, không có đầu óc suy nghĩ độc lập, sợ. Trí thức, học giả được phân sách gì, tài liệu gì để đọc là phân theo tiêu chuẩn thịt, đường, sữa. Người này tiêu chuẩn một tháng một lạng thịt thì chỉ được đọc sách này, người kia năm lạng một cân thì đọc sách này. Anh nói gì mà vô học thế. Nhưng người viết phê bình văn học... thì chỉ biết trích dẫn Nghị quyết, phê bình văn học miền Nam thì cái gì cũng Mỹ Ngụy hết. Đối với anh ta chỉ có bọn Nhân văn-Giai phẩm phản động chống Đảng mới là nhà văn thực sự”.
Tôi nói:
“Tôi nói điều này cho rõ. Còn chữ viết của tôi đó. Trong nhật ký tôi có nhắc lại một lần trong cuộc nói chuyện với bạn bè ở Huế khoảng 1961, 1962 gì đó, một người bạn tôi tên là Lê Văn Mỹ (tôi cầm bức ảnh chụp những trang nhật ký của tôi đưa ra trước mặt họ), có nói: “Ở miền Bắc của mi chỉ có nhóm Nhân văn-Giai phẩm là có tư cách của người cầm bút” (Đại ý như thế tôi không nhớ rõ nguyên văn)”.
Ông Lai không để cho tôi nói nữa, ông ta dằn dọng:
“Còn văn chương chữ nghĩa của anh thì thế nào?”
Tôi nói cho anh biết: Mỹ Ngụy đã nhồi nhét vào đầu óc anh những tư tưởng phản động, chống đối. Nó làm cho anh trở nên mù quáng, phản động. Bác Hồ, giọng ông ta chậm lại và đằm thắm hết gắt gỏng, Bác Hồ là một vị lãnh tụ của nhân dân ta, của Đảng ta, cả thế giới đều kính phục, ngay cả kẻ thù, bọn Mỹ Ngụy cũng phải kính phục. Thế mà anh, anh, ông ta la to lên, chính anh đã nói xấu Bác. Đây này, đây này, thơ anh đây này.
Ông dưới 40 tuổi tên Thanh cầm một tờ giấy lên nói:
“Trong bài “Sân khấu II” anh ta viết:
Một tập sách giấy hồng
Ghi lời thánh
Ông thánh già đã chết
Bác Hồ chứ còn ai nữa? Ở một chỗ khác, cũng trong bài này:
A ha tôi là một tên hề
Một tên hề không có râu
Một tên hề không có bánh mì mà ăn
Anh ta nói đến Bác Tôn Đức Thắng đấy”.
Quay sang tôi ông ta gắt với vẻ dọa nạt:
“Có phải anh đã viết ra đó không? Anh căm thù chế độ này, Anh nói xấu Bác Hồ. Anh hết rồi. Bác mà anh cũng nói như thế thì còn gì nữa. Giọng ông này trầm dần lại. Hình như có một lúc những người xung quanh tôi xúc động. Có một người Việt Nam đã xúc phạm Bác Hồ. Bác Hồ không ai được đụng đến, không ai được nói xấu, không ai được nói khác về Bác những gì Đảng đã cho phép. Bác là vĩ đại, nên phải ngợi ca và chỉ được ngợi ca, mà có ngợi ca cũng chỉ được phép trong khuôn phép của Đảng.
Chung quanh tôi có những tiếng động lạo xạo, giấy, quần áo, cặp da, túi xách nhựa, giày dép, chén uống nước, lạo xạo, lạo xạo. Mọi người đều xúc động và nổi điên vì tôi đã xúc phạm đến Bác Hồ”.
Tôi nói:
“Tôi làm thơ, còn việc hiểu thơ tôi như thế nào đó là quyền của người đọc. Tôi là tác giả, tôi không nói gì thêm (thật ra lúc này tôi dám nói gì). Nhưng không lý, bác Tôn Đức Thắng lại không có bánh mì mà ăn”.
Một người khác lớn tiếng chỉ vào mặt tôi:
“Thế ông thánh già là ai? Anh ám chỉ Hồ chủ tịch chứ gì nữa? Hả, hả”.
Tôi nói:
“Thánh thần Phật thì nhiều, tôi chưa nghe ai gọi Bác Hồ là thánh cả, mà chỉ nghe nói Bác Hồ cũng chỉ là một người như mọi người...”
“Ngoan cố! Ngoan cố! Anh đừng lấp lửng vô ích. Chính trong đoạn ghi chép đây này”. Ông ta chìa ra cho tôi một bức ảnh. “Anh viết... tên Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh... Các lãnh tụ đáng kính của Đảng ta, của nhân dân ta mà anh gọi bằng “tên”. Anh phản động thật. Hãy nói đi bọn địch cài anh vào tổ chức cách mạng với nhiệm vụ gì? Nói đi!”
Tôi đã là kẻ đối địch với họ, họ coi tôi là kẻ thù và ngày mai sẽ là kẻ tử thù.
Tôi cầm tấm ảnh, nói:
“Tôi viết thế này còn đây: “Hễ mỗi lần những nhà nghiên cứu, phê bình văn học lúng túng không tìm ra lối thoát thì họ lại dẫn ra những tên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng... và chỉ thị, nghị quyết của Đảng ra làm bằng cớ và bùa phép. Vì không ai dám cãi lại...”. Chữ tên ở đây có nghĩa là tên tuổi, chứ không phải như các anh hiểu...”
“Lấp lửng”.
“Có gì mà lấp lửng. Tôi viết cho tôi kia mà, có phải viết cho các anh đọc đâu mà lấp lửng”. Ông tên Lai gầm mặt nhìn tôi:
“Chúng tôi không cần anh phải biện bạch, giải thích gì hết. Vô ích. Tất cả những điều anh viết ra đó đã nói lên hết con người của anh là thế nào rồi. Điều mà chúng tôi muốn chính anh nói ra là ai đã tổ chức anh? Từ ngày ra miền Bắc anh đã làm gì, liên hệ với ai, công việc đã tiến hành tới đâu? Anh đừng để chúng tôi dẫn ra bằng cớ”.
Lúc này tinh thần tôi căng thẳng. Đã có dấu hiệu của những cơn dạ dày hành hạ. Nhưng tôi không sợ gì hết, thành thật mà nói như vậy. Cái thất sách của họ là nói tôi là CIA.
Ông Lai tiếp, giọng khi không có dịu bớt và chậm lại:
“Anh Đính, anh có thương mẹ anh không?”
Mới nghe nói như thế là tôi đã lộn ruột lên rồi. Đồ mất dạy.
“Nếu anh thương mẹ anh, chắc anh nghĩ rằng sẽ có ngày anh về gặp lại mẹ anh. Anh hãy khai thật đi, khai hết đi, chỉ có như thế anh mới hy vọng có cơ hội gặp lại mẹ anh”.
