Dịch giả: Vũ Mai Trang
8. Đất sét

    
gười quản lý đã cho phép bà được đi ngay sau khi bữa tiệc trà của đám phụ nữ kết thúc, và Maria nôn nóng chờ đợi buổi tối của bà. Bếp đã sáng bóng, người đầu bếp bảo chỗ nồi giờ đã có thể soi gương được. Lửa trong lò cháy đều và trên chiếc bàn kê sát tường đã bày sẵ bốn cái bánh barmbrack rất lớn. Bánh trông như chưa được cắt, nhưng nếu đến gần sẽ thấy chúng đã thành những lát dày đều tăm tắp, sẵn sàng cho bữa trà. Maria đã tự tay cắt bánh.
Maria đúng là một người rất, rất nhỏ bé, nhưng bà có một cái mũi vô cùng dài và một cái cằm vô cùng dài. Giọng bà hơi nghèn nghẹt, bao giờ cũng nhỏ nhẹ “đúng rồi, em” và “Không đâu, em”. Bà luôn được cử đến dàn xếp mỗi khi đám phụ nữ cãi cọ ganh bì chuyện chậu giặt và luôn hòa giải thành công. Một hôm người quản lý bảo:
- Maria, bà đúng là một nhà hòa giải!
Người phó quản lý và hai quý bà trong Ủy ban cũng đã nghe được lời khen đó. Còn Ginger Mooney thì luôn miệng nói nếu không nể Maria thì cô ta đã cho cái con bé ngu đần trong tổ là ủi một trận. Ai cũng vô cùng yêu quý Maria.
Đám phụ nữ có bữa trà lúc sáu giờ vậy là bà sẽ có thể rời tiệm trước bảy giờ. Từ Ballsbridge đến Pillar, hai mươi phút; từ Pillar đến Drumcondra, hai mươi phút; và hai mươi phút mua đồ. Bà sẽ có mặt tại đó trước tám giờ. Bà lôi chiếc ví có khóa bạc ra, đọc lại dòng chữ “Kỷ niệm Belfast ”. Bà rất thích chiếc ví này bởi Joe đã mua cho bà năm năm trước, khi nó và Alphy tới Belfast trong dịp Ngày thứ hai lễ hạ trần. Trong ví có hai nửa đồng curon và mấy xu lẻ. Bà sẽ còn lại tận năm shilling sau khi trả tiền vé xe điện. Họ sẽ có một buổi tối tuyệt vời, bọn trẻ sẽ hát hò say sưa! Chỉ có điều bà hy vọng Joe sẽ không về nhà trong bộ dạng say xỉn. Nó trở nên khác hẳn mỗi khi uống rượu.
Nó vẫn luôn muốn bà đến ở cùng gia đình nó, nhưng khi đó bà sẽ cảm thấy mình chỉ gây phiền (mặc dù vợ Joe đối xử rất tốt với bà) vả lại bà đã quen với cuộc sống ở tiệm giặt là. Joe là một người tốt. Bà đã nuôi nấng nó và Alphy nữa, và Joe vẫn thường nói:
- Mẹ thì vẫn là mẹ, nhưng Maria mới đúng là mẹ tôi.
Sau khi gia đình tan rã bọn con trai đã tìm cho bà một chân trong tiệm giặt là Dublin dưới Ánh đèn đêm, và bà thích công việc ở đây. Bà từng có ấn tượng không mấy tốt đẹp về những người theo đạo Tin Lành nhưng giờ bà nghĩ họ là những người rất tốt, tuy hơi ít nói và nghiêm trang, nhưng vẫn là những người rất tốt. Rồi bà có được những cây riêng của mình trong nhà kính và bà rất thích chăm sóc chúng. Bà có mấy cây dương xỉ và lan tai cáo rất xinh và, mỗi lần có ai đến thăm, bà luôn biếu họ một hai cành về giâm. Có một điều bà không thấy thích lắm, đó là những bài răn hiếu lễ trên tường, nhưng người quản lý là một người rất dễ chịu, rất lịch thiệp.
