Chương 9
Nỗi buồn khủng khiếp

Tôi đã khóc khi viết những dòng này. Người vợ trẻ con bé nhỏ của tôi. Sau khi lả đi một thời gian, đã tắt thở trong vòng tay Agnès. Bây giờ không phải lúc miêu tả trạng thái tâm hồn tôi. Dưới ảnh hưởng của biến cố ghê gớm đó, tôi đã cho rằng tương lai của tôi thế là đã khép lại và mọi hoạt động cùng sức sống của tôi vĩnh viễn chấm dứt.
Tôi không nhớ rõ lúc người ta khuyên tôi nên đi một chuyến du lịch, cũng không nhớ rõ vì sao chúng tôi lại nghĩ ra rằng tôi chỉ có thể được nghỉ ngơi và được an ủi bằng cách thay đổi chỗ ở và cách tiêu khiển. Agnès đã tác động đến ý nghĩ và quyết định của chúng tôi trong những ngày tang tóc ấy đến mức tôi tin rằng dự định kia là do nàng.
Theo yêu cầu của Traddles, người bạn thân thiết và tận tụy nhất của tôi trong cảnh đau buồn này, bà cô tôi, Agnès và tôi quay về Canterbury.
Chúng tôi đến thẳng nhà ông Micawber,họ đang đợi chúng tôi. ông đã quyết định di cư. Rút trong túi ra một cuốn sổ tay tra cứu, ông trịnh trọng nói:
- Về sự trợ giúp tài chính cho phép chúng tôi thả con xuồng mong manh trên đại dương của những công cuộc kinh doanh, tôi đã cân nhắc điểm chủ yếu này và đề nghị với bà thu xếp theo như tôi đã thảo trên giấy vay nợ có dán tem. Tôi xin hoàn lại đúng theo các kỳ hạn đã ghi, mười tám tháng, hai năm và hai năm rưỡi.
- Xin tùy ý ông, thưa ông. - Bà cô tôi nói.
Gia đình Micawber rút lui để chúng tôi tự do trao đổi.
- Tôi phải nói cho công bằng về ông Micawber, - Traddles nói, - nếu như ông ta không biết làm việc hiệu quả cho bản thân mình, thì với công việc của người khác ông làm không biết mệt. Tôi chưa thấy ai như thế. ông Dick cũng đã làm những việc thật tuyệt vời! Ngay sau khi khỏi phải lo canh giữ Uriah Heep, công việc mà ông đã làm một cách mẫn cán chưa từng thấy, ông đã hết lòng vì quyền lợi của ông Wickfield và ông đã thực sự giúp chúng ta những việc quan trọng bằng cách tra cứu sổ sách, làm biết bao nhiêu những việc ủy thác vặt vãnh, sao chép mọi tư liệu cần thiết.
- Dick là một người rất đặc biệt, - bà cô tôi reo lên, - bao giờ bà chẳng nói như vậy, Trot ạ, cháu biết đấy..- Tôi sung sướng nói rằng, cô Wickfield ạ, Traddles nói tiếp một cách tế nhị và nghiêm trang thật cảm động, trong khi cô đi vắng, sức khỏe bác Wickfield khá lên rõ rệt. Được giải thoát khỏi gánh nặng đè lên mình lâu đến thế và khỏi những cảm giác hãi hùng khủng khiếp, bác đã khác hẳn trước.
Sau khi làm yên lòng Agnès, Traddles trình bày lại những kết quả công việc của mình. Bác Wickfield không bị thiếu hụt và có thể đàng hoàng rút khỏi công việc kinh doanh. Có điều hầu như bác chỉ còn lại vài trăm bảng để sinh sống.
- Không lo, - Agnès nói. - Em đã có dự tính.
Mọi người ở đây đều biết em và chỉ mong em gặp chuyện tốt lành. Nhu cầu của nhà em không lớn.
Nếu em có thể cho thuê căn nhà cũ thân thương và mở một ngôi trường, em sẽ sung sướng thấy mình có ích.