Thằng Trác, cả thằng Vấn nữa, là những thằng bẩn thỉu, vô lương, mất dạy. Tôi thường nói chuyện với chúng về mẹ tôi, và chính trong nhật ký tôi viết rất nhiều về mẹ tôi. Đối với tôi, trên đời này tôi chỉ còn có mẹ tôi. Cả hai thằng này đã mách nước cho bọn này cách tra khảo tôi. Tôi chợt nghĩ, nếu lúc này mẹ tôi ở miền Bắc, chắc bọn người này sẽ bảo tôi: “Hãy khai thật đi, không thôi tao bắn mẹ mày”. Những người đang ngồi bao vây tôi ở đây không thể hiểu câu hỏi: “Anh có thương mẹ anh không?” đã làm cho tôi khinh bỉ và ghê tởm họ, và đã làm cho tôi bình tĩnh hơn, mặc dù lúc đó cái dạ dày của tôi đang lên cơn. Hạ sách tàn tệ đó của họ đã đặt tôi vào thế đối thủ, kẻ thù với họ.
“Thế các anh có thương cha mẹ của các anh không mà các anh lại hỏi tôi câu đó?”
Tôi nhìn từng mặt người một, không phải để ghi nhớ vì cho đến bây giờ tôi có nhớ ai đâu, mà, đối với tôi tất cả bọn họ cũng chỉ là một; cũng không phải để dò xem họ sẽ xử tôi như thế nào, vì làm sao tôi biết được những âm mưu của họ. Tôi nhìn họ để nói với họ rằng đến nước này các người muốn làm chi tôi thì làm, tôi trơ ra rồi. Họ tức tối. Họ cúi đầu vào nhau thì thầm. Một hai người lánh ra ngoài hội ý, rồi đi vào gật gật cái đầu. Những cảnh đó cứ lập đi lập lại mãi suốt thời gian họ tra khảo tôi.
Tôi không còn nhớ rõ những diễn biến của cuộc khảo tra này nữa. Hai mươi năm rồi. Đây là một cuộc khảo tra, ở đây tôi không được xem như một người đối thoại. Kể cả tư cách một bị cáo trong một phiên tòa, tôi cũng không có. Tôi là kẻ phản động thù địch, một tên chống Đảng, chống chế độ, xúc phạm lãnh tụ. Tất cả mọi người đều có quyền xỉ vả tôi và coi tôi như một con chó ghẻ tởm lợm. Một ông ở trong cuộc khảo tra này đã nói giữa chừng cuộc: “Anh đừng tưởng anh ngồi đây với tư cách của người tham dự một buổi họp. Anh phải hiểu như thế để ăn nói cho đàng hoàng”.
Tôi nhớ hình như đã gần 11 giờ 30. Ông Lai đứng dậy đi ra cửa, chỉ tay vào mặt tôi nói:
“Bây giờ anh về phòng, mang hết lên đây tất cả va ly, quần áo, sách vở, tư trang, tất cả những gì mà anh có, mang lên đây hết. Nhờ đồng chí (......) và đồng chí (.....) theo anh Đính kiểm tra”.
Tôi xuống thang gác, mệt mỏi, chán nản. Dạ dày tôi lên từng cơn. Đã đến giờ ăn, nhiều người đang cầm chén đũa đi xuống nhà ăn. Người ta nhìn tôi. Tôi đoán họ đã biết hết những gì đã xảy ra trên gác khi nhà C. Những con mắt họ nhìn tôi không bình thường nữa.
Tôi sắp xếp đồ đạc vào va ly. Sách tôi bỏ vào cái thùng các-tông. Hai ông đi theo kiểm tra lật hết mùng mền, giường chiếu, rũ từng cái xem tôi có giấu tài liệu gì không. Một vài tờ giấy loại lót trên vạt giường, mảnh báo cũ... họ đều lấy hết. Bức chân dung Karl Marx tôi vẽ trên giấy khổ rộng bằng mực Cửu Long xanh đen họ cũng giật xuống. Họ mở cả cánh cửa ra vào giữa hai phòng mở khép sát tường, lục mắt vào. Tôi mang sách vở đồ đạc đi. Tôi phải đi hai chuyến, qua về, hai ông đó cứ lẽo đẽo theo. Giữa đường có rớt một vài thứ lặt vặt, tôi để va ly xuống, lượm lên.
Tôi bước vào phòng, lúc này mọi người ngồi, đứng hút thuốc, uống nước nói chuyện cười vui. Ông Lai ra lệnh cho tôi:
“Anh để tất cả ở đây”.
Tôi để mọi thứ lên bàn.
“Anh ngồi xuống đó”.
Tôi lấy thuốc ra hút. Lúc để đồ đạc lên bàn, tôi có mở va ly ra lấy mấy gói Tam Đảo bỏ vào túi áo bông. Có một ông khi thấy tôi bật nắp va ly, định sấn lại, nhưng thấy tôi lấy thuốc, ông bỏ hai tay lên thành ghế, đứng lại.
Ông Lai hỏi:
“Anh mang tất cả lên đây rồi chứ?”
“Vâng”.
Một trong hai cái ông theo kiểm tra tôi nói:
“Hết cả rồi”.
Tôi ngồi xuống, uống một hớp nước. Mọi người đã ngồi vào chỗ của mình. Một hai người còn đứng ở ngoài. Lúc đó thằng Nguyễn Viết Trác nhăn mặt, mệt nhọc xách va ly bước vào. Hắn ngó tôi vẻ thiểu não. Con c... họ. Tôi chửi trong bụng. Bọn chúng giả vờ làm như thằng Trác chơi với tôi nên bị liên lụy. Hắn cũng bị lục soát va li. Nhưng suốt trong thời gian tôi bị khảo tra không bao giờ người ta hỏi tôi về hắn. Chính hắn đã nhúng tay vào việc tổ chức cuộc tra khảo tôi hôm nay. Hắn có công. Lúc tôi quay ra ngoài hành lang lượm một vài cuốn sách thì gặp hắn, mặt mày trân đi, xách va li một cách nặng nhọc đi tới. Hắn ngó tôi, nói:
“Mi làm khổ tao”.
Mả cha cái thằng con nhà không ai răn dạy. Cái mặt hắn nhăn nhó vì giả đò như hắn thường giả đò lên cơn suyễn. Không có một vẻ xúc động hay thay đổi nào trên cái mặt của hắn hết.
Tôi có nói với hắn:
“Mi cố sống, sau này gặp nhau”.
Hắn đặt va li xuống sàn nhà. Ông Lai nói:
“Thôi cho anh Trác về”.
Hắn bực nhọc như cố lê bước đi ra.