Khi người đầu bếp bảo bà mọi thứ đã sẵn sàng bà đi vào phòng dành cho người làm nữ và bắt đầu rung cái chuông lớn. Chẳng mấy chốc đám phụ nữ đã túm tụm hai ba người đi vào, vừa đi vừa chùi hai bàn tay còn đầy hơi nước của họ vào váy lót rồi kéo ống tay áo xuống phủ hai cánh tay đỏ lựng. Họ lục tục ngồi xuống trước những cái ca rất lớn người đầu bếp và con bé giúp việc vừa đổ đầy trà nóng đã có sẵn sữa và đường đổ từ những bình thiếc to đùng. Maria chăm sóc việc chia bánh barmbrack sao cho mỗi người đều nhận được bốn lát. Tiếng cười nói pha trò râm ran suốt bữa trà. Lizzie Fleming nói thế nào rồi Maria cũng sẽ bắt được nhẫn và mặc dù Fleming đã nói thế bao nhiêu đêm Halloween, Maria vẫn phải cười phá lên và nói bà không muốn nhẫn cũng không muốn ông chồng nào hết, và khi bà cười đôi mắt xanh xám của bà thoáng chút ngượng ngùng thất vọng và đầu mũi bà gần chạm chỏm cằm. Rồi Ginger Mooney nâng ca trà của mình lên chúc sức khỏe Maria, trong lúc tất cả những người khác gõ ca lách cách xuống mặt bàn, và Ginger Mooney nói chán quá, giá mà cô có chút bia đen để uống mừng sự kiện này. Và Maria lại phá lên cười cho đến khi đầu mũi bà gần chạm chỏm cằm và cho đến khi thân hình nhỏ xíu của bà gần như tách đôi ra, bởi bà biết Mooney thật sự có ý tốt, mặc dù tất nhiên cô ta cũng chỉ là một người đầu óc đơn giản.
Nhưng quả thật Maria thấy nhẹ cả người khi đám phụ nữ kết thúc bữa trà và người đầu bếp cùng con bé giúp việc bắt đầu thu dọn. Bà đi vào căn phòng nhỏ của mình và nhớ ra sáng mai là sáng đi lễ, bà vặn kim đồng hồ từ bảy giờ lên sáu giờ. Rồi bà cởi bỏ chiếc váy và đôi ủng mặc khi làm việc, đặt chiếc váy đẹp nhất lên giường và đôi giày đi chơi nhỏ xíu của mình cạnh chân giường. Bà thay cả áo nữa và lúc đứng trước gương, bà nghĩ lại hồi xưa khi còn thiếu nữ mỗi lần đi lễ sáng Chủ nhật bà từng ăn mặc như thế nào, và bà ngắm nhìn cơ thể nhỏ xíu của mình với một vẻ trìu mến lạ lẫm, cơ thể bấy lâu nay bà vẫn chăm chút. Dù đã bao nhiêu năm trôi qua bà stil thấy nó thật xinh xắn gọn ghẽ.
Khi bà ra đến ngoài, đuờng phố lấp lánh dưới làn mưa và bà mừng vì đã mang theo cái áo mưa cũ màu nâu của mình. Xe điện chật cứng và bà phải ngồi trên chiếc ghế đẩu nhỏ phía cuối, đối diện với mọi người, chân chỉ hơi chạm sàn. Bà sắp xếp trong đầu những việc mình sắp làm, và nghĩ rằng được tự do, có một chút tiền trong túi thế này quả là tốt hơn. Bà hy vọng họ sẽ có một buổi tối vui vẻ. Bà chắc chắn sẽ như vậy, nhưng bà không khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến chuyện giờ Alply và Joe không còn nói chuyện với nhau nữa. Hai đứa giờ đây luôn xung đột nhưng khi còn nhỏ chúng đã từng là bạn thân nhất của nhau, cuộc đời là thế mà.
Bà xuống xe điện tại bến Pillar và len lỏi qua đám đông. Bà đi tới tiệm bánh Downes nhưng tiệm đông khách đến nỗi phải một lúc lâu sau mới đến lượt bà. Bà mua một chục bánh ngọt nhỏ đủ các loại, và cuối cùng cũng ra khỏi tiệm với một túi lớn nặng trĩu. Rồi bà nghĩ sẽ mua thêm, bà muốn mua thứ gì đó thật ngon. Nhà họ chắc hẳn đã có đầy táo và hạt óc chó. Thật khó biết nên mua thêm thứ gì, tất cả những gì bà có thể nghĩ ra bây giờ là mua bánh. Bà quyết định mua một ít bánh nhân mận, nhưng bánh mận tiệm Downes phủ quá ít đường hạnh nhân, thế là bà rẽ vào một tiệm khác trên phố Henry. ở đây bà ngắm nghía các loại thật lâu và quý cô ăn vận thời trang đàng sau quầy, rõ ràng hơi bực mình vì bà, hỏi có phải bà muốn mua bánh cưới không. Điều này làm Maria đỏ mặt và mỉm cười với quý cô trẻ tuổi, nhưng cô gái trông hoàn toàn nghiêm nghị và cuối cùng cắt một lát dày bánh nhân mận, bọc lại và nói:
- Hai shilling bốn xu, thưa bà.
