Đánh máy: Cao thủ Mai Hoa Trang
Hồi 15
Kim Mao Nhất Xuất Nhân, Nhân Trục
Tuyệt Địa Cầu Sinh Trí Dũng Toàn

Đường quan đạo đã có nhiều người đi lại, họ nhìn Hãn Thanh với ánh mắt tò mò nghi hoặc. Nữ nhân kiều diễm trong lòng chàng khiến có kẻ nghi chàng là một tên dăm tặc. Hơn nữa, đã đến lúc phải xem xét bệnh tình của Tiểu Thuần. Hãn Thanh liền ghé vào đường mòn nhỏ ở cánh rừng tay phải.
Được hơn dặm, một con suối nhỏ cắt ngang đường mòn. Hãn Thanh rẽ ngựa lên thượng nguồn. Suối không sâu, chỉ ngập đến bụng Đà Nhi, nước lạnh toát khiến linh vật khoan khoái hí nhẹ. Vài khắc sau, chàng đã đến nơi phát nguyên của dòng suối. Đó là một thác nước cao độ mười trượng đang đổ ào ào từ đỉnh vách đá xuống. Khung cảnh này hơi giống với nơi chàng đã tìm thấy Hồng Sắc Mãng Xà. Hãn Thanh thúc ngựa bước lên bờ, chàng tung mình lên tảng đá lớn nhất, có đỉnh tương đối bằng phẳng, đặt ái thê xuống rồi kiểm tra kinh mạch. Chân khí Tiểu Thuần vẫn cuồn cuộn, lưu chuyển thông suốt không hề bị bế tắt. Vậy là nàng bị phục thuốc mê!
Trước lúc chàng lên đường Thần Y đã trao cho chàng vài viên linh đan để phòng thân, có cả loại giải độc đan rất thần diệu. Hãn Thanh cẩn thận điểm huyệt, phong tỏa nội lực của Tiểu Thuần rồi mới dám cho nàng uống thuốc.
Quả nhiên, chỉ nửa khắc sau nàng đã vươn vai ngáp dài, mở mắt nhìn Hãn Thanh. Chàng không giỏi y thuật nhưng đọc sách thuốc khá nhiều hiểu rằng tâm thần Tiểu Thuần bị tổn thương vì vết thương trên trán. Cộng với vụ đắm thuyền ngoài Đông Hải, phu phụ chia lìa khiến nàng loạn trí!
Hãn Thanh ngồi xếp bằng hé mắt quan sát phản ứng của Tiểu Thuần, chàng ngạc nhiên khi thấy nàng không ôm lấy mình vì mừng rỡ mà lại mỉm cười bí ẩn và nhắm mắt lại.
Chàng suy nghĩ rất lâu chợt thức ngộ ra rằng phong cảnh nơi đây đã nhắc nhở kỷ niệm năm xưa, khi nàng hiến thân để cứu mạng chàng.
Hãn Thanh chợt nuôi hy vọng cứu tỉnh hiền thê, liền giả như đang bị máu mãng xà công phát, rút kiếm tự sát, quả nhiên Tiểu Thuần ngồi bật dậy chụp lấy tay chàng kéo vào lòng.
Hãn Thanh xa nàng đã lâu lòng thương nhớ biến thành nỗi khát khao tái ngộ, chàng háo hức vuốt ve xác thân ngà ngọc kia, và đưa nàng vào cuộc truy hoan. Tiểu Thuần liên tiếp bồng bềnh trên sóng tình, xiết chặt lấy tấm thân cường tráng của phu quân.
Từ ngày Tiểu Thuần mất tích đến nay chàng không hề gần gũi nữ nhân vì Lạc Bình, Hồng Hương mang thai còn Đạm Vân thì bệnh hoạn. Nay gặp lại người mình yêu nhất đời chàng chẳng hề muốn ngưng cuộc ái ân!
Tiểu Thuần đỏ mặt nói:
- Sao hiền đệ không chịu ngủ đi để ngu tỷ còn phải về Tứ Xuyên nữa?
Hãn Thanh đau đớn đáp:
- Đó là chuyện ngày xưa, giờ đây chúng ta đã thành phu thê nàng quên rồi sao?
Tiểu Thuần ngượng ngùng thỏ thẻ:
- Ngu tỷ lớn hơn Thiên đệ mười tuổi làm sao thành chồng vợ được? Nay vì ngươi mà Ngọc Nữ ém Nguyên Thần Công của ta bị đình đốn ở lớp thứ tám, ta phải về Phong Đô tạ tội với song thân trước đã! Chuyện hôn nhân, xin hẹn rằm tháng bảy này!