Traddles giải thích cho cô tôi, nhờ sự hăng hái tích cực và nỗ lực của ông Micawber, họ đã có thể rút tiền từ móng vuốt của Uriah. Vậy là bà có thể thu hồi được tài sản của mình.
- Uriah ra sao rồi? - Bà cô tôi hỏi.
- Cháu không biết gì hết. - Traddles đáp. - Mẹ hắn cứ ra sức kêu la và van nài. Và hắn đã ra đi với mẹ hắn. Họ đã đi Luân Đôn chuyến xe buổi tối và cháu không biết gì hơn nữa về họ.
- Còn ông Micawber?
- Cô Trotwood, cháu đã thưa với cô, quả là ông ấy thật nhiệt tình. Không nên quên rằng ông ta hành động có hiệu quả như vậy hoàn toàn là bởi lòng tận tụy, trong khi ông ấy có thể nhận được ở Uriah Heep nhiều thứ mà chỉ cần bán cái ngậm miệng là xong!
- Và bây giờ nên biếu ông ta cái gì? - Cô tôi hỏi.
- ông Micawber đã ký tạm vay Heep các khoản tiền tạm ứng.
- Vậy thì! - Cô tôi nói, - cần hoàn trả cho ông ấy.
- Vâng, nhưng cháu không biết lúc nào hắn sẽ dùng những giấy tờ ấy để trả đũa ông ta, - Traddles mở to mắt đáp. - Cháu rất sợ từ nay đến lúc lên đường ông Micawber có thể bị bắt hoặc bị tịch biên bất cứ lúc nào vì mắc nợ.
- Thế thì phải luôn luôn lo cho ông ta. - Bà cô tôi nói. - Tất cả hết bao nhiêu?
- Số tiền lên tới một trăm lẻ ba bảng năm si linh.
- Ta thử xem tặng ông ta cái gì ngoài số tiền ấy nữa? - Bà cô tôi nói. - Bao nhiêu nhỉ? Năm trăm bảng nhé?
Traddles và tôi, khẩn khoản đề nghị chỉ giao dần từng khoản nhỏ cho ông Micawber. Không hứa.gì với ông ta cả và cứ trả dần số tiền ông ta nợ Uriah. Sẽ thanh toán tiền tàu bè và phí tổn đến nơi ở mới của gia đình ông, ngoài ra sẽ cho thêm một trăm bảng nữa. Cần tỏ vẻ coi việc ông Micaw-ber dàn xếp để trả các khoản nợ tạm ứng ấy là nghiêm túc, bởi vì có làm cho ông bị ràng buộc vào trách nhiệm này mới có lợi cho bản thân ông.
Người ta cho mời ông bà Micawber vào và giải thích những điều chúng tôi đã thỏa thuận về chuyện của ông. Cả gia đình ông rất vui mừng. ông Micawber có việc ra ngoài mua mấy thứ cần thiết, năm phút sau quay về, đã có một nhân viên cảnh sát đi kèm.
Ông nức nở khóc báo tin với chúng tôi rằng thế là hỏng hết cả rồi. Vì đã lường trước việc Uriah Heep sẽ trả thù, chúng tôi thanh toán ngay khoản nợ.
Hôm sau cô tôi và tôi, phải về Luân Đôn trước.
Chúng tôi thỏa thuận rằng bán đồ đạc xong gia đình ông Micawber kéo về sau; rằng công việc của ông Wickfield sẽ được giải quyết thật sớm và sau đó Agnès đến Luân Đôn.
Ông Peggotty và bạn bè chúng tôi ở Yarmouth gặp nhiều chuyện buồn và bất hạnh to lớn. Họ quyết định di cư sang úc. Vì họ phải xuống cùng chuyến tầu với gia đình Micawber, tôi đã giới thiệu họ làm quen nhau để mọi người có thể giúp đỡ lẫn nhau trong chuyến vượt biển và khi họ đến nơi ở mới.