Bà tưởng sẽ phải đứng trên xe điện từ Drumcondra bởi đám trai trẻ dường như không ai để ý thấy bà nhưng một quý ông đứng tuổi đã nhường chỗ cho bà. Đó là một quý ông người chắc mập, đội mũ quả dưa màu nâu, ông có một gương mặt chữ điền hồng hào và bộ ria xám nhạt. Maria nghĩ trông ông hơi giống một vị tướng và nhớ lại ông đã lịch thiệp với bà bao nhiêu so với đám thanh niên chỉ biết giương mắt nhìn họ. Quý ông bắt chuyện với bà. Ông nói về lễ Halloween và về thời tiết mưa gió. Ông nói chắc hẳn chiếc túi kia của bà đang đựng toàn món ngon lành cho lũ trẻ và nói cũng phải thôi đúng là bọn trẻ có quyền vui chơi khiđang còn là trẻ con. Maria bày tỏ sự tán thành của mình bằng những cái gật đầu và hắng giọng kín đáo. Ông tỏ ra rất tốt với bà, và khi sắp xuống bến Canal Bridge, bà cảm ơn và cúi chào ông, và ông cúi chào bà và nâng mũ và mỉm cười lịch sự, và khi đã đi dọc dãy nhà, cúi mái đầu nhỏ tránh mưa, bà vẫn nghĩ được làm quen với một quý ông như vậy thật dễ chịu ngay cả sau khi ông ấy vừa uống tí chút.
Ai cũng kêu lên, Ôi dì Maria đây rồi! Khi bà bước vào nhà. Joe đang ở đó, vừa từ sở làm về, và tất cả bọn trẻ đều mặc những bộ quần áo đi lễ Chủ nhật. Có hai cô bé con nhà hàng xóm cũng ở đó và cả nhà đang chơi trò chơi. Maria đưa túi bánh cho cậu lớn nhất, Alphy, để chia, và Mrs Donnelly nói bà thật tốt vì đã nhọc công mang đến túi bánh to như vậy và ra lệnh cho bọn trẻ đồng thanh:
- Cảm ơn dì Maria.
Nhưng Maria nói bà còn mang một thứ đặc biệt cho bố nó và mẹ nó, một thứ chắc chắn họ sẽ thích, và bà bắt đầu lục tìm gói bánh nhân mận của mình. Bà thử tìm trong túi bánh tiệm Downes và tìm trong túi áo mưa của mình và rồi tì mtrên mặt tủ treo áo khoác, nhưng không thấy đâu cả. Rồi bà hỏi bọn trẻ liệu có đứa nào đã ăn mất rồi không – lỡ ăn, tất nhiên – nhưng lũ trẻ đều nói không và có vẻ chúng nó sẽ từ chối không còn muốn ăn bánh nữa nếu như bị buộc tội ăn trộm. Mỗi người đều đưa ra phỏng đoán về điều bí ẩn này và Mrs Donnelly nói đơn giản là Maria đã quên bánh trên xe điện. Maria, nhớ lại chuyện quý ông với bộ ria xám nhạt đã làm bà bối rối như thế nào, đỏ bừng mặt xấu hổ xen lẫn bực dọc và thất vọng. Nghĩ đến chuyện điều ngạc nhiên nho nhỏ của mình thế là tan thành mây khói rồi còn món tiền hai shilling bốn xu cũng đi tong bà suýt nữa thì òa khóc.
Nhưng Joe nói không sao cả và dẫn bà lại ngồi cạnh lò sưởi. Nó thật tốt với bà. Nó kể cho bà nghe chuyện ở sở làm, nhắc lại cho bà câu trả lời thông minh nó đã đáp lại viên quản lý ra sao. Maria không hoàn toàn tại sao Joe lại cười về chuyện câu trả lời kia nhiều thế nhưng bà vẫn nói chắc hẳn viên quản lý phải là một người khó chịu hết sức. joe nói thực ra ông ta cũng không đến nỗi khó ưa lắm nếu biết cách, rằng ông ta cũng tử tế miễn là đừng có trêu ngươi ông ta. Mrs Donnelly chơi piano cho lũ trẻ và chúng nhảy và hát. Rồi hai cô bé nhà bên chia óc chó cho mọi người. Không ai tìm thấy cái đập óc chó đâu cả, và Joe sút nữa thì cáu nhặng lên vì chuyện này và hỏi làm sao mà chúng có thể ngồi chờ Maria đập óc chó nếu như không có cái đập óc chó. Nhưng Maria nói bà không thích óc chó và họ không phải bận tâm về bà. Rồi Joe hỏi bà có muốn uống một chai bia stout không, và Mrs Donnelly nói trong nhà cũng có cả rượu porto nữa nếu bà thích uống. Maria nói họ không cần phải mời bà gì đâu, nhưng Joe cứ cố nài.