Hãn Thanh biết nàng vẫn còn điên loạn cố nén tiếng thở dài, nói lãng đi:
- Không được! Tiểu đệ chẳng thể xa rời tỷ tỷ, vì vậy chúng ta sẽ cùng đi Tứ Xuyên!
Tiểu Thuần chưa kịp phản đối đã bị Hãn Thanh hôn lên môi, lên má và tiếp tục trận mây mưa!
Đến gần trưa, hai người mới rời thác nước trở ra đường quan đạo. Tiểu Thuần đã gầy đi nhiều nên trọng lượng chẳng là bao. Đà Nhi nhẹ nhàng phi nước đại, đưa đôi tình lữ về Nam. Đến Trực Cô, Hãn Thanh nhờ Cái Bang chuyển thư của chàng về Lạc Dương. Song thân của Tiểu Thuần sẽ có mặt ở Hầu phủ để đón nàng.
Ban ngày Tiểu Thuần rất vui vẻ bình thường nhưng đêm về nàng giật mình la hét gọi tên phu tướng, khi nhận ra Hãn Thanh ở bên cạnh vỗ về nàng mới yên tâm ngủ lại. Chàng rất đau lòng khi lúc tỉnh nàng luôn gọi chàng là Thiên đệ còn lúc mê lại là Hãn Thanh. Tai họa ở biển đông ngày ấy đã luôn ám ảnh tâm trí Tiểu Thuần.
Bốn ngày sau hai người vào thành Bảo Định. Mùa Đông phía Bắc Hoàng Hà đến từ đầu tháng mười, tuyết rơi lất phất, điểm trắng cây cối và vạn vật, ngắm tuyết đầu mùa cũng là một thú vui của các bậc tao nhân nho sĩ. Đám tiểu hài xúng xính trong áo bông nô đùa đây đó, tiếng cười trong trẻo vang vọng phố phường.
Tiểu Thuần ăn uống bình thường nên da mặt đã có sắc hồng. Nàng mặc áo choàng lông ngồi phía trước Hãn Thanh, dựa vào lòng chàng mà trò chuyện:
- Thiên đệ! Chúng ta lên lầu kia uống rượu thưởng tuyết nhé!
Những đêm ái ân nồng thắm đã khiến nàng ý thức được rằng mình đã là vợ của Hãn Thanh, đối với chàng rất tôn kính, dù chẳng nhớ gì về quá khứ cả!
Tập quán phu xướng phụ tùy, Cử Án Tề Mi đã ăn sâu vào tiềm thức phụ nữ Trung Hoa thời ấy, vì vậy ánh mắt Tiểu Thuần đầy vẻ van nài!
Hãn Thanh mỉm cười:
- Ta đồng ý với nếu nàng chịu gọi ta bằng tướng công và xưng bằng thiếp!
Tiểu Thuần thẹn thùng đáp:
- Chưa cưới hỏi mà Thiên đệ đã hiếp đáp ta rồi! Ngu tỷ xưng hô như thế rất ngượng ngùng. Nhưng thôi, Thiên đệ muốn vậy thì Ngu tỷ cũng xin chiều ý!
Hãn Thanh buồn bã nói:
- Ta đã giải thích hàng trăm lần sao nàng vẫn không tin?
Tiểu Thuần đau đớn sa lệ:
- Ngu tỷ không sao nhớ được những gì đã xảy ra!
Hãn Thanh bất nhẫn an ủi:
- Kh hai mối đại cừu khó báo phục. Nay Hoàng Thiên cho Lôi Thần đánh vỡ trung điểm của trận kỳ môn quanh miếu, dui dủi ngươi vào đến đây, tức là chị em ta có tiền duyên với nhau! Tỷ tỷ sẽ tận lực giúp ngươi báo phục mối huyết cừu!
Hận Thiên cảm kích nói:
- Nhưng tỷ tỷ là ma, làm sao giúp được tiểu đệ!