Thằng Trác quen tôi là tình cờ. Hắn đến chơi với thằng Lê Ngọc Từ nằm cùng phòng với tôi ở khoa ngoại B1 bệnh viện E2 khoảng giữa năm 1970. Lúc đó hắn cũng đang chữa bệnh và nằm ở khoa khác. Hắn mượn tôi sách báo. Sau đó hắn cho tôi mượn quyển Larousse. Tôi nói chuyện với hắn nhiều lần về chủ nghĩa Marx-Lénine, về Đảng, về nền kinh tế ở miền Bắc, về tình trạng xã hội... Tôi có đọc cho hắn nghe nhiều đoạn trong nhật ký của tôi và đưa thơ tôi cho hắn đọc. Lúc gặp hắn ở bệnh viện E1 (Thạch Thất - Hà Tây) tôi đã đọc bản đề cương của tôi về nền chuyên chính vô sản và sự lãnh đạo của Đảng. Khi nói chuyện, hắn cứ ngó quanh quất làm như có ai lảng vảng đâu đó. Hắn nói: “Nói nhỏ nhỏ a”. Suốt thời gian nói chuyện, tôi nói nhiều hơn hắn nói, hắn không tỏ vẻ phản đối hoặc đồng ý những suy nghĩ của tôi. Hắn chỉ ầm ừ, miệng ngậm khít, mắt mở trừng. Hắn biết tư tưởng và suy nghĩ của tôi. Hắn báo cáo Ban bảo vệ Đảng biết. Hắn cùng Ban bảo vệ Đảng để mưu sắp lớp lục va ly tôi và chụp ảnh nhật ký của tôi. Hắn gặp thằng Trần Nguyên Vấn lúc đó mới ra Bắc ở khu tập thể số 2 Lê Phụng Hiểu, Hà Nội, toa rập với nhau bàn với ông Sự cách trị tôi.
Và bây giờ thì hắn giả bộ đau khổ, vì chơi với tôi mà phải liên lụy. Hắn giả vờ sợ sệt một cách tội nghiệp, thảm não.
Đã quá giờ ăn trưa, người ta cho tôi về.
Tôi về phòng. Mọi người đã đi ăn cơm. Một bát miến và một hộp sữa đã để sẵn trên bàn. Cô Chanh y tá bước vào nói:
“Anh Đính, anh ăn ở đây, đừng xuống nhà ăn nữa”.
Tôi có báo ăn miến đâu. Người ta biết tôi bị căng thẳng và sẽ bị dạ dày hành nên cho tôi ăn miến và sữa để có sức tiếp tục chịu đựng cuộc tra vấn.
Ăn xong tôi nằm nghỉ. Những người trong phòng đã về; cả phòng trong và phòng ngoài có khoảng sáu bảy người. Tôi ở phòng trong, ba người. Người ta vẫn nói chuyện, nhưng khác với mọi ngày không ồn ào. Tôi biết phận mình, tôi nằm. Chỉ có ông già Tuyết, người Quảng Ngãi cùng phòng với tôi, hỏi tôi:
“Không đi ăn hả mày?”
“Dạ ăn rồi...”
Ông nhìn lên bàn rồi “à” một tiếng.
Không biết chúng còn giở trò gì nữa với tôi đây. Đầu tôi nóng bừng. Trời lạnh tanh. Bây giờ mà có một cơn mưa. Một giờ rưỡi chiều, một ông trong đoàn khảo tra vào báo tôi:
“Anh lên làm việc tiếp”.
Vẫn những người cũ: đầy đủ những ông trong đoàn khảo tra, Bí thư đảng ủy, bốn Bí thư chi bộ bốn khoa bệnh nhân, chủ tịch hội đồng bệnh nhân..., Bí thư chi bộ K65, không có mặt ông Điềm, bác sĩ trưởng K. Người ta cho biết anh Điềm bận chuyên môn không dự được. Tất cả sách vở, giấy tờ của tôi đã được xếp chồng để trên cái giường sau lưng những người ngồi đối diện với tôi. Trước mặt ông tên Lai mặt đỏ láng là những chồng giấy tờ, vở ghi chép của tôi.
“Ta làm việc thôi, các đồng chí ạ”.
Ông Lai nói, rồi nhìn tôi, tiếp:
“Bây giờ vẫn chưa muộn đâu anh Đính ạ. Anh nên nói ra tất cả những suy nghĩ của anh, những công việc của anh từ ngày ra Bắc, nói hết, nói thật...”
Tôi biết họ nghi tôi là gián điệp của Mỹ Ngụy cài vào tổ chức cách mạng để phá hoại, và họ muốn tôi thú nhận điều đó. Họ muốn tôi phải đầu hàng họ như một tên gián điệp đầu hàng cách mạng. Tôi không còn sợ gì nữa. Họ không thể lấy điều này để trấn áp tôi được. Cái đáng phải sợ là tìm cách che giấu những việc mình làm. Tôi không làm gì hết thì việc gì mà phải tìm cách đối phó. Nhật ký của tôi họ đã chụp ảnh, sách vở ghi chép, các tập thơ của tôi đó. Tôi không che giấu gì cả. Chắc chắn họ chỉ còn một cách là truy bức tôi về mặt tư tưởng.
Ông già mặc đại cán màu nâu chỉ đống sách của tôi nói:
“Anh đọc nhiều đấy. Có lẽ chúng tôi ở đây không ai đọc bằng anh đâu. Nhưng vô ích anh Đính ạ. Anh đọc để anh xuyên tạc, anh đọc để anh chống đối”.
Ông dưới 40 tuổi, tạm gọi là tên Thanh, hỏi tôi:
“Anh đã mang tất cả sách vở, tài liệu ghi chép, sổ sách của anh lên đây rồi chứ? Có còn cái gì cất giấu ở đâu không?”
“Tất cả của tôi là ở đó”.
“Thế bản đề cương về chuyên chính vô sản của anh đâu?”
“Tôi đốt rồi?”
“Cả nhật ký nữa?”
“Tôi cũng đốt rồi”.
“Tại sao anh đốt?”
“Viết xong không thích thì đốt hay xé đi là chuyện thường”.
“Anh sợ à?”
Tôi không trả lời câu này.
“Trong bản đề cương đó anh viết gì”
“Tôi ghi lại những suy nghĩ của tôi về sự lãnh đạo của Đảng và nền chuyên chính vô sản”.
“Anh nói cụ thể xem!”
“Tôi trình bày hai phần. Phần một, những quan niệm kinh điển của Lénine và Staline về chuyên chính vô sản và sự lãnh đạo của Đảng; phần hai, mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và nền chuyên chính vô sản trong thực tế ở miền Bắc. Tôi cho rằng hiện nay ở miền Bắc mối quan hệ giữa chuyên chính vô sản và sự lãnh đạo của Đảng không đúng như sách vở của Lénine và Staline đã nói. Chỉ có Đảng là trên hết, là tuyệt đối. Không những Đảng đã nhúng tay quá sâu vào chính quyền mà Đảng đã lấn áp cả chính quyền. Chỗ nào cũng là Đảng hết cả. Ở miền Bắc không có chính quyền, không có Nhà nước, chỉ có Đảng. Ông chủ tịch Hội đồng bệnh nhân cũng là Phó bí thư đảng ủy, ông trưởng Khối bệnh nhân cũng là Phó bí thư chi bộ hay chi ủy viên. Ông trưởng K là Bí thư chi bộ hoặc Phó bí thư. Các cơ quan, các tỉnh, trung ương...”