Ông Micawber còn bị bắt lần nữa trước khi lên đường. ông đã rơi vào tuyệt vọng ủ rũ, cuối cùng lại hăng hái nhảy lên ôm cổ tôi khi tôi đuổi được viên cảnh sát bằng cách trả tiền vay nợ cho ông.
Chúng tôi chia tay với những người ra đi.
Đến lượt tôi rời Anh quốc. Tôi không tìm thấy một lối thoát nào khỏi vực thẳm buồn phiền mà tôi đã rơi xuống. Tôi du lịch sang nước ý, Thụy Sĩ.
Tôi nhận được nhiều thư của Agnès. Nàng sung sướng, như đã nói với chúng tôi, vì cảm thấy mình có ích. Nàng thành công trong việc nàng tiến hành, như nàng vẫn mong ước.
Sau ba tháng, tôi quyết định xa quê hương thêm ít lâu nữa và tạm thời lập nghiệp ở Thụy Sĩ.
Tôi làm việc kiên nhẫn và căng thẳng, từ tờ mờ sáng cho đến khuya. Tôi viết một truyện ngắn mà đề tài có phần liên quan đến nỗi buồn mới đây của tôi. Tôi gửi cho Traddles, anh thu xếp xuất bản với điều kiện có lợi cho tôi. Lời đồn đại về tiếng tăm ngày càng lớn của tôi lọt đến tận tai tôi, do làn sóng những khách bộ hành tôi gặp trên đường.
Sau khi nghỉ ngơi và thư giãn chút ít, tôi lại bắt đầu sáng tác về một đề tài mới mà tôi vô cùng thích thú. Càng tiến tới hoàn thành tác phẩm tôi càng bị thu hút vào đó và tôi dành toàn bộ nghị lực để đạt kết quả. Đó là thử nghiệm thứ ba của.tôi về thể loại này. Viết gần được một nửa tác phẩm vào lúc nghỉ giữa chừng, tôi nghĩ đến việc quay về Anh quốc.
Tôi cập bến ở Luân Đôn vào một tối mùa thu giá lạnh và mưa. Hơn một năm nay tôi chưa nhìn thấy sương mù và bùn ở lục địa nhiều bằng phút chốc ở đây.
Tôi biết hoàn cảnh nhiều người trong số bạn bè tôi đã có thay đổi. Bà cô tôi đã quay về Douvres từ lâu và Traddles đã có được một số khách hàng quen ít lâu sau khi tôi ra đi. Bây giờ anh ở một căn hộ nhỏ tại Gray’s Inn. Trong một bức thư gần đây anh cho tôi biết anh sắp kết hôn với "cô gái tuyệt vời nhất đời".
Mọi người đợi tôi về vào dịp Noel, nhưng tôi về sớm hơn. Tôi đến Gray’s Inn.
- Cậu có biết ông Traddles ở đâu không? -Tôi hỏi một cậu hầu bàn tiệm cà phê.
- Tòa án Holborn, số 2, thưa ngài.
- ông Traddles bắt đầu nổi tiếng trong giới luật sư có phải không?
- Có thể là như vậy, thưa ngài, nhưng tôi không rõ.
Trong lúc ăn tối tôi cũng dò hỏi nhiều người.
Và tôi rất thất vọng thấy rằng hình như Traddles được ít người biết đến ngay tại khu chung cư của mình.
Tôi đến ngay ngôi nhà số 2, và tôi đọc một bảng chỉ dẫn trong sân nhà ông Traddles ở căn hộ tầng cuối cùng. Tôi lên cầu thang, một chiếc cầu thang cũ nát, được rọi sáng lờ mờ bằng một chiếc đèn dầu ám khói, ngọn bấc đang lụi dần trong chiếc lồng kính bẩn. Bước thấp bước cao, tôi tưởng như nghe thấy tiếng cười giòn giã: không phải tiếng cười của biện lý hay luật sư, mà là của mấy cô gái vui vẻ. Nhưng khi tôi ngừng lại nghe ngóng, chẳng may chân tôi tụt xuống một lỗ sàn thủng. Tôi ngã đánh sầm và lúc bò dậy tiếng cười đã tắt.
Tôi leo cẩn thận chậm hơn quãng cầu thang còn lại. Tim tôi đập thình thịch khi tôi đến trước cửa mở hé ngoài có ghi tên Traddles. Tôi gõ và nghe bên trong có tiếng ồn ào, nhưng chỉ thế thôi.
Tôi lại gõ lần thứ hai. Một cậu người nhỏ nhắn bộ dạng hoạt bát, có vẻ nửa là nhân viên nửa là đầy tớ xuất hiện, thở hổn hển, nhưng nhìn tôi trâng tráo.
- ông Traddles có nhà không?
- Thưa ông có, nhưng ông ấy đang bận.
- Tôi muốn gặp ông ta.
Sau khi quan sát tôi một hồi nữa, cậu bé tinh nghịch quyết định cho tôi vào. Thế là mở thật rộng cửa, cậu dẫn tôi vào một tiền sảnh, rồi vào một phòng khách nhỏ. ở đó tôi gặp người bạn cũ, cũng.đang thở hổn hển. Mặc dù vậy, anh ta vẫn trịnh trọng ngồi trước bàn, chúi mũi vào giấy tờ.
- Trời ơi! - Traddles kêu lên và ngước mắt nhìn tôi - Copperfield đấy à! - Và anh lao vào vòng tay tôi, tôi siết chặt anh khá lâu.
- Mọi việc tốt đẹp cả chứ, Traddles thân mến?
- Tốt cả, bạn thân mến, Copperfield tốt bụng của tôi, và chỉ có tin vui báo với cậu mà thôi.
Cả hai chúng tôi phát khóc vì vui mừng.
- Bạn thân mến, - Traddles nói tiếp. - Bây giờ cậu nổi tiếng rồi! Bạn Copperfield lừng danh của tôi! Trời ơi, thế cậu ở đâu về đấy? Cậu về khi nào? Cậu ra sao rồi?
Traddles đưa tôi ngồi vào chiếc ghế bành lớn gần lò sưởi. Một tay anh cời mạnh than, tay kia nắm cà vạt, chắc anh tưởng là cổ áo khoác của tôi để kéo tôi lại gần. Rồi chẳng kịp bỏ que cời,chúng tôi ôm chầm lấy nhau, và cả hai vừa cười vừa lau nước mắt.
- Không ngờ sát ngày về mà cậu không dự được buổi lễ!
- Lễ nào, Traddles thân mến?
- Sao! - Anh mở to đôi mắt kêu lên. - Cậu không nhận được bức thư mới đây của mình ư?
- Chắc chắn là không, nếu thư đó nói đến buổi lễ.
- Nhưng, Copperfield thân mến, - Traddles nói trong khi lấy tay vuốt tóc, - mình lấy vợ rồi!
- Lấy vợ rồi! - Tôi kêu lên vui sướng.
- ›n chúa, đúng là như vậy! - Traddles nói.
- Mục sư Horace làm hôn lễ cho mình với Sophie ở Devonshire. Nhưng, bạn ơi,cô ấy kia kìa, sau tấm rèm cửa sổ. Nhìn xem.
Người con gái tuyệt diệu nhất đời ở chỗ nấp bước ra, vừa cười vừa e thẹn khiến tôi rất ngạc nhiên. Bạn chưa bao giờ nhìn thấy một cô dâu xinh xắn hơn, đáng yêu hơn, thế này đâu, và tôi không thể không nói ngay điều ấy với Traddles. Tôi hôn nàng với tư cách người bạn cũ (vì nàng đã dự đám cưới tôi) và tôi chân thành chúc họ mọi sự thịnh vượng.
- Chúng mình cực kỳ hạnh phúc. Cho đến cả các cô ấy cũng hạnh phúc! Nhưng mà này, mình quên khuấy các cô ấy.
- Sao cơ?