Quỉ hồn cất giọng xa vắng:
- Ngu tỷ tên là Trịnh Tiểu Thuần con gái của vua nước Dạ Lang ở đất Qúi Châu, hai mươi năm trước chết nhằm giờ kỵ, linh hồn không thể siêu thoát và sẽ biến thành quỉ gây hại cho bách tính. Chính vì vậy, Đại Pháp Sư của nước Dạ Lang đã phải đưa quan tài đến Long Mạch Hóa Sơn này trấn yểm, lập trận tỏa yêu này mà giam giữ. Nay đã quá thời hạn hóa quỉ, nhưng vong hồn vất vưởng nơi này, không xa được thi hài! Nếu hiền đệ chịu ra tay tương trợ, ngu tỷ mới có thể lìa xác mà đầu thai được. Nhưng trước khi về chốn Diêm đài, ngu tỷ có thể lần lừa vài năm mà phù trì cho hiền đệ!
Người Cao Sơn rất tin tưởng vào pháp lực thông thần của ma quỉ, hơn nữa, Thiên nhi cảm thấy thương cho cảnh ngộ của Quỉ hồn nên động lòng nghĩa nghĩa:
- Được! Tiểu đệ sẵn sàng giúp tỷ tỷ được siêu sinh tịnh độ!
Con ma mừng rỡ nói:
- Chỉ cần Thiên đệ nhỏ vào miệng ngu tỷ chín giọt máu cùng một chung nước, và dùng kim châm vào mười tám đại huyệt trên thân thể. Sau đó, mỗi đêm nằm cạnh ta từ đầu giờ tý đến sáng, làm như vậy trong ba ngày, ngu tỷ sẽ có đủ dương khí mà giải phá phép trấn yểu của Dạ Lang Đại Pháp Sư!
Hận Thiên còn trẻ dại, lại thầm xem nữ lang như mẹ mình nên không ngần ngại gì cả. Cậu bé gật đầu đáp:
- Tiểu đệ xin tuân mệnh. Chỉ mong tỷ tỷ đưa giúp vong hồn của Tiên mẫu về cho tiểu đệ được gặp!
Quỉ hồn ngượng ngập đáp:
- Thiên đệ quả là đứa con chí hiếu! Nhưng chỉ sợ lệnh mẫu đã sớm siêu thoát thì tỷ tỷ không tìm được!
Hận Thiên buồn rầu gượng cười:
- Nếu Tiên mẫu đã sớm về Hoàng Tuyền thì thôi!
Quỉ hồn thở dài:
- Thiên đệ hãy lắng nghe ta đọc tên mười tám đại huyệt kia. Không được nhầm lẫn đấy nhé. Trên bệ thờ có một hộp kim châm cứu, mỗi mũi cắm sâu một lóng tay là đủ! Đầu giờ Tý rút ra!
Hận Thiên nghe xong đọc lại không sai một chữ. Nó mở mắt đứng lên, bước đến bàn thờ tìm hộp kim, nhận ra pho tượng đá kia có gương mặt rất giống Trịnh Tiểu Thuần!
Thiên nhi không kịp thắc mắc, mau mắn tiến hành việc giải thoát cho Quỉ hồn!
Cậu lấy kim trong hộp gỗ đâm vào đầu ngón tay tả, vạch miệng tử thi và nhỏ máu vào, đủ chín giọt thì ngưng. Thiên nhi cầm chung sứ trên bàn thờ, ra ngoài hứng đầy nước mưa, trút từ từ vào chiếc miệng nhỏ nhắn, có hai hàm răng trắng đều.
Nó hơi lấy làm lạ khi xác chết không hề hôi hám mà lại thoang thoảng mùi hương thơm như hoa lan!
Đến phần cắm kim vào huyệt đạo, Thiên nhi bắt đầu lúng túng. Cậu học nghề phóng Sách Hồn Tiễn tất phải tinh thông kinh mạch và vị trí các huyệt đạo. Nhưng khi giết người thì dù ném trật một chút cũng chẳng sao. Đây lại là cứu người, không thể sai sót được!
Xác của Trịnh Tiểu Thuần mặc đến hai lớp áo, Thiên nhi sợ mình cắm kim không đúng vị trí, đứng tần ngần mãi. Cuối cùng, nó tự an ủi rằng đây chỉ là một tử thi, cũng như thân mẫu của mình vậy!
Hận Thiên tặc lưỡi, cởi thắt lưng, mở rộng hai lớp áo và tháo yếm ngực xác chết ra! Màu da trắng nhợt, tựa như trong suốt kia khiến cơ thể Tiểu Thuần đẹp một cách ma quái.
Thiên nhi cẩn thận dùng lóng tay đo khoảng cách để xác định từng huyệt, nhờ vậy nó biết rằng da thịt của xác chết này rất mềm mại chứ không khô cứng như xác ướp của Vũ Di Tiên Nương!
Trong mười tám đại huyệt kia có hai huyệt nằm trên vú là Thần Phong, Ưng Song, và ba huyệt nằm dưới thắt lưng quần là Quan Nguyên, Trung Cực, Qui Lai.
Hận Thiên cắm xong mười tám mũi kim, mồ hôi toát ra như tắm, bước ra mái hiên hứng giọt gianh mà rửa mặt. Đã là đầu canh hai, cơn mưa hạ vẫn rỉ rả chứ chưa chịu tạnh. Cậu bé vỗ về tuấn mã rồi trở vào trong.
Nghe bụng đói meo, Hận Thiên xiết chặt giải lưng quần, ngồi dựa quan tài chờ đợi. Thời gian trôi qua chậm chạp khiến lòng người nặng trĩu. Ở đây làm gì có mõ báo canh, Thiên nhi lo lắng hỏi:
- Trịnh tỷ tỷ! Đã đến giờ Tý chưa?
Có tiếng của Quỉ hồn trả lời, nhưng lần này rất rõ ràng và phát ra ngay trong hòm:
- Thiên đệ cứ ngủ đi! Khi nào đến lúc ngu tỷ sẽ gọi!
Hận Thiên đứng bật dậy, thấy tử thi đã mở mắt, miệng cười như hoa nở!
Cậu bé ngơ ngác hỏi:
- Tỷ tỷ hồi sinh rồi ư?
Tiểu Thuần chớp đôi mắt đẹp đáp:
- Nhờ chín giọt máu đồng nam của Thiên đệ mà ngu tỷ có thể nhập hồn vào xác mà trò chuyện với ngươi!
Bỗng ánh mắt nàng thoáng lộ vẻ thẹn thùng:
- Sao ngươi không kéo áo lại cho ta?
Thì ra nàng cũng biết xấu hổ vì thân thể lõa lồ của mình! Thiên nhi vội nhẹ nhàng khép hai tà áo lại. Nó thản nhiên nói:
- Cơ thể tỷ tỷ rất giống tiên mẫu. Chỉ gầy hơn một chút thôi!
Tiểu Thuần nghe Hận Thiên bình phẩm thân hình mình, càng bội phần xấu hổ, da mặt đỏ hồng lên. Nhờ ánh đuốc vàng võ nên Thiên nhi không nhận ra!
Tiểu Thuần nói lảng sang chuyện khác:
- Chắc hiền đệ đã đói bụng! Hãy cố nhịn đói đêm nay. Sáng mai tìm chút dã vị mà ăn. Chung quanh đây có rất nhiều thú nhỏ.
Nàng bèn chỉ dẫn cho Hận Thiên những hang ổ của bọn chồn thỏ trong khu rừng! Sau cùng, Tiểu Thuần dịu giọng:
- Đã đến giờ Tý rồi đấy!
Thiên nhi ngơ ngác:
- Sao tỷ tỷ biết?
Tiểu Thuần cười đáp:
- Ta là ma chứ đâu phải người thường!
Hận Thiên gật gù, mở áo rút kim ra khỏi cơ thể Tiểu Thuần. Chiếc quan tài này có chiều ngang rộng gấp rưỡi những chiếc bình thường. Đáy lót nệm bông trải lụa chung quanh lót gối mềm rất nhiều. Thiên nhi lấy bớt gối ra, đẩy xác nữ lang qua một bên rồi phủi chân bước vào, nằm cạnh. Cậu bé tò mò hỏi:
- Trịnh tỷ tỷ đã chết hai mươi năm sao thân thể lại thơm tho như vậy?
Tiểu Thuần ngượng ngùng đáp:
- Đó là do phép trấn yểm của Dạ Lang Đại Pháp Sư nên ngu tỷ không bị thối rửa!
Giấc ngủ của trẻ thơ đến rất nhanh, nhất là Thiên nhi có cảm giác như đang nằm cạnh từ mẫu. Nó ôm chặt Tiểu Thuần mà thiếp đi.
Ngọn đuốc thứ hai sắp tàn mà đôi mắt nhung huyền của nữ lang vẫn chưa nhắm lại. Nàng nhìn lên mái ngói, suy nghĩ mông lung, cố nén tiếng thở dài.
Sau ba đêm như vậy, mạch của Tiểu Thuần đã đập lại bình thường, cơ thể ấm lên. Nàng đã ngồi dậy và đi lại được!
Tiểu Thuần nghiêm trang bảo Hận Thiên:
- Thiên đệ cứ lên đường đi Hồ Đạt Lai. Ngu tỷ tịnh dưỡng thêm bảy ngày mới phá được ma pháp đi theo ngươi được!
Hận Thiên lưu luyến nói:
- Mong tỷ tỷ nhanh chân cho! Tiểu đệ sẽ rất nhớ người!
Tiểu Thuần buột miệng:
- Ta cũng vậy!
Nói xong nàng đỏ mặt quay về quan tài, không dám tiễn chân cậu bé.
Hận Thiên lên ngựa rời khu rừng trở ra đường quan đạo, đi lên hướng Bắc. Lòng cậu vô cùng sung sướng khi nghĩ đến người chị ma quái của mình.
Từ ngày mất mẹ, Thiên nhi luôn cô đơn, sầu khổ, nay có được một người thân, dẫu là ma cũng chẳng sao! Hơn nữa, việc làm bạn với ma đã trở thành niềm kiêu hãnh của cậu bé. Đứa trẻ nào cũng mơ mộng viễn vông và khát khao những điều kỳ lạ!
Thiên nhi đến Lạc Dương vào đúng ngày mùng năm tháng bảy. Theo lời chỉ dẫn của Chu Duy Diễn, cậu bé tìm đến Lạc Thủy Đại Tửu Lầu ở cửa Bắc!
Lạc Dương từng là kinh đô của nhiều triều đại nên to lớn, cổ kính và phồn vinh hơn Thượng Nhiêu, Nam Xương. Do đó, cơ ngơi của Nhất Bất Thông Chu Minh cũng đồ sộ, tráng lệ hơn Mỹ Hương tửu lầu.
Gã tiểu nhị khom lưng, ân cần mời khách giá lâm. Vị khách trẻ tuổi này tuy mặc áo vải nhưng phong thái tôn quý như con nhà thế gia vọng tộc.
Tướng mạo sang cả như vậy, chắc chắn không thể nghèo được.
Sắp đến giờ Dậu nên Hận Thiên cũng gọi một mâm cơm. ún xong, cậu bảo gã tiểu nhị tính tiền và nói:
- Ngươi vào bẩm với Chu Đại Thúc rằng ta mang thư của chủ nhân Mỹ Hương Tửu Lầu ở Thượng Nhiêu đến xin bái kiến!
Gã này làm công ở đây đã hai chục năm nên biết rõ gia quyến của chủ nhân. Gã mừng rỡ đáp:
- Nếu đúng vậy thì chẳng cần bẩm báo, tiểu nhân sẽ đưa công tử lên gặp Chu lão gia!
Tòa tửu lâu này có ba tầng, và gia đình Nhất Bất Thông ở nửa sau của tầng chót. Nửa còn lại, Chu lão đầu dùng để tiếp những thực khách tiếng tăm và bằng hữu!
Giờ đây chỉ một bàn duy nhất có người ngồi. Một trong sáu người ấy là Nhất Bất Thông Chu Minh. Sắc diện của họ Chu và năm người kia đều nặng nề, đầy nét ưu tư.
Gã tiểu nhị chỉ vào một lão già tuổi thất tuần, trán cao, mắt sáng, mũi diều, bảo Hận Thiên:
- Đây là Chu lão gia! Công tử cứ đến mà bái kiến!
Cậu bé gật đầu, bước lại vòng tay nói:
- Bẩm Chu tiền bối, tiểu điệt có thư giới thiệu của Chu lão ở Thượng Nhiêu.
Nói xong, Hận Thiên trao thư cho Nhất Bất Thông. Lão đọc xong cau mày bảo:
- Công tử theo lão phu vào thư phòng đàm đạo!
Lão cáo từ năm vị khách rồi đưa Thiên nhi vào một phòng ở cuối sảnh.
Chủ khách vừa ngồi xuống, Nhất Bất Thông đã nói ngay:
- Công tử cần gì xin nói mau. Lão phu đang gặp chuyện rắc rối nên không thể tiếp lâu được!
Hận Thiên vội lấy túi đựng tóc ra đặt xuống trước mặt Chu Minh và hỏi:
- Xin tiền bối xác định giùm những sợi tóc này có phải là của Hồng Phát Ma Quân Cung Chủ Vạn Hoa Cung hay không? Hoặc giả trên giang hồ còn người khác?
Nhất Bất Thông giật mình, háo hức mở ra. Lão nhìn rất kỹ rồi đáp:
- Lão phu cam đoan rằng trong vòng trăm năm trở lại đây, võ lâm chỉ có một cao thủ duy nhất là Hồng Phát Ma Quân Tang Dương mang màu tóc này!
Hận Thiên mừng rỡ, thu hồi tang vật rồi cáo biệt:
- Cảm tạ Chu tiền bối đã dạy bảo, vãn bối không dám quấy rầy thêm!
Nhưng sự việc này đã đánh trúng vào thói hiếu kỳ của Nhất Bất Thông!
Một đứa bé hỏi thăm lai lịch của một đại cao thủ, lại còn mang theo vật chứng tất không phải là bình thường!
Chu Minh nổi danh Vạn Bác cũng do có óc tò mò hơn thường nhân, luôn chịu khó tìm tòi, học hỏi. Vì vậy, lão chẳng thể bỏ qua cơ hội hiếm có này.
Nhất Bất Thông cười bảo:
- Khoan đã! Mong công tử nói rõ ngọn nguồn, biết đâu lão phu sẽ giúp được gì chăng?
Hận Thiên mừng thầm, ngồi xuống hỏi thêm:
- Tiền bối đã có dạ quan hoài, vãn bối mạo muội muốn biết thêm rằng:
Hồng Phát Ma Quân có hận thù gì với Vũ Di Tiên Nương và Mông Diện La Sát Phùng Lệ Phi hay không?
Nhất Bất Thông bỗng run rẩy nói:
- Lão phu đã nhận ra đôi mắt của Phùng nữ hiệp, mong công tử thành thực cho biết lai lịch?
Quả thực Thiên nhi thừa hưởng đôi mắt đẹp của mẫu thân. Năm xưa, Phùng Nương vùng vẫy giang hồ, lúc nào cũng bịt mặt bằng sa đen, chỉ chừa có đôi mắt. Nhưng muốn nhận ra sự quen thuộc của một đôi mắt thì phải tiếp xúc rất nhiều lần!
Hận Thiên thấy nhãn thần Chu Minh long lanh, đầy vẻ tha thiết, yên tâm thố lộ:
- Tiền bối đoán không sai! Tiên mẫu chính là Mông Diện La Sát!
Chu lão sững người lẩm bẩm:
- Chẳng lẽ bà ấy đã chết rồi sao, Phùng nữ hiệp chưa đến bốn mươi mà?
Vẻ đau khổ và nuối tiếc hiện rõ trên khuôn mặt già nua của Nhất Bất Thông! Hận Thiên nghiến răng kể lại thảm án trên đỉnh Hổ Phong!
Hận Thiên không biết, nhưng Chu Minh thì hiểu ngay rằng Mông Diện La Sát đã bị dâm sát. Lão trợn mắt rít lên:
- Tang lão cẩu! Không ngờ ngươi lại đốn mạt đến dường này!
Hai giòng lệ hiếm hoi ứa ra khoé mắt nhăn nheo. Hận Thiên lấy làm lạ - Dám hỏi tiền bối có quan hệ gì với tiên mẫu?
Nhất Bất Thông buồn bã đáp:
- Mười lăm năm trước, lão phu cùng bái huynh bị bọn Thiểm Tây Tứ Sát vây đánh ở chân núi Đồng Bách. Trong lúc cửu tử nhất sinh ấy, Phùng nữ hiệp đã xuất hiện, giết Tứ Sát, cứu mạng anh em lão phu! Bà còn hộ tống hai tấm thân đầy thương tích này về đến Lạc Dương. Đại ân này, suốt đời lão phu vẫn ghi lòng tạc dạ. Sau lần suýt chết ấy, võ công lão phu chỉ còn một nửa, bèn xoay qua nghề kinh doanh, may mắn tạo nên sự nghiệp. Nhưng lúc ấy lệnh mẫu đã hoàn toàn biệt tăm, không còn thấy xuất hiện trên giang hồ nữa! Lão phu nhờ người dọ hỏi khắp nơi mà cũng không tìm ra!
Hận Thiên cười bảo:
- Năm ấy, gia mẫu kết hôn cùng gia phụ, sinh sống ngay trên bờ Lạc Thủy, sao tiền bối lại không tìm thấy?
Chu Minh cau mày tự nhủ:
- Lạ thực! Hai bên bờ Lạc Thủy đâu có người nào họ Nam Cung?
Nhưng lão không tiện nói ra chỉ hỏi thêm:
- Thế lệnh tôn đâu mà công tử lại một mình phiêu bạc thế này?
Hận Thiên căm hận đáp:
- Đúng ngày thôi nôi của vãn bối, tiên phụ đã bị Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên sát hại, chôn thây dưới dòng nước Lạc Hà rồi!
Nhất Bất Thiên nhảy nhổm:
- Không thể thế được! Sao lại có chuyện ấy? Bạch Y Hầu là thiên hạ đệ nhất kỳ nam tử, nhân tâm hiệp cốt, được cả võ lâm và bách tính tôn sùng, lẽ nào lại vô cớ giết người?
Hận Thiên:
- Té ra lão lại tôn thờ Bạch Y Hầu như vậy! Nhưng tiên mẫu đã nhắc đi nhắc lại suốt tám năm trời, chẳng lẽ lại sai được? Lão không đi tìm Mộ Dung Thiên mà hỏi thử xem? Lão cẩu tặc ấy cũng ở trong thành Lạc Dương này mà?
Chu Minh buồn rầu đáp:
- Hỏi ai bây giờ? Cũng mười bốn năm trước, không hiểu vì lẽ gì mà Bạch Y Hầu đã bỏ nhà đi biệt tăm!
Hận Thiên nói ngay:
- Chắc là lão đã xấu hổ vì giết một thư sinh yếu đuối như gia phụ nên không dám nhìn mặt ai nữa chứ gì?
Cậu bé đứng phắt dậy, giận dữ cáo từ:
- Nếu lão còn nhớ đến tiên mẫu xin giữ kín giùm việc này. Xin cáo biệt!
Nhất Bất Thông là người thông minh tuyệt thế, lại đa mưu túc trí như hồ ly, dù lòng không tin nhưng vẫn tìm ra cách giải quyết. Lão nghiêm nghị bảo:
- Công tử cứ ngồi lại, kết hợp hai việc kia, có thể thấy rằng Mộ Dung Thiên chính là hung thủ. Lão phu quyết vì Phùng nữ hiệp mà tìm cho ra Bạch Y Hầu, đòi lại công đạo!
Gương mặt cau có của Hận Thiên dãn ra, nhưng giọng nói vẫn còn hậm hực:
- Lão hiểu được là tốt! Nhưng ta còn phải đi đến một địa phương để luyện thêm võ nghệ, mới đủ sức giết Bạch Y Hầu. Mong Chu lão tìm giúp Mộ Dung Thiên và Hồng Phát Ma Quân. Sau này thành tài, ta sẽ trở lại đây nhờ lão chỉ điểm!
Nhất Bất Thông vội nói:
- Công tử yên tâm, lão phu thề sẽ tận lực. Xin công tử cứ ở lại Lạc Dương một đêm. Vì dẫu có đến được bến đò cũng đã quá trễ để sang sông. Lão phu có một tòa khách điếm trong thành, mong công tử hạ cố cho!
Thấy Chu Minh quá khẩn thiết, Hận Thiên gật đầu:
- Nếu vậy xin làm phiền lão một phen!
Nhất Bất Thông mừng rỡ kính cẩn theo Hận Thiên ra ngoài. Lão vòng tay nói với năm người khách kia:
- Chư vị lượng thứ cho, lão phu phải đưa vị công tử đây đến Vạn An lữ điếm, rồi sẽ trở lại ngay!
Nhất Bất Thông có danh vọng rất lớn trong võ lâm, nên thái độ kính cẩn của lão đối với cậu bé này đã khiến bằng hữu phải thắc mắc! Nhưng họ chẳng dám hỏi han gì cả, chỉ lẳng lặng gật đầu!
Chu Minh đích thân đưa Hận Thiên đến tòa lữ điếm Cách đấy chừng hơn dặm. Lão dặn dò chưởng quầy phải hậu đãi người thượng khách nhỏ tuổi.
Thiên nhi được đưa lên tầng hai, vào một phòng thượng hạng của khách điếm. Cậu bé gieo người xuống giường nệm bông êm ái, lát sau thiếp đi.
Cuối canh hai, tiếng gõ cửa làm Hận Thiên giật mình thức giấc. Chưởng quỉ đích thân bưng lên một tô cháo bốc hơi nghi ngút. Lão tươi cười bảo:
- Lão phu là Lục Tâm Hiền. Kính thỉnh công tử dùng chén cháo khuya cho ấm bụng!
Hận Thiên gật đầu:
- Lão cứ đặt xuống bàn, tắm gội xong ta sẽ ăn.
Lục chưởng quỉ mau mắn tuân lệnh. Lát sau lão trở lại với một nô tỳ tuổi đôi tám:
- Bẩm công tử, ả nô tỳ này tên gọi Hà Nhi, y thị sẽ hầu công tử tắm gội!
Hận Thiên cau mày:
- Từ năm mười tuổi ta đã có thể tự tắm rửa, hà tất phải phiền đến người khác như vậy?
Lục chưởng quỉ cười hề hề:
- Công tử là thượng khách của Chu chủ nhân, tất nhiên phải có người chăm sóc, hầu hạ. Nếu công tử từ chối, chỉ e lão phu sẽ bị quở mắng!
Hận Thiên không muốn lão . Lão đã già mà không con cái, nhà cửa tang hoang, phải nương tực nơi Hầu phủ, bảo sao không buồn?
Chàng chờ Tiểu Thuần ngủ say, khẽ gỡ tay nàng ra rồi rời lều đi về hướng đống lửa bập bùng. Bốn lão nhân chưa chịu ngủ, bày chiếu rượu nhâm nhi. Họ đã già rồi nên giấc ngủ đến rất muộn và đêm trở nên quá dài.
Bạch Thần Y mừng rỡ mỉm cười:
- Tiểu Thuần đã yên giấc chưa? Thanh nhi hãy ngồi xuống uống với bọn ta vài chén!
Lục Phán Quan cũng nói:
- Thiếu Thanh nhi, lão phu mất cả tửu hứng!
Lão hồ hởi rót đầu bát, bắt Hãn Thanh uống cạn.
Ai cũng yêu mến chàng nên cuộc rượu hào hứng hẳn lên, ngay Tây Môn Thủy cũng nói nhiều hơn thường lệ.
Hãn Thanh cười hỏi:
- Bạch lão bá! Có đúng là máu của Kim Mao Hồ Ly sẽ làm tăng thêm đến sáu mươi năm công lực hay không?- Bạch Nguyên Giáp gật đầu:
- Đúng thế! Tám mươi năm trước Kỳ Liên Thần Quân bắt được một con và trở thành đệ nhất cao thủ. Kim Mao Hồ Ly chuyên ăn rễ cây thuốc và độc xà nên cơ thể tích lũy được rất nhiều dược tính!
Hãn Thanh tư lự:
- Nếu nó thực sự trân quí như vậy thì dù bắt được, chúng ta cũng trở thành mục tiêu tranh đoạt của quần hùng, nhất là bọn Vu Sơn Sơn Chủ!
Tề Phi Tuyết cười nhạt:
- Bọn ta sẽ liều chết đoạn hậy để ngươi và Tiểu Thuần thoát đi!
Hãn Thanh chính sắc đáp:
- Tiểu tế không thể vì bệnh tình của Tiểu Thuần mà luân hại cả trăm người thế này! Sáng mai, khi bắt được linh thú, tiểu tế sẽ mang nó mà dụ mọi người đuổi theo. Còn chư vị bảo vệ Tiểu Thuần trở về Lạc Dương ngay, vì nơi Hồng Hương, Lạc Bình, Đạm Vân đang ẩn nấp không hề an toàn như ta tưởng. Mộ Dung Bạch là em ruột của Mộ Dung Cầu, kẻ đã phản bội lại Hầu phủ, biết đâu gã cũng có tâm địa như anh mình?
Tề Phi Tuyết biến sắc:
- Chu Minh không biết Mộ Dung Cầu làm phản nên đã chọn nhà của Mộ Dung Bạch! Lạy trời cho không có gì xảy ra!
Tây Môn Thủy thở dài:
- Dẫu về ngay đêm nay cũng không kịp, đành chờ đến sáng mai thôi!
Hãn Thanh phải trấn an họ:
- Tiểu tế chỉ lo xa thế thôi, chưa chắc anh em họ đã có lòng dạ giống nhau!
Nỗi lo lắng khiến lòng người nặng trĩu, chẳng còn hứng thú đâu mà ăn nhậu. Họ giải tán trở vào lều và thức trắng đến sáng!
Bình minh vừa ló dạng, Tề Phi Tuyết và Bạch Nguyên Giáp đã đánh thức mọi người dậy, ăn điểm tâm cho thật no và bố trí phòng tuyến!
Một mảnh đất bằng phẳng không có đá, ở cách bờ suối vài trượng, đã được chọn làm nơi giăng lưới.
Bốn mươi gã quỉ tốt thủ hai mươi tấm lưới đánh cá phục xuống, vây kín mục tiêu. Hò đều mặc áo choàng, đội