“Tại sao anh lại bảo ở miền Bắc không có tổ tiên, không có ông bà, chỉ có Đảng?”
Ông Lai nổi tức:
“Xuyên tạc và phản động như thế là cùng. Các lập luận như thế chỉ có địch... Anh không hiểu thật hay là cố tình xuyên tạc?”
Và ông ta dạy cho tôi một bài về sự lãnh đạo của Đảng: Đảng là bộ phận ưu tú nhất của giai cấp công nhân, Đảng là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Đảng là vĩ đại, là tuyệt đối... Trên thế giới, có đảng nào vĩ đại như Đảng ta đâu v.v...” Tôi nghe quá mệt.
Hình như họ chỉ nghe thằng Trác nói lại về bản đề cương của tôi nên tôi đã chỉ nói cho có và tránh hai điểm. Một là nhân dân làm nên lịch sử, nhưng chỉ có Đảng, đứng đầu là Ban Chấp hành Trung ương, hiểu và nắm được quy luật của lịch sử. Làm sao một thiểu số người lại có thể nắm và hiểu được quy luật lịch sử mà lại hiểu đúng và vận dụng đúng? Hai là, nhân dân đâu có bầu ra Đảng và Ban Chấp hành Trung ương mà Đảng lại bắt nhân dân phải tuyệt đối trung thành và tin tưởng Đảng? Tôi cho là quá vô lý.
Một ông nào đó dằn giọng:
“Anh có tin Đảng không? Anh nói đi, nói đi!”
“Lúc này tôi có trả lời thế nào các anh cũng không tin tôi nói thật. Vì không lý tôi lại dám nói là tôi không tin”.
Ông ta hừ một tiếng.
“Tôi nói cho anh biết. Cuộc họp này chấm dứt sớm hay kéo dài là tùy theo thái độ của anh. Và tôi cũng nói cho anh rõ là anh ngồi đây không phải với tư cách như trước nay của anh trong các buổi họp đâu. Rất may cho anh là chúng tôi đã không để cho anh đi sâu hơn nữa vào con đường phản động của anh. Chúng tôi muốn cứu anh, muốn anh sớm tỉnh ngộ. Anh còn trẻ. Anh hiểu chưa? Anh nói láo, anh không tin Đảng. Anh không tin gì ở chủ nghĩa xã hội cả. Anh có quan điểm lập trường của anh, đó là lập trường và quan điểm của bọn tư sản phản động tay sai của đế quốc Mỹ. Những thứ đó đã có sẵn trong con người anh, nó có từ lúc anh ở trong vùng địch. Cho nên nói thẳng ra, lập trường quan điểm của anh là chống cộng”.
Một người khác nói chen vào:
“Chống cộng có hệ thống! Không phải anh ta chỉ chê chế độ miền Bắc, mà anh chống đối chế độ xã hội chủ nghĩa, anh ta cho là một chế độ bế môn tỏa cảng, do đó mà chỉ thấy trời bằng cái vung. Trí thức thì bế môn tỏa cảng, dân chúng thì cấm làm giàu. Đó không chỉ là luận điệu tư sản phản động mà chính là của bọn xúi làm loạn”.
Một ông khác chĩa vào:
“Anh cho là miền Bắc không có chủ nghĩa xã hội. Quan hệ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc chỉ có trong nghị quyết, chỉ thị. Còn về mặt hiện thực thì chỉ là một sự áp đặt, làm lấy được của những người lãnh đạo, của trung ương Đảng”.
“Tôi không thể nhớ hết được...”
“Đây này, cả trang nhật ký và cả trong các ghi chép của anh, đây, đây này!”
“Không nhớ, thì đây”. Một ông khác nữa ném một tấm ảnh và quyển vở ghi chép của tôi đã lật sẵn và có đánh dấu. “Này, anh Đính ngẩng mặt lên, nhìn đây”. Ông ta ngó tôi qua khoảng trống giữa sống mũi và cặp kính. Ông ta vừa đọc vừa nói xen vào:
“Anh nói thế này. Những điểm ưu việt của chủ nghĩa xã hội chỉ có trong sách vở, trong nghị quyết, kinh điển. Chủ nghĩa xã hội chỉ có trong đầu óc của những người lãnh đạo. Miền Bắc không có cái chủ nghĩa xã hội như sách vở và các nghị quyết đã nói. Cái quan hệ xã hội chủ nghĩa trong sản xuất cũng như giữa người và người trong xã hội hiện nay chỉ là một sự áp đặt hoàn toàn không có nội dung hiện thực. Còn nếu cái hiện thực xã hội ở miền Bắc hiện nay là xã hội chủ nghĩa như sách vở đã nói thì cần phải xem lại cái chủ nghĩa xã hội đó”.
Ông dừng lại, rồi nói tiếp:
“Này, anh Đính, chính trong nhật ký anh đã nói rằng không có cuộc kháng chiến chống Mỹ hiện nay thì xã hội miền Bắc chỉ là một vũng bùn lộn cứt... Không có đánh nhau với Mỹ thì cái chủ nghĩa xã hội và Đảng là tiêu dên rồi. Phải không? Phải không?”
“Phải, tôi có nói”.
Ông Lai:
“Đấy, các đồng chí thấy không, anh ta đang ngồi đây với chúng ta, và lâu nay ta gọi anh ta là đồng chí và anh ta gọi chúng ta là đồng chí. Chúng ta sơ hở và thiếu cảnh giác...”
Ông quặt sang hỏi tôi:
“Anh nói là thủ đô Hà Nội có năm nhứt thế giới, là... nhứt trộm cướp, nhớp nhứt... phải không?”
“Tôi nói Hà Nội có ba nhất: cây xanh nhiều nhất, xe đạp nhiều nhất và nhớp nhất”.
“Chắc chỉ có Sài Gòn, thủ đô của bọn Mỹ Ngụy của anh mới tốt đẹp chớ gì? Những gì phồn vinh giả tạo của Mỹ Ngụy thì anh cho là tốt đẹp. Những gì ưu việt của chế độ ta thì anh chê bai đủ điều. Anh chê cả các nếp sống văn minh của chế độ ta nữa. Anh cho sắp hàng ở miền Bắc không phải là một nếp sống của người văn minh mà do thiếu thốn. Cái gì cũng sắp hàng, mua gạo sổ, mua thịt cá, bánh mì theo tem phiếu, mua cà phê, bát bún, tô phở... cũng sắp hàng. Rồi, bữa ăn của cán bộ công nhân viên ở các nhà ăn tập thể tại Hà Nội anh cho là quá tồi tàn. Anh nghi trong nhật ký: “Con mừng được chiếc áo hoa, nhờ tiền tiết kiệm mẹ cha để dành”. Anh mở vòng đơn (trên tấm áp phích ở đầu thị xã Sơn Tây phía từ Hà Nội vào). Anh viết thêm: đó là chủ nghĩa xã hội! Hừm, cả nước đang đánh Mỹ. Miền Bắc là hậu phương lớn, miền Bắc phải chi viện cho miền Nam, người, của cải vật chất... phải thắt lưng, buộc bụng... chắc anh cũng đã học tập những điều đó chứ? Tại sao anh cho câu đó là bi đát?”
Tôi làm thinh. Ông ta gõ tay xuống bàn nhắc lại:
“Anh nói đi”.
Tôi nói:
“Một cá nhân thì không kể, nhưng kêu gọi cả toàn xã hội mà là một xã hội xã hội chủ nghĩa ưu việt phải như thế, tôi cho là bi đát”.
Chung quanh tôi mọi người đều tức giận, hầm hừ. Có một khoảng im lặng, chỉ nghe tiếng giấy tờ lạo xạo. Còn tôi, cái dạ dày lên cơn. Tôi hút thuốc liên tục. Cái ông mặc đại cán màu nâu chậm rãi thuyết giảng cho tôi một bài triết học về thế nào là hiện tượng, thế nào là bản chất. Từ đó ông chuyển sang giảng thêm cho tôi hiểu về bản chất của chế độ ta và bản chất của chế độ địch. Ưu việt và tốt đẹp là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa; độc ác, bóc lột, xâm lược là bản chất của chế độ tư bản. Những cái gì chưa hoàn thiện mà tôi thấy hàng ngày ở miền Bắc chỉ là hiện tượng, có tính nhất thời; còn những gì tốt đẹp của bọn tư bản, đó chỉ là cái bề ngoài, cái phồn vinh giả tạo, cái hiện tượng. Tất cả những cái đó đã che lấp cái bản chất xấu xa của chủ nghĩa tư bản v.v...
Lúc này nghe những thứ lộn xộn như thế tôi cũng mệt. Đầu óc tôi chỉ lùng bùng những tiếng bản chất, hiện tượng, chủ nghĩa xã hội, đế quốc, tư bản, xâm lược, bóc lột, Marx, Lénine, Hồ chủ tịch... lẫn trong tiếng người lao xao, tiếng sắt thép gỗ chạm nhau lóc cóc, lách cách... ở xa ngoài thị xã chen vào.. Trước mắt tôi bây giờ là những cái đầu, những con mắt nhìn chằm hăm tôi. Đầu cúi, ngẩng, lắc lư; mắt ngó thẳng, ngó xiêng, ngó xéo, mở trừng, mở to, lim dim; có những con mắt nhắm lại. Tôi hút thuốc, tôi uống nước, nước hơi nguội. Nước máy lại chảy ộc ộc dưới nhà. Tiếng đàn bà la to, lấy nước rồi không chịu khóa lại. Khóa sao được. Nhiều lần tôi phải lấy một cục đá chận lên cái robinet nước mới không chảy. Có hai ba hộ ở dưới đó, và một hộ ở đằng kia gần phòng tôi đều lấy nước ở đây. Tôi nghe tiếng nước chảy ào một cái rồi tắt luôn.
Có tiếng dằng hắng, tiếng nước rót vào bình trà.
“Đảng có đối xử gì anh khác biệt đâu, mà còn ưu đãi anh nữa là đằng khác. Ra Bắc anh được hưởng mọi tiêu chuẩn mà một cán bộ miền Bắc không thể có được. Anh bất mãn cái gì? Hay là.... Hay là... à... à... một thanh niên ở vùng địch tham gia cách mạng lâu ngày... như anh... mà không được kết nạp Đảng cho nên anh bất mãn phải không?”
Tôi không trả lời.
Khoảng cuối năm 1964 hay đầu 1965, tôi nhận được một lá thư theo đường dây bí mật, từ trên rừng gửi về Huế. Đó là quyết định của Thành ủy Huế kết nạp Nguyễn Thiết, Nguyễn Đình Hương và tôi vào đảng, viết dưới hình thức một bức thư do đồng chí Hà, tức Lén, Bí thư Thành ủy ký. Anh Đàm, tức Văn Nhạc, được cử làm Bí thư chi bộ dự bị. Nguyễn Thiết xin hoãn việc kết nạp mình một thời gian, nhưng không nói rõ lý do. Thiết nói với tôi: “Vào Đảng có những ràng buộc về mặt kỷ luật rất mệt. Tao thích như thế này tự do hơn”. Nguyễn Thiết lúc nhỏ đã học trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An hồi kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, theo lời Thiết kể, Thiết theo đoàn của Ủy hội Quốc tế bảo vệ đình chiến vào Nam. Anh Đàm chọn phòng X-quang ở bệnh viện bài lao để làm lễ kết nạp vì ở đó đã có cơ sở của ta. Đúng hẹn, một giờ ba mươi chiều, tôi lận tờ giấy đỏ trong áo trước bụng, thằng Hương nhét trong quần lót hai mảnh búa liềm do Lê Minh Trường cắt, đến Viện bài lao. Anh Đàm cho biết không hiểu thế nào tên Phó bí thư huyện ủy Phú Lộc đã chiêu hồi lại có mặt hôm đó ở phòng X-quang. Tay này cũng làm việc ở đây, nhưng không phải ở phòng X-quang. Ba chúng tôi đi thẳng luôn ra cửa sau vòng tay trái chuồn về ngay.
Tháng 6-1965, chúng tôi thoát ly lên rừng, không nghe Thành ủy nhắc lại chi về chuyện này nữa. Nhất định người ta muốn thử thách chúng tôi. Về sau, tuần tự, Thiết, Hương, Trường đều vào Đảng.
Cái ông già mặc đại cán màu nâu cầm lên một xấp giấy màu vàng đất đưa ra trước mặt tôi hỏi:
“Đây là bài “Sân khấu II”. Thế “Sân khấu I” ở đâu?”
“Mất đâu ở trong rừng rồi”.
“Thế còn “Sân khấu III”? Trong nhật ký anh có viết anh sẽ viết “Sân khấu III”?”
“Tôi chưa viết”.
Rồi ông quay lại đàng sau lấy một cuốn sách, lật trang đầu hỏi:
“Anh có viết một câu tiếng Pháp trong này, đại ý nói là mọi sự rồi sẽ trở nên sáng sủa hơn. Có phải anh có ý tưởng làm loạn không?”
“Câu đó tôi ghi lại lời của một nhân vật ở trang cuối. Ông cứ giở sách ra mà xem”.
Ông ta làm thinh để cuốn sách xuống bàn. Ông ta nhìn tôi một lúc gật gật cái đầu, tay cầm một tập sách khác đưa cao dứ dứ trước mặt tôi:
“Anh lấy cái này ở đâu? Ai đưa cho anh?”
Đó là tập san HÒM KẼM của một nhóm sinh viên ở Cộng Hòa Liên Bang Đức, xuất bản năm 1969 (?), Nguyễn Hữu Ngô cho tôi mượn. Tôi nói:
“Tôi mượn ở Đài Giải phóng”.
Ông ta cười ra tiếng, rồi ngậm miệng trề môi dưới ra hứ hứ trong họng. Ông ta cầm tờ báo trên hai tay lật qua lật lại những trang trong:
“Đây là tờ báo của bọn sinh viên Sài Gòn xuất bản ở Tây Đức. Bọn này được Mỹ Ngụy gửi sang Tây Đức đào tạo để sau này về nước làm công cụ tay sai đắc lực cho chúng, chống lại nhân dân và cách mạng. Mà Tây Đức... là một nước tư bản thuộc loại đầu sỏ, kẻ thù của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, kẻ đối đầu trực tiếp với Cộng hòa Dân chủ Đức. Toàn bộ nội dung tờ báo này sặc mùi tư sản phản động. Tư tưởng và lập trường của bọn này lập lờ, hai mặt, nhưng nhìn chung, bản chất là chống cộng triệt để”.
Ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi:
“Anh mê những thứ bẩn thỉu này lắm phải không, đồng hội đồng thuyền mà? Anh có biết là anh đã phạm một tội rất nặng là oa trữ và phổ biến tài liệu sách báo của địch không?”
Tôi cũng chịu không biết nói thế nào nữa, mà có nói cũng vô ích. Tôi làm thinh, và họ cứ chửi bới tôi. Cái ông tên Lai mặt láng cầm cái thẻ kiểm tra bọc nhựa của tôi bỏ xuống bàn ngay trước mặt ông, nói:
“Có phải anh giữ cái thẻ kiểm tra mà bọn ngụy quyền đã cấp cho anh đây để có ngày anh trốn về vùng địch hay không?”
Một ông nào đó nói xen vào:
“Ngày đó là ngày anh đã hoàn thành nhiệm vụ của Mỹ Ngụy giao cho?”
Chán lắm rồi. Tôi cũng quá mệt. Tôi nói:
“Cái thẻ kiểm tra đó tôi đem theo đi đường lúc thoát ly và sau đó giữ làm kỷ niệm”.
Có những tiếng đằng hắng và ậm ừ trong họng. Ông Lai nói:
“Những tư tưởng và lập trường của anh là phản động, chống cộng. Anh hãy nói thật để được hưởng sự khoan hồng của Đảng. CIA Mỹ Ngụy cài anh vào tổ chức cách mạng từ khi nào, ra Bắc anh đã thực hiện nhiệm vụ của anh tới đâu rồi? Anh móc nối với những ai? Anh nói đi, tôi cần chính anh tự thú nhận. Chúng tôi đã có đầy đủ bằng cớ và tài liệu”.
Một ông khác nói tiếp:
“Chỉ có anh mới cứu được anh. Anh phải thành khẩn nói thật, khai thật”.
Tôi nói liền:
“Tôi mà CIA thì tôi đã không viết nhật ký và làm thơ như thế”.
Không ai nói gì cả. Ông Lai nói:
“Chưa hết đâu, anh Đính ạ. Còn có nhiều điều, nhiều việc chúng tôi chưa nói với anh. Chưa hết đâu. Rồi anh sẽ biết hậu quả những hành động của anh”.
Bao giờ họ cũng nói: “Những hành động của tôi”.
Cái ông trẻ dưới 40 tuổi tên Thanh hỏi tôi:
“Anh có cần đọc lại biên bản hay không?”
“Không”.
Một vài người đã đứng dậy để đi ra ngoài. Ông Lai ngã người trên ghế nhìn tôi. Ông Thanh vẫy tôi lại, nói:
“Anh xem lại và ký vào. Đây là biên bản những gì của anh mà chúng tôi tạm giữ để nghiên cứu. Anh kiểm tra lại đi”.
Tôi nói, thôi không cần và ký. Toàn bộ các tập thơ, các tập vở ghi chép, tất cả những giấy tờ gì, dù là một tờ rời, một mảnh nhỏ có chữ của tôi đều bị họ tịch thu hết. Sách họ trả lại, trừ một vài quyển, trong đó có một quyển tiểu thuyết bằng tiếng Pháp (tôi mua ở nhà sách ngoại văn ở Hà Nội), vì ở trang đầu cuốn sách này tôi có ghi một câu của một nhân vật trong truyện nói đại ý: mọi sự mọi việc rồi sẽ được sáng sủa và tập san Hòn Kẽm.
Một ông ra lệnh cho tôi:
“Anh mang va ly và đồ dùng cá nhân về phòng. Còn sách sáng mai anh sẽ nhận. Tôi xin họ cuốn tự điển Anh-Việt loại bỏ túi của Võ Lang (quyển này tôi mang từ chiến trường ra), họ đồng ý. Sau này có một ông cho tôi biết việc này làm cho họ nổi tức và không có lợi cho tôi, vì họ cho đến lúc đó mà tôi vẫn còn bình tĩnh đọc sách được”.
Tôi trở về phòng. Một bát miến đã để sẵn như bữa trưa. Ăn xong, tôi ngồi hút thuốc. Cô Lý, y sĩ, bước vào:
“Anh Đính uống cồn Ben-la-don”.
Cô lấy một cái cốc rót nước vào rồi nhỏ mấy giọt cồn Ben-la-don vào đưa cho tôi.
“Anh uống thêm mấy viên Ka-vét này nữa”.
“Cảm ơn cô”.
“Khi nào ăn xong anh cứ để chén bát ở đây, sẽ có người đến lấy”.
Mọi người đi vắng hết. Ông già Giác ở phòng ngoài đi đâu một lúc về chế trà ngồi uống. Ông gọi tôi:
“Uống nước anh Đính”.
Tôi uống với ông một chén, rồi rót một chén khác đem về phòng tôi. Ông già Tuyến, người Quảng Ngãi, bước vào nhìn lên bàn, lên giường tôi nói:
“Họ lấy sách vở của mầy hết rồi à?”
“Dạ”.
Buổi tối tôi thắp một cây đèn dầu ngồi uống nước hút thuốc một mình. Tôi mệt và chán lắm rồi. Tôi không cần suy nghĩ là ngày mai họ sẽ còn làm gì tôi nữa. Dạ dày tôi đau quặn lên. Tôi không còn gì nữa. Họ tịch thu hết rồi. Tôi tiếc và tức, uổng quá, uổng thiệt. Quá dại, đáng ra mình phải gửi trước một ít cho thằng Ngô, thằng Tình. Bây giờ thì tay không. Độ hai ba hôm sau, tình cờ tôi lượm được ở trong góc phòng dưới đầu giường của thằng Trác cái thư của mẹ tôi gửi cho tôi hồi đầu năm 1968, lúc còn ở trong rừng và bài “Nhân dân và tôi” viết trên tờ giấy croquis, cả hai đều bị vò cục lại. Tôi mừng hết sức. Thằng Trác hơi hoảng và lúng túng. Hắn ở ờ gì đó trong cổ rồi nói không ra tiếng: “chắc họ bỏ lộn trong đồ đạc của tao. Tao cũng không để ý...”. Để đánh lạc hướng tôi, đoàn khảo tra tôi đã giả đò bắt hắn mang va ly đến cho họ kiểm soát. Trong lúc cùng với ban bảo vệ Đảng lục soát va ly sách vở của tôi lúc tôi lúc tôi đi vắng, hắn đã bỏ quên những thứ này trong va ly hoặc dưới giường của hắn.
“Nhân dân và tôi” là bài thơ duy nhất còn sót lại của tôi lúc đó và tôi còn giữ cho đến bây giờ.
Nhân dân và tôi
chúng ta gặp nhau
mỗi ngày
như người câm
không nói
chiến tranh đi qua đi qua
người vẫn chết
còn chết vô tình
ở Sơn Mỹ Ba Làng An
Đắc tô Đắc Xiêng
Đường Chín
ở miền Nam
miền Bắc
Cam pu chia
ai biết
còn chết mãi
Nửa đêm thức dậy
nghe tiếng còi tàu thở hơi than máy đen
cùng nỗi mệt mỏi
của những khúc gỗ trôi trên sông một mùa nước trước
đã đi qua những chặng rừng không cây cối
đất đỏ bom hoang
khi cuộc biểu tình bị đàn áp
chúng ta rát cổ hô hào
dân chủ tự do
trong mạnh máu những con giòi còn rúc
đứng đầy đường đại bác xe tăng
chúng ta nói chúng ta còn lực lượng
nhân dân ơi
tôi khóc tôi khóc
em bỏ về một mình
hai hàng cây xanh đường Trưng Trắc
bao giờ tôi mới được hôn em
Chúng ta gặp nhau
còn gặp nhau
mỗi ngày
như nhân dân
còn gặp nhau
bốn ngàn năm chưa thấy mặt
Việt Nam
Nhân dân ơi
mỗi lon gạo lon bắp
mỗi củ khoai củ sắn trồng trên đất này
chưa được tự do ăn
nên còn đẩy xe thuê
làm đĩ
lượm lon
hốt rác
mỗi ngày
như mọi đêm
Nhân dân ơi rất anh hùng
Nhân dân ơi chúng ta còn đông
nơi mũi chông nhọn chúng ta giận dữ
đòi trả thù
và được ăn no
Chúng ta gặp nhau
mỗi ngày
thân mật
như nhân dân còn đông lực lượng
tôi yêu em
như người lạ
vô cùng đắng cay
hôm qua hôm nay
ngày mai ngày mốt
người chết
người sống
không nói
không cười
không khóc
hòn đạn bắn vào đầu
hòn đạn đồng thối
quá khứ như một đống phân
tương lai treo ngọn cờ đỏ
nhân dân tôi
rất độ lượng
chống đất đứng dậy làm anh hùng
nhân dân ơi
trong giọt máu này của tôi
da vàng Châu Á
tháng năm 1970
Có lẽ bài thơ này tôi viết lúc nằm ở bệnh viện E2 ở Hà Nội.
Lúc này tôi cảm thấy trống trải dễ sợ. Mệt mỏi và chán nản thoáng một lúc không còn nữa. Tôi cứ ngồi im, ngó hai mắt vào hai cánh cửa sổ đóng trước mặt. Tôi như đờ ra. Bình thường những buổi tối như thế này tôi đọc, tôi làm thơ hoặc viết nhật ký ghi lại những suy nghĩ của mình về cuộc đời này, về cuộc chiến tranh này, về cuộc cách mạng này, về bạn bè, về những ngày còn nhỏ của tôi ở Vỹ Dạ... Nhưng tôi biết kể từ nay tôi không thể viết được nữa, tất cả những suy nghĩ, xúc động, tư tưởng... chỉ được nằm trong đầu óc tôi, không thể viết ra trên giấy được. Và, kể từ nay, những sinh hoạt bình thường hàng ngày của tôi cũng phải thay đổi.
Sáng mai như thường lệ tôi dậy sớm, xách phích đi lấy nước uống. Tôi mở hé một một cánh cửa sổ và chế nước ngồi uống. Đối với tôi, sự yên tĩnh của những buổi sớm mai rất tuyệt vời. Tôi để mình lang thang trong trí nhớ trở về với những buổi sớm mai ở Vỹ Dạ. Không biết bây giờ mẹ tôi đi lấy lòng về chưa. Rồi tôi đọc lại những bài thơ mới làm hoặc những đoạn viết dỡ đêm qua. Bây giờ thì không được nữa rồi. Khoảng tám giờ, ông Thanh đến gặp tôi, hướng dẫn tôi viết bản kiểm điểm. Một giờ sau, ông ta trở lại, tôi đang nằm trên giường. Ông đứng ngay trước cửa chỉ tay vào tôi hỏi:
“Anh viết xong chưa?”
“Rồi”.
“Đưa tôi xem”.
Đọc xong bản kiểm điểm của tôi ông nói:
“Anh viết chưa đạt yêu cầu”.
Rồi ông ta bắt tôi thêm chỗ này, bỏ chỗ kia. Có đến mấy lần ông ta lui tới bắt tôi sửa đi sửa lại bản kiểm điểm.
“Anh nhớ kèm theo bản sơ yếu lý lịch của anh nữa”.
Tôi viết. Ông lại góp ý. Xong xuôi, ông bảo tôi lên lấy sách về. Ông ta hoàn toàn không nói cho tôi biết viết lý lịch và kiểm điểm để làm gì, và tôi cũng không hỏi. Tới đâu thì tới. Chán, mệt và đau đầu lắm rồi.
Một giờ chiều, hôm đó là ngày 26 tháng 1 năm 1972, ông trẻ tên Thanh này vào bảo tôi:
“Chiều nay, anh sang hội trường làm việc.
Anh sẽ kiểm điểm trước toàn thể cán bộ bệnh nhân K65 về những việc làm của anh. Tuyệt đối anh không được có một thái độ hoặc hành động xúc phạm đối với bất cứ một người nào. Khi nào chúng tôi cho anh nói anh mới được nói. Anh hãy ngồi đây, bao giờ tôi đến báo anh hãy sang hội trường”.
Ông ta còn dặn thêm tôi phải thế này thế nọ trước những phản ứng của mọi người. Một giờ rưỡi tôi sang hội trường. Hơn ba trăm con người đã tụ tập ở đó. Tôi bị đấu tố rồi. Sáng nay bốn chi bộ bệnh nhân đã họp để phát động gây căm thù và phân công đấu tố tôi.
Tôi bước vào. Mọi người xôn xao, thì thầm. Khẩu hiệu Đảng Lao động Việt Nam muôn năm, tượng Bác Hồ để trên cao. Ba bốn cái bàn dài phủ khăn trắng làm bàn chủ tịch đoàn. Cũng những cái ông khảo tra tôi hôm qua ngồi hết ở đó, có thêm ông Bí thư Đảng ủy bệnh nhân và ông Điềm, bác sĩ trưởng K. Ông Lai mặt láng ngồi giữa. Các cửa đóng kín, trừ cửa ra vào mở rộng. Ông Thanh dẫn tôi đi thẳng lên phía bàn chủ tịch. Một cái ghế đặt sẵn phía bên phải bàn chủ tịch đoàn. Cũng vẫn ông Lai đó đứng dậy chỉ tay vào cái ghế để sẵn đó:
“Ngồi đó!”
Tôi ngồi xuống, tôi vẫn hút thuốc. Một ông ngồi ở hàng ghế đầu đứng dậy quay mặt lại nói:
“Đề nghị các đồng chí ổn định”.
Ông Lai đứng dậy:
“Ta làm việc các đồng chí ạ. Thưa các đồng chí, từ ngày ra Bắc đến nay, anh Nguyễn Đính đã phạm những sai lầm hết sức nghiêm trọng về mặt lập trường, quan điểm và tư tưởng. Lát nữa chúng tôi sẽ tóm tắt một số điểm chính cho các đồng chí rõ. Hôm nay, chúng ta họp ở đây là để phân tích góp ý cho anh Đính thấy rõ hơn nữa những sai phạm của mình, và để anh có hướng sửa chữa, cải tạo mình tốt hơn. Tôi đề nghị các đồng chí trong lúc góp ý phải bình tĩnh, thể hiện bản chất tốt đẹp của người cách mạng, là những người, hơn ai hết, đã góp máu xương của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng ta phải tỏ cho anh Đính biết Đảng ta rất khoan hồng đối với những người có tội biết ăn năn hối cải. Đây là một cơ hội cho anh Đính làm lại cuộc đời của anh, một cơ hội để anh ăn năng, hối cải. Số phận của anh lúc này đây là do anh quyết định”.
Rồi ông ta đọc sơ yếu lý lịch của tôi và tóm tắt những gì mà hôm qua họ đã khảo tra tôi. Tất cả là những lời buộc tội, áp đặt và có kết luận.
Ông quay sang tôi:
“Phần anh, anh không được phát biểu gì cả khi mọi người góp ý. Khi nào chúng tôi cho phép anh mới được nói. Anh nghe chưa?”
Ông ta quay sang ông Thanh:
“Đồng chí Thanh làm biên bản buổi họp cho với”.
Một ông khác ngồi trên bàn chủ tịch đoàn đứng dậy:
“Một lần nữa chúng tôi xin nhắc lại, đề nghị các đồng chí hãy bình tĩnh khi phát biểu ý kiến”.
Ông Bí thư Đảng ủy khối bệnh nhân ngồi trên bàn chủ tịch đoàn đứng lên:
“Các đồng chí ạ, chúng ta là những cán bộ, Đảng viên được Đảng cho ra miền Bắc, hậu phương lớn, chữa bệnh và học tập. Rồi đây tất cả chúng ta sẽ trở lại chiến trường của mình. Hôm nay chúng ta góp ý cho anh Đính là để bảo vệ Đảng, bảo vệ tư cách của những người cán bộ Đảng viên của Đảng. Các đồng chí phải hết sức bình tĩnh. Tôi đề nghị các đồng chí khi góp ý, cần phân tích kỹ những sai lầm nghiêm trọng của anh Đính mà các đồng chí ở Cục vừa trình bày. Tôi đề nghị các đồng chí cần vạch rõ thêm những sửa chữa, cải tạo, cụ thể và đúng mức cho anh Đính”. [1]
Hội trường im lặng một lúc, rồi gần như tất cả lồng lộn lên, mỗi người một cách, xỉ vả tôi. Người trợn mắt, bậm môi; người nghiến răng chỉ tay thẳng vào mặt tôi; người dong hai tay nắm đấm lên trời đập vào không khí; người chống nạnh dậm chân xuống nền nhà; người bước ra khỏi ghế ngồi vừa nói vừa vung tay tiến về phía tôi; người nói nửa chừng bật lên tiếng khóc... Hễ lúc nào không khí có hơi lắng đi, sẽ có người đứng lên gợi ý cho mọi người phát biểu: “tôi thấy chúng ta chưa đi sâu mặt này...”; “tôi thấy điểm kia cần phân tích sâu thêm”; “tôi đề nghị các đồng chí triển khai những điểm này...”
Sau một vài ý kiến, khi cuộc đấu tố bắt đầu có đà, ông Thanh trên bàn chủ tịch đoàn đứng dậy:
“Tôi nói thêm một số điểm để các đồng chí hiểu rõ thêm về anh Đính, và trên cơ sở đó các đồng chí phát biểu ý kiến tập trung hơn”.
Ông ta đọc bài thơ “Hồ Chí Minh muôn năm” của tôi [2].
Tôi chỉ nhớ mấy đoạn:
Sông mang phù sa đỏ
Chảy ra biển muôn năm
Người mang hồn sông đó
Lòng như biển vô cùng [3]
Chín chín ngọn Hồng Lĩnh
Máu đất đà kết tinh
Đã đem tin điềm lạ
Mang tên Hồ chí Minh
..........
Nuôi Người bằng sữa đắng
Nước mắt mẹ lầm than
Nên tim Người từ đó
Đau niềm đau Việt Nam
.........
Hôm nay đang đánh Mỹ
Miền Nam chưa ngủ yên
...........
Nhớ Người vẫn gọi tên
..............
Còn tôi tên lính nhỏ
Vác súng đi theo Người
Mấy năm đà gian khổ
Tim hồng vẫn đỏ tươi [4]
Đọc xong bài thơ ông ta nói:
“Đó là cái bề mặt hay nói cho đúng đó là mặt giả của anh ta. Còn đây mới là mặt thật, chân tướng và bản chất của anh ta:
Một tập sách giấy hồng
Ghi lời thánh
Ông thánh già đã chết
Các đồng chí có biết anh ta nói ai không? Ông ta nói đến Hồ chủ tịch vĩ đại và kính yêu của chúng ta đó.
A ha ta là một tên hề
Một tên hề không có râu
Một tên hề không có bánh mì mà ăn
Đó là anh ta nói về bác Tôn”.