- Đúng rồi, các cô ấy, - Traddles nói tiếp, -các chị em của Sophie, họ đang ở đây với chúng mình. Họ đến thăm Luân Đôn. Chuyện là thế này...
cậu có bị ngã ở cầu thang không, Copperfield?
- Có, đúng đấy! - Tôi cười đáp. - Thế này nhé! Khi cậu ngã ở cầu thang thì bọn chúng tôi đang chơi trò ú tim. Nhưng vì trò chơi này không thích hợp ở Westninster Hall, và phải tôn trọng nghi thức nghề nghiệp trước mặt khách hàng, các cô đã nhanh chóng trốn đi. Và bây giờ, - anh nói thêm, - hẳn bọn họ đang nghe lỏm chuyện chúng mình.
- Mình rất phiền lòng vì đã gây ra sự tán loạn như vậy.
Sophia chạy ra gọi chị em cô và chúng tôi nghe thấy những chuỗi cười ở phòng bên.
- OEm nhạc nghe mới dễ chịu làm sao, phải không, Copperfield thân mến? - Traddles nói. -Nghe nó thật vui tai. Phải làm như thế để cho căn hộ cũ kỹ này tưng bừng lên. Đối với một anh con trai đã sống độc thân, quả là tuyệt vời, thật là thú vị. Tội nghiệp cho các cô em chịu thiệt thòi rất nhiều khi sống thiếu Sophie!... Vì mình cam đoan với Copperfield, Sophie đúng là cô gái tuyệt diệu nhất đời. Cho nên mình rất vui thích thấy các cô vui chơi. ở bên các cô gái này có cái gì rất thú vị, Copperfield ạ. Không thật phù hợp với nghi thức nghề nghiệp của mình, nhưng tôi chẳng cần, thật là tuyệt diệu.
Tôi nhận thấy anh nói những điều ấy có đôi chút bối rối. Tôi hiểu rằng, vì lòng nhân từ, anh sợ rằng miêu tả những niềm vui gia đình quá mạnh mẽ, sẽ làm tôi buồn, nên tôi vội vàng làm anh yên tâm bằng cách tán thành quan điểm của anh với sự biểu lộ nhiệt tình khiến anh khoan khoái.
- Căn hộ, chỉ có ba phòng; nhưng Sophie đã thu xếp một cách tuyệt vời và tất cả các cô được bố trí chỗ ở hoàn toàn thoải mái. Ba cô trong căn phòng này, - anh chỉ cho tôi một cánh cửa và nói thêm, - hai cô trong căn phòng kia.
Tôi không thể không ngó quanh để tìm chỗ ở của hai vợ chồng Traddles. Traddles hiểu ý tôi:
- Có một căn bé bé xinh xinh áp mái. Sophie đã dán giấy phủ tường để làm tôi ngạc nhiên. Đó là một cái tổ dễ thương.
Chị em Sophie cuối cùng đã tề tựu và Traddles giới thiệu họ với tôi:
- Xin giới thiệu với ông Copperfield cô Caroline, cô Sarah, cô Louisa, cô Margaret và cô Lucy.
Thực sự đó là một bó hoa hồng; các cô thật tươi mát và thật khỏe mạnh, và tất cả đều xinh đẹp.
Cô Caroline rất kiều diễm nhưng cái nhìn sáng rực của Sophie có sự biểu lộ thật âu yếm, thật vui tươi, thật trong sáng đến nỗi tôi tin chắc rằng bạn tôi lựa chọn không lầm.
Bà Traddles luôn thanh thản và vui tươi, bắt đầu pha trà và rán món thịt trong góc gần lò sưởi.
Trong khi chăm chú vào công việc ấy, nàng nói với tôi rằng nàng đã gặp Agnès. Tom đã dẫn nàng.đến Kent trong dịp họ đi hưởng tuần trăng mật.
Nàng cũng đã gặp bà cô tôi, bà rất khỏe, Agnès cũng vậy và hai người chỉ nói chuyện với nàng về tôi.
Khi tôi cáo từ, Traddles muốn tiễn tôi về tận khách sạn, tôi tưởng chưa bao giờ nhìn thấy một mái đầu quay qua quay lại giữa bao nhiêu bàn tay để nhận một trận mưa những nụ hôn. Có điều chắc chắn, đó là lúc chia tay, tôi không có chút gì tiếc cho người bạn cũ của tôi. Tôi bắt đầu tin vào những thành công của anh trong tương lai.
Đang ngồi trong góc lò sưởi tại một quán cà phê tôi chợt thấy một gương mặt làm sống lại những kỷ niệm thời xa xưa nhất của tôi. Đó là ông bác sĩ Chillip nhỏ bé, chính cái ông bị bà cô tôi đã quăng cái mũ vào đầu vào cái đêm tôi ra đời.
Ông đang ngồi đó bình thản đọc báo, đầu nghiêng về một bên và ly rượu hâm nóng để cạnh ông. Tôi lại gần và nói với ông:
- Dạo này ông có khỏe không, thưa ngài Chil-lip?
Ông tỏ ra rất lúng túng về câu thăm hỏi bất ngờ của một người không quen và chậm rãi trả lời theo thói quen của ông.
- Xin cảm ơn ông, thưa ông, ông thật tốt bụng.
Còn về phần ông, ông vẫn khỏe chứ?
- ông có nhớ tôi không thưa ngài Chillip? ông đã chăm sóc lúc tôi chào đời.
- Thảo nào ông thay đổi nhiều kể tù ngày ấy.
Khi tôi xưng tên, ông rất xúc động. ông bắt tay tôi thật chặt.
- ông Copperfield, giá như tôi quan sát ông kỹ hơn thì tôi đã nhận ra ông. ông giống như đúc người cha xấu số của ông.
- Tôi không bao giờ có được cái hạnh phúc nhìn thấy cha tôi. - Tôi đáp.
Vì ly rượu của ông đã cạn, tôi đề nghị ông cho phép tôi gọi một ly khác và tôi cũng gọi một ly để ngồi chung với ông. ông trở nên mau miệng và chúng tôi nói chuyện với nhau hồi lâu.
- ông có biết, - ông Chillip bỗng lên tiếng, -bố dượng của ông lại trở thành người hàng xóm của tôi không?
- Tôi không biết gì cả.
- ông ta đã lấy một cô vợ trẻ người ở đây, cô ta có một gia tài khá, tội nghiệp cho bà ta!
- Tôi cho rằng ông Murdstone và bà chị ông ta định bắt bà ta khuất phục và bắt bà ta phải quen với tính tình đáng ghét của họ. Cầu chúa giúp đỡ bà. Bà có chịu lép một bề không?
- Phải nói rằng thời gian đầu họ cãi nhau dữ dội. - ông Chillip nói, - nhưng bây giờ bà ra chỉ còn.là cái bóng. ông Murdstone và chị ông ta bị mọi người trong vùng ai cũng ghét.
Đến nửa đêm tôi mới đi ngủ, cực kỳ mệt mỏi.
Hôm sau tôi đáp xe khách về Douvres.
Chuyến đi bình an đưa tôi về phòng khách cũ của bà cô tôi, tôi xuất hiện đột ngột giữa lúc bà đang dùng trà. Tôi được bà cô tôi, ông Dick và chị Peggotty thân yêu nay là quản gia hồ hởi đón với nước mắt mừng vui.
Lúc đã có thể bình tĩnh nói chuyện, tôi kể cho cô tôi nghe về cuộc gặp gỡ với ông Chillip. Chị Peggotty và bà cô tôi có nhiều chuyện để nói về cái kẻ giết người gọi là chị ông ta, về người chồng thứ hai của mẹ tôi. Tôi tin rằng không có cái gì trên đời này kể cả sắc lệnh của Nghị viện, cả hình phạt của tòa án có thể buộc được cô tôi gọi cái người đàn bà đó bằng cái tên rửa tội, tên dòng họ hoặc bất cứ cái tên nào khác.