Chương 10
Thiên tướng ngựa sắt

    
ã mấy hôm nay, Hùng Vương trông đợi tin tức của các đoàn sứ giả.
Giặc Ân đã tới gần biên thùy miền Bắc. Quân lính của Văn Lang trong ba năm nay đã tập luyện tinh nhuệ, nhưng vua chưa cho xuất quân, vì còn chờ một tướng tài xuất hiện. Long Vương đã báo trước với vua sự xuất hiện của vị tướng đó.

Trước đây ba năm, vua nước Ân đã từng đe dọa đem quân sang đánh Văn Lang. Khi nhận được tin kia, vua Hùng triệu tập quần thần để bàn tính việc kháng chiến. Có người Lạc Tướng tâu lên:
Giặc đến thì phải đánh, đó là lẽ tự nhiên. Nhưng hiện giờ chúng chỉ mới mở lời đe dọa mà thôi. Chúng ta chưa nên điều động binh mã, chỉ nên lo chuyện luyện tập binh tướng cho thật tinh nhuệ mà thôi.
Một vị Lạc Hầu dâng kế:
Nghe nói vua nước Ân là một người giỏi nghề binh, hễ không ra quân thì thôi chứ hễ ra quân thì tự mình thống lĩnh binh đội. Nước Văn Lang chúng ta mấy trăm năm nay sống trong hòa bình, nhân dân và binh sĩ không biết chiến tranh và trận mạc là gì, trong khi đó giặc Ân có thể có nhiều khí giới mới lạ. Vậy xin tâu Vua một mặt luyện tập binh sĩ tốt, một mặt phải cầu tổ tiên chúng ta là Long Quân cho ý kiến.
Nghe theo lời tâu của Lạc Hầu, vua Hùng sai dựng đàn cao mười tám trượng, đốt hương trầm suốt đêm ngày. Vua tự thân ăn chay nằm đất ba đêm ba ngày, rồi đích thân ra trước đàn để cầu thỉnh Long Vương.
Đột nhiên trời nổi gió và mây đen kéo đầy. Có tiếng sấm động. Quân hầu vào báo tin là ở trước ngọ môn có một ông già mình cao hơn sáu thước, mặt vuông, râu tóc và lông mày bạc phơ đang cười nói và ca múa. Vua liền thân hành ra cửa, thỉnh ông già ngồi trước đàn. Từ khi thấy vua, ông ta bổng im bặt, không nói năng một lời. Đem cơm nước ra đãi đằng, ông cũng không đụng tới, chỉ ngồi yên lặng.
Vua Hùng kính cẩn hỏi:
Nay nhà Ân sắp đem binh mã sang đánh, không biết hơn thua ra sao, xin quý nhân chỉ dạy cho.
Ông già đưa tay ra, nhìn kỹ những ngón tay, rồi nói:
Ba năm nữa giặc Ân mới qua đánh.
Hỏi về kế hoạch kháng chiến thì ông già đáp:
Chuyện luyện tập sĩ tốt cho tinh nhuệ, vua và các Lạc Hầu Lạc Tướng chắc biết rõ rồi. Nhưng khi giặc tới, phải cử sứ giả đi tìm trong thiên hạ một người tướng giỏi biết phương thức chiến thắng mau lẹ. Ta không thể tiết lộ trước được, nhưng hễ sứ giả gặp bất cứ người nào tình nguyện hiến chước thì vua cũng phải vời vào trọng dụng, đừng phân biệt sang hèn, lớn nhỏ. Ta sẽ nhờ sứ giả của sông Xanh về ủng hộ.
Nói xong, ông già bay lên hư không, lẫn vào đám mây mà đi. Bây giờ Vua và các Lạc Hầu Lạc Tướng đều biết đó là Long Vương.
- Giờ đây, nước Ân đã cử binh. Vua đã gởi ra biên giới một đoàn quân tinh nhuệ và nhiều tướng giỏi. Nhưng vua vẫn nghe lời Long Vương cho nhiều đoàn sứ giả đi rao khắp thiên hạ lời chiếu tìm người giúp nước.
Đã ba hôm rồi, vua chưa được tin tức gì của các phái đoàn. Ngài dặn thị vệ hễ có tin báo là cho ngài hay tức khắc.
Bỗng thị vệ vào báo có một đoàn sứ giả vừa trở về và muốn gặp mặt Rồng. Vua cho vời vào. Cùng mấy Lạc Tướng, Lạc Hầu, ngài ngồi nghe báo cáo của phái đoàn này.