Thế là Maria phải để nó làm thế và họ ngồi bên lò sưởi nói về những năm tháng xa xưa và Maria nghĩ bà sẽ lựa lúc thuận tiện để nói giúp cho Alphy. Nhưng Joe kêu lên trời đánh thánh vật nó nếu phải nói dù một lời với thằng em và Maria nói bà rất tiếc đã gợi lại mọi chuyện. Mrs Donnelly bảo chồng nói thế về người em máu mủ của mình thì thật đáng xấu hổ, nhưng Joe nói không có anh em gì với Aphy hết và rồi mọi chuyện suýt nữa biến thành trận đấu khẩu. Nhưng Joe nói vì đêm nay là đêm lễ nên nó sẽ không nổi khùng và bảo vợ mở thêm một ít bia stout. Hai cô bé nhà bên đã chuẩn bị sẵn mấy trò Halloween và mọi thứ nhanh chóng lại trở nên vui vẻ. Maria sung sướng khi thấy bọn trẻ vui vẻ và Joe và vợ nó cũng vậy. Hai cô bé nhà hàng xóm đặt mấy cái đĩa lên bàn và dẫn bọn trẻ tới gần bàn, bịt mắt lại. Một đứa sờ được quyển kinh, còn ba đứa kia sờ phải nước, và khi một trong hai cô bé hàng xóm được cái nhẫn thì Mrs Donnelly huơ huơ ngón tay trước mặt cô bé đang đỏ bừng mặt như thể muốn nói: A, ta biết hết rồi nhé! Bọn họ nhất định muốn Maria phải bị bịt mắt và dẫn bà đến chiếc bàn xem bà sẽ chọn được gì, và trong khi họ bịt mắt bà, Maria phá lên cười cho đến khi đầu mũi gần chạm chỏm cằm.
Họ dẫn bà đến bên bàn giữa tiếng cười nói pha trò, và bà đưa tay ra phía trước theo lời chỉ dẫn. Bà huơ huơ tay trong không khí và chạm phải một trong những chiếc đĩa. Bà cảm thấy một chất mềm mềm ẩm ướt chạm vào ngón tay và thấy thật ngạc nhiên bởi không ai nói gì cũng không bỏ dải băng che mắt ra cho bà. Một khoảng im lặng mấy giây, và rồi sau đó là rất nhiều xáo trộn và thầm thì. Ai đó nói gì đó về khu vườn và cuối cùng Mrs Donnelly nói gì đó với một trong hai cô bé hàng xóm bằng giọng rất giận dữ và bảo cô vứt nó đi ngay lập tức, đây không phải trò chơi. Maria hoàn toàn rằng lần này đã không thành và vì vậy bà phải làm lại từ đầu, và lần này bà chọn được một quyển kinh cầu nguyện.
Sau đó Mrs Donnelly chơi bản Miss McCloud’s Reel cho bọn trẻ và Joe rót cho Maria một ly rượu. Họ nhanh chóng vui vẻ trở lại và Mrs Donnelly nói chắc năm nay Maria sẽ vào tu viện bởi vì bà đã bắt được quyển kinh. Maria chưa bao giờ thấy Joe tốt với bà như đêm đó, chỉ toàn là những câu chuyện thú vị và những kỷ niệm xưa. Bà nói cả nhà đã thật tốt với bà.
Cuối cùng bọn trẻ mệt nhoài và buồn ngủ và Joe hỏi liệu Maria có thể hát mấy bài ngăn ngắn trước khi về, một trong những bài hồi xưa ấy. Mrs Donnelly nói xin dì hát đi, dì Maria! Và thế là Maria phải đứng bên cạnh chiếc piano. Mrs Donnelly ra hiệu cho bọn trẻ trật tự và lắng nghe bài hát của Maria, rồi chơi khúc dạo đầu và nói Nào, dì Maria! Và Maria, mặt đỏ bừng, bắt đầu hát bằng một giọng mảnh, run run. Bà hat bài Em mơ thấy em có một tòa nhà, và khi đáng lẽ sang đến doạn hai thì bà lại hát lại:
Em mơ thấy em có một tòa nhà
Bằng cẩm thạch và người hầu vây quanh
Đối với những người bên trong đó
Em chính là ước vọng, là tự hào
Cơ man của cải giàu sang em có
Và địa vị cao quý danh quyền
Nhưng em vẫn mơ, điều sung sướng nhất
Là chàng vẫn sẽ mãi yêu em
nhưng không ai cố chỉ cho bà thấy sự nhầm lẫn và khi bà đã hát xong Joe tỏ ra cảm động vô cùng. Nó nói không gì sánh được với những ngày xa xưa và không gì hay hơn những bài hát của Balfe, cho dù những người khác có nói gì chăng nữa, và mắt nó đẫm lệ đến nỗi nó không tìm được thứ nó đang tìm và cuối cùng nó phải nhờ vợ nó chỉ cho cái mở chai đang nằm ở đâu.