Tâu Đức Vua, - người trưởng đoàn kính cẩn nói – khắp nơi ai cũng nghĩ rằng nhân tài Văn Lang đã quy tụ nơi chốn triều đình. Người nào cũng nói rằng vua nên tin cậy những người có tài trong giới các Lạc Tướng Lạc Hầu trong việc phá giặc. Tuy vậy chúng tôi vẫn nhẫn nại đi tìm.
“Khi đến quận Vũ Ninh, làng Phù Đổng, chúng tôi vừa mới rao truyền lệnh vua thì bỗng có một thiếu phụ ra mời chúng tôi vào nhà. Bà ta không nói năng gì hết. Khi chúng tôi vào đến nhà thì chẳng thấy ai, chỉ thấy một đứa trẻ ngồi chơi trên giường. Đứa trẻ hỏi chúng tôi:
Quý vị đi rao lệnh gì của vua thế?
“Chúng tôi thấy không nên mất thì giờ với một đứa trẻ, nên không thèm trả lời, đi ngay ra cửa. Nhưng thiếu phụ khẩn khoản mời chúng tôi ngồi lại. Bà ta đá đổ vỡ. Vua lấy hai tay ôm đầu. Một lúc sau vua buông thõng hai tay ngồi xuống lắc đầu, như để xua đuổi những bóng hình hư ảo. Gục đầu trên án thư, vua nghĩ đến những ngày thơ ấu là những ngày thanh thản chỉ biết rong chơi. Phụ thân của vua là người quen biết với vua Hùng thứ mười tám, quen nhưng không thân, bởi tính tình họ khác nhau gần như một trời một vực. Hùng Vương thì không lúc nào không đùa cợt, còn phụ thân của vua thì lại tự ái quá nhiều và hay tự quan trọng hoá mình. Khi nghe nói Hùng Vương có nàng Mỵ Nương đẹp tuyệt thế, ông đã cho người đến hỏi Mỵ Nương cho vua. Hồi đó vua đang là một người con trai chưa có chức phận gì. Hùng Vương nghe đâu đã cười ha hả mà trả  lời: “Nếu Thục huynh muốn cưới con gái yêu của ta thì phải đến đây nói chuyện với ta chứ! Ta đâu có thể nói chuyện này với một người mai mối!” Nghe đâu chỉ vì câu nói đó mà họ Thục đã nổi giận đùng đùng, cho rằng vua Hùng ỷ thế làm vua mà miệt thị bè bạn. Ông chứa chất căm hờn trong lòng cho nên đã chiêu tập binh mã, hùng cứ một bộ. Nghe tin vua Hùng gả con gái cho Sơn Vương, ông giận lắm, liền quyết chí đem quân về Phong Châu. Nhưng rồi vì lâm bệnh, họ Thục không tiến binh. Đến khi gần mất, ông gọi vua lại mà dặn:
- Này Phán, sau khi bố mất, con phải đem binh về Phong Châu đánh báo thù.
Vua theo lời di chúc của ông, cử binh đánh Phong Châu. Vua Hùng vì tin cậy quá nơi tài năng của chàng rể và sự yểm trợ của Long Vương nên đã thất bại. Binh tướng của Thục Phán đi đến đâu là quân binh của vua Hùng tan đến đó. Thục Phán tiến quân nhằm vào tháng bảy, trong khi Sơn Vương và Thuỷ Vương đang bận kịch chiến với nhau. Đây là lần kịch chiến thứ mười giữa Sơn Vương và Thuỷ Vương, xảy ra trong mười năm liên tiếp. Những cuộc chiến tranh anh em này đã làm hao tổn rất mau tiềm lực của nước Văn Lang… Sơn Vương bị bao vây trên núi, không đem quân tiếp viện cho Phong Châu được. Đến khi Thủy Vương rút lui thì Phong Châu đã mất. Vua Hùng vì thất vọng quá nhảy xuống giếng sâu mà chết.
Nắm được Phong Châu, Thục Phán lên ngôi vua, chấm dứt nhà Hùng, thành lập nhà Thục. Vua phải đi đánh trong tám tháng mới dẹp được phong trào kháng chiến của những người ủng hộ vua Hùng. Có những người đã tung tin rằng họ Thục là người nước ngoài, từ đất Ba Thục tận trên miền cực Bắc đem quân đội xuống xâm chiếm Văn Lang. Để chứng tỏ điều đó sai, Thục Vương đặt tên nước là Âu Lạc để chứng tỏ mình cũng là dòng giống tiên rồng, và duy trì pháp độ cũ. Vua cũng kén chọn người tài giỏi làm lạc hầu, lạc tướng, cũng gọi các con trai mình là quan lang và con gái là mỵ nương như ở chế độ cũ, cuộc đánh dẹp tuy gian nan, nhưng nhờ tài hành quân khéo léo, vua đã thành công, máu xương do cuộc chiến tranh gây ra đã làm u uất khung trời sáng sủa của nước Văn Lang mà bây giờ được gọi Âu Lạc. Những người chống đối vua, trong khi viết chữ Âu Lạc, thường không chịu viết chữ Lạc theo nghĩa chim Lạc mà lại viết chữ lạc theo nghĩa con thú hình thù quái lạ. Ban đầu vua muốn xây thành trì ở Việt Thường. Nhưng sau đó, nghe lời các lạc hầu vua liền dời đô lên Phong Khê, không xa với thủ phủ xưa của vua Hùng là mấy. Chính trên ngọn đồi cao ở Phong Khê mà vua muốn xây thành Ốc. Vua rất không muốn đóng thủ phủ tại Phong Châu, bởi vì bất cứ một ngọn cỏ hay lá cây nào tại  Phong Châu cũng gợi nên niềm hoài tưởng mười tám vị vua Hùng.
Tiếng một con gà gáy làm vua Thục ngửng đầu dậy. Trời đã tảng sáng. Vua đi rửa mặt, mặc áo, đi hài và ra ngồi ở đại sảnh.
Bỗng có người vào báo sứ giả dòng Sông Xanh đã tới và đang ngồi chờ tiếp kiến.
Vua hỏi sứ giả đến cách nào. Vị lạc hầu đáp:
kim quyLúc trời tờ mờ sáng thì người ta thấy một con rùa Vàng nổi trên mặt sông, từ phía Đông bơi lại. Rùa nói được tiếng người, tự xưng là sứ giả dòng Sông Xanh. Rồi rùa biến thành một ông già râu tóc bạc phơ. Quân hầu đã mời ông ta vào điện.
Vua truyền đón ông già vào, và kính cẩn mời ông ta ngồi trên sập ngự. Ông già nói:
Tôi là Kim Quy, người tay chân của Long Vương được lệnh lên đây giúp vua. Người ta gọi tôi là sứ giả dòng Sông Xanh. Xin nhà vua yên tâm. Thế nào thành Ốc cũng xây xong. Bây giờ ta hãy đi xem qua cho biết.

Vua và Kim Quy sánh vai ra khỏi cung điện. Họ tiến về phía thành Ốc đang xây lỡ dở. Tuy còn lỡ dở, nhưng thành ốc đã bắt đầu biểu lộ hình dáng vĩ đại của nó. Hai người đi lên đồi. Tới đâu, Kim Quy quan sát tới đó, và gật đầu lẩm bẩm một mình những gì không rõ. Cuối cùng, Kim Quy ngừng lại, nhìn vua, nói:
Thành này là một công trình lớn. Tôi chắc chính nhà vua đã nghĩ ra hình thái kiến trúc vĩ đại này. Điều tôi lo ngại là vua đã bắt dân chúng phục dịch và đóng góp nhiều quá. Điều đó rất không nên.
Nhưng nếu xây thành này không xong thì uy tín của triều đình cũng sụp đổ.
Tôi cũng nghĩ như vậy, nên sẽ tìm cách giúp vua tiết kiệm sức dân mà vẫn xây thành xong được như ý muốn. Sáng hôm nay, xin nhà vua cho tôi gặp những kiến trúc sư có nhiệm vụ điều khiển xây thành.
Cuộc họp mặt giữa thần Kim Quy và các kiến trúc sư được tổ chức ngay dưới chân thành Ốc. Kim Quy dùng một chiếc đũa vẽ những hình ngang dọc trên mặt đất để nói chuyện với những nhà kiến trúc. Rồi ông ta đưa những người này lên đồi. Họ dừng lại, đàm luận rất lâu ở những nơi mà hễ xây lên xong thì thành lại sập xuống. Kim Quy đi từ trái sang phải, từ phải sang trái, dùng một cây gậy dài để đo và chỉ trỏ. Rồi ông ta chỉ cách làm một đòn bẩy kiểu mới. Họ đàm luận cho đến chiều tối mới xong.
Khi Kim Quy về tới điện, thì vua Thục đang ngồi đợi cơm. Kim Quy nói:
Bắt đầu từ ngày mai, xin nhà vua chỉ cho giữ lại một nửa số dân phu để làm việc xây thành, còn một nửa số xin vua cho về quê quán làm ăn. Xin nhớ ban tặng thực phẩm, thuốc men và áo quần cho họ. Tôi xin cam đoan chỉ một nửa số dân phu còn lại cũng đủ để xây thành.
Ngày hôm sau, nghe lời Kim Quy, vua tổ chức một đàn chẩn tế vĩ đại ở dưới chân thành. Những tăng sĩ và bô lão trong nước được mời tới dự lễ cầu nguyện. Trên đàn có đủ các thứ xôi, cháo, khoai lang, hạt cốm … để cúng những oan hồn uổng tử chết trong cuộc chiến tranh và mấy trăm người phu chết vì tai nạn trong khi xây thành. Lệnh vua truyền ra là sau khi kết thúc lễ chẩn tế cầu nguyện cho người chết, thì bắt đầu cuộc chẩn tế cho người nghèo. Thực phẩm, thuốc men và vải bô được chất thành từng kho để dành tặng cho những gia đình nghèo khó nhất ở Phong Khê.
Một đêm, trong khi các vị tăng sĩ và bô lão đang tụng kinh cầu siêu cho vong linh những người tử nạn thì vua và thần Kim Quy hoá trang thành thường dân, hướng về núi Thất Diệu. Khi đến quán rượu, họ gõ cửa và tỏ ý xin ngủ trọ lại một đêm. Chủ quán tên là Ngộ Không từ chối:
- Trong quán này ma quỷ thường xâm nhập hò hét suốt đêm, quý khách không thể nào ngủ yên được đâu. Tôi xin dọn cơm rượu cho quý khách dùng, sau đó xin quý khách tìm nơi khác để an nghỉ.
Hai người nhất định ở lại, nói rằng họ không sợ ma quỷ. Chủ quán bất đắc dĩ phải dọn cho hai người một phòng sát phòng cô con gái điên của mình.
Lúc nửa đêm, vua nghe có tiếng gõ cửa gấp rút bên ngoài: hình như có rất nhiều yêu tinh quỷ mỵ đến quấy phá. Vua nghĩ không lẽ một cô gái điên mà có thể làm ra những âm thanh ghê rợn như vậy được, bèn nhìn Kim Quy để hỏi:
Kim Quy nhìn ra cửa nạt lớn:
- Không được quấy phá người ta như thế.
Nhưng tiếng đập cửa và tiếng hò hét vẫn tiếp tục không dứt. Hai cánh cửa bị sức đẩy mạnh từ bên ngoài đang kêu răng rắc sắp gẫy. Kim Quy liền làm phép phóng ra những tia lửa sáng rực. Các oan hồn không xâm nhập được. Ngồi trong phòng, vua vẫn bình yên. Hai cánh cửa vẫn còn kiên cố.
Cuộc quấy phá kéo dài suốt đêm. Đến khi hai người nghe tiếng gà gáy sáng, thì tất cả mọi âm thanh bỗng nhiêm im bặt. Kim Quy tung cửa chạy ra khỏi quán tìm đuổi. Vua cũng chạy theo. Hai người thấy trong màn sương khuya một tia lửa xanh bay vẹt về phía hông núi Thất Diệu và biến mất.
Ngày hôm đó, vua ra lệnh đào trên hông núi Thất Diệu. Thoạt tiên người ta tìm thấy một bộ xương người, và một nhạc khí đời cổ. Tiếp tục đào người ta phát giác hàng ngàn bộ xương người. Chắc chắn đây là một hố chôn tập thể những nạn nhân cuộc chiến tranh vừa xảy ra mấy năm về trước.
Vua truyền đem tất cả những bộ xương ấy, và nhạc khí đào được, rửa sạch đặt vào những chiếc hòm khiêng về trước đàn chẩn tế. Trong bảy đêm bảy ngày, thiên hạ cúng lễ, khóc kể và cầu nguyện. Những người chết này đều có thân nhân ở Phong Khê. Đến tối ngày thứ bảy các bộ xương và cây đàn cổ được đưa lên đàn để làm lễ hoả thiêu. Tất cả dân chúng Phong Khê đều đến dự lễ. Ông chủ quán núi Thất Diệu cũng có mặt trong đám người đi dự lễ. Ông ta kể với những người khác là đứa con gái của ông trưa hôm nay đang la hét như điên bỗng nhiên gục ngã xuống. Ông hoảng hồn đến nâng con dậy. Cô gái chỉ lả đi nhưng đôi mắt ngơ ngác như vừa tỉnh dậy sau một giấc ngủ thật dài. Từ đó, cô ta trở lại bình thường, không còn la hét mê sảng như trước nữa.
Sơn huynh thả em xuống dòng suối này cũng được. Em sẽ bơi về sông và sau đó sẽ tìm về biển.
Và nàng nhìn chàng:
Người đẹp hồi nãy em nói đó hiện đang ở Phong Châu. Đó là người đẹp nhất trên mặt đất, theo em biết. Em đã đi chơi khắp nơi, và đã thấy nhiều mỹ nhân nhưng chưa có ai bằng được người đó. Em khuyên Sơn huynh nên đến xin nàng. Nàng là một Mỵ Nương, con gái Hùng Vương. Em không biết tên. Vì nàng là con gái một của vua nên người ta chỉ gọi là Mỵ Nương. Sáng mai Sơn huynh nên về Phong Châu ngay đi.
Nàng cười, và rón rén bước chân xuống suối, tay vịn vào một nhành thông cho khỏi ngã. Khi cả hai chân nàng đã chấm nước, nàng nghiêng mình biến mất. Sơn Vương nhìn xuống mặt nước, có một con cá hồng quẫy đuôi chào chàng, rồi theo dòng bơi đi.
Chàng mỉm cười, theo lối mòn trở lên trên núi. Bầy sơn dương còn đó, và bọn chim rừng lại tới đậu trên vai chàng. Một lát sau, chàng vào động lấy ra một vò rượu và một cái chén nhỏ. Chàng ngồi uống rượu và nhìn trời đất một mình. Bỗng chàng chú ý đến một bàn cờ chàng đã khắc trên một phiến đá bằng phẳng. Chàng cảm thấy lời của cô gái thủy cung là đúng và cảm thấy khung cảnh hơi trống trải. Chàng định sáng mai đi Phong Châu, để xem mặt nàng Mỵ Nương mà Sita gọi là “người đẹp nhất trên mặt đất”. Chàng mỉm cười khi nhớ đến vẻ mặt tinh nghịch của công chúa thủy cung.
Sáng hôm sau, khi Sơn Vương có mặt tại triều đình, chàng nhận thấy Thủy Vương cũng có mặt ở đó. Chàng lấy làm lạ, nhưng chàng chỉ chào mà không hỏi vì cớ gì Thủy Vương cũng có mặt nơi cung điện vua Hùng. Nhưng Thủy Vương đã nói:
Chiều hôm qua, tôi gặp Sita ở trên đất về. Tôi hỏi nó ở đâu về, nó nói ở trên núi Tản Viên. Tôi hỏi nó đi gặp Vương huynh có chuyện gì, nó nhất định không nói. Tôi dọa nó, nó cũng không chịu nói, mãi đến lúc tôi định bóp cổ nó nó mới chịu nói thực. À thì ra vương huynh định đến hỏi cưới Mỵ Nương. Nhưng tôi đã có ý này từ lâu, hôm nay tôi cũng đến đây để hỏi cưới Mỵ Nương. Ha ha! Để xem ai có duyên hơn ai.
Sơn Vương lắc đầu mỉm cười, hơi khó chịu. Nhưng chàng lặng thinh không nói năng gì. Vừa lúc ấy quân hầu ra báo với hai chàng là vua Hùng cho vời cả hai thần nhân cùng vào một lúc.
Vào đến cung điện, hai chàng được vua Hùng mời ngồi trên cẩm đôn gần bên ngài. Vua vuốt bộ râu dài bạc phơ, nói:
Hân hạnh được hai thần cùng một lần đến viếng. Xin cho quả nhân biết chủ đích.
Thủy Vương nói:
Tệ thần hôm nay đến đây cốt ý là để xin đức vua quý Mỵ Nương diễm lệ. Tệ thần xin tuân theo những điều kiện mà đức vua đặt ra.
Vua Hùng gật đầu và quay lại hỏi Sơn Vương:
Còn quý nhân chắc cũng có mỹ ý gì cho nên đến thăm ta hôm nay. Xin cho quả nhân được biết.
Sơn Vương từ tốn nói:
Tệ thần sở dĩ hôm nay đến đây cũng là để xin Mỵ Nương.
Vua Hùng vuốt râu cười ha hả:
Tiếc là trẫm chỉ có được một gái. Nếu ta có hai Mỵ Nương thì tiện biết bao nhiêu. Bây giờ biết làm thế nào?
Một vị Lạc Hầu ngồi bên kính cẩn tâu:
Hiện nay đất nước ta đang bị họ Thục đe dọa lập tâm phản loạn. Tuy họ mới chiếm cứ được một dải đất nhỏ, nhưng họ có mưu kế nhiều. Vậy xin đức vua chọn trong hai thần, vì nào có tài năng cứu nước thì gả Mỵ Nương cho. Như vậy vừa giải quyết được chuyện cưới gả vừa giải quyết được chuyện giữ nước giữ dân.
Vua Hùng vừa xoay sang vị Lạc Hầu vừa mới tâu trình:
Ý của khanh hay lắm, nhưng làm thế nào để biết người nào có tài hơn người nào?
Tâu đức vua kính mến, sẳn đây xin thử pháp thuật của hai thần. Người nào pháp thuật cao hơn, người đó sẽ được Mỵ Nương.
Vua Hùng vừa mới gật đầu xoay ra lập lại lời Lạc Hầu, thì Thủy Vương đã đưa tay làm ấn quyết, miệng đọc thần chú. Sấm sét nổi dậy ầm ầm, trời đang sáng bỗng tối sầm lại. Mọi người nhìn ra thì mây đen đã phủ kín… Tiếng gào thét của nước sông và của các loài thủy quái không biết từ đâu vọng lại vang dậy. Thủy Vương lại bắt ấn: phút chốc sấm sét lặng tiếng, trời đất sáng sủa như trước. Ai nấy đều gật đầu tán thưởng pháp thuật cao cường của Thủy Vương. Và mọi người hướng nhìn về phía Sơn Vương.
Sơn Vương ngồi yên trên cẩm đôn. Chàng nghiêng mình đưa bàn tay ra quét sát nền cung điện. Bàn tay trở thành một cánh đồi, trên đó có vua Hùng và mọi người đang ngồi. Bàn tay Sơn Vương đưa mọi người ra khỏi tòa cung điện và lên cao, lên cao mãi… Mọi người thấy mình đứng trên một trái núi cao ngất trời xanh, nhìn xuống thấy thành Phong Châu và cung điện chỉ còn lớn bằng một bàn tay.
Một lát sau, trái núi hạ thấp dần trở thành cánh đồi và đưa trở lại cung điện. Sơn Vương rút bàn tay lại: mọi người thấy mình còn ngồi yên trên cẩm đôn như cũ. Vẻ mặt của Sơn Vương lặng yên, không có gì thay đổi. Nhưng mọi người đều nhận thấy nét mặt của Thủy Vương tái xanh.
Nhưng vua Hùng đã lên tiếng:
Trẫm thấy quyền phép của hai vị ngang nhau, khó có thể phân hơn kém. Thôi thì để Trẫm hỏi Mỵ Nương xem có ý kiến gì về việc chọn lựa không. Dù sao việc này cũng là việc liên hệ trực tiếp đến nó. Mỵ Nương ở đâu?
Vừa dứt lời thì một người con gái bước ra. Nàng đẹp như ánh sáng của mùa xuân, tóc như liễu, trán như bình minh, môi như hoa sen, vóc như dòng sông, dáng đi như sóng lúa. Sơn Vương nhìn nàng kinh ngạc. Chưa bao giờ chàng thấy một người con gái đẹp đến thế, và chàng thầm phục công chúa Sita.
Thủy Vương cũng nhìn Mỵ Nương sửng sốt. Chàng dặn lòng nhất quyết không để Mỵ Nương lọt vào tay thần núi Tản Viên.
Mỵ Nương tâu, giọng nàng êm dịu và trong như nước mưa trên hồ sen biếc:
Xin vua cha truyền cho hai chàng hễ sáng mai người nào đem sính lễ tới trước là người đó được vua cha chọn.
Vua Hùng gật đầu, ngài bảo với hai thần:
Ta chuẩn lời của Mỵ Nương. Vậy trong ngày mai, thần nào đem sính lễ tới trước thì thần ấy sẽ được Mỵ Nương. Nên nhớ là sính lễ phải tươm tất xứng với một đám cưới quốc gia.
Hai thần đều lạy tạ và rút lui.

Sáng ngày mai, lúc trời còn mù sương. Sơn Vương đã có mặt tại cung điện. Dân chúng quanh vùng Tam Đảo suốt đêm đã giúp chàng tìm ra bao nhiêu là vật quý như ngà voi, sừng tê, trầm đàn, ngọc lan, vỏ quế. Các loài hươu nai chim chóc cũng đã thức suốt đêm để giúp chàng. Một chiếc xe lớn do đoàn sơn dương tới hai mươi con kéo, chất đầy sản phẩm quý giá của rừng núi đã được bàn tay chàng chở về gần cung điện. Tới gần cung điện vua Hùng rồi, chàng mới rút bàn tay ra, và đoàn sơn dương chạy lóc cóc kéo những chiếc xe chất đầy sính lễ vào cung.
Vua Hùng đã thức. Mỵ Nương cũng đã thức. Vua báo con gái trang điểm gấp để theo chồng. Mỵ Nương tâu vua là nàng đã làm xong công việc ấy. Nàng nắm lấy cánh tay vua, khóc sướt mướt. Những giọt nước mắt nóng thấm vào vai hoàng đế. Vua Hùng đứng dậy, dắt nàng ra. Khi đến sân rồng nơi Sơn Vương đang phủ phục. Ngài nâng chàng dậy và nói:
Ta rất mừng thấy ngươi đến trước. Chắc con ta cũng vậy. Hãy nhận lấy hạt ngọc quý nhất của ta và của thành Phong Châu. Và hãy đem hết tài năng để giữ gìn đất nước.
Sơn Vương muốn lạy tạ nhưng Hùng Vương hối chàng ra đi ngay cho kịp.
Chiếc xe sơn dương đã đưa hai người ra khỏi cổng thành, mà vua Hùng còn lưu luyến nhìn theo. Hai giọt nước mắt trào ra, ngài vội lấy tay áo bào chùi đi và lui vào tẩm điện.
Trên xe Mỵ Nương nói với Sơn Vương:
Hôm qua, em biết chắc thế nào chàng cũng đến trước, cho nên mới đề nghị chuyện thi đua sính lễ.
Sơn Vương không nói gì, chàng cúi xuống hôn lên tóc Mỵ Nương, và giật nhẹ cương cho đoàn sơn dương chạy mau hơn chút nữa.
Đến gần trưa, Thủy Vương mới đến. Từng đoàn người khiêng những mâm lớn trên có ngọc trai, san hô và trăm ngàn thứ bảo vật khác tìm được dưới thủy phủ. Đoàn người tuần tự đi vào cung, đặt những mâm châu báu ấy xuống sập ngự.
Thủy Vương nóng ruột lắm nhưng cũng làm ra vẻ có lễ phép và phong độ. Mấy lần rồi chàng nhờ người vào thông báo, mấy lần rồi vua Hùng vẫn lặng tiếng.
Bỗng chàng túm lấy cánh tay người lính hầu, hỏi:
Từ sáng đến giờ có thần núi đến đây hay không?
Người lính hầu bị Thủy Vương nắm tay, đau quá, kêu lên một tiếng “ái”. Ông ta xin Thủy Vương buông tay ông ta ra, rồi vừa xuýt xoa vừa nói:
Sơn Vương tới đây từ hồi tờ mờ sáng với sính lễ đầy đủ. Đức vua y hẹn đã gả Mỵ Nương. Sơn Vương đã đưa Mỵ Nương lên núi Tản Viên rồi.
Nghe tới đây, Thủy Vương quát lên một tiếng giận dữ. Tiếng quát làm rung chuyển cả đền đài. Vua Hùng nghe tiếng quát, định ra an ủi chàng rễ hụt. Nhưng Thủy Vương đã gạt đổ những mâm châu ngọc và phi thân nhảy ra khỏi cung điện.
Chàng niệm chú, mây kéo đen nghịt. Sấm nổi ầm ầm, nước dâng từ biển lên cuồn cuộn. Rồi mưa đổ xuống như thác. Trong suốt mười ngày mười đ&envn1n')">Chương 12


Nguồn: http://langmai.org
Nhà xuất bản Lá Bối
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 5 tháng 11 năm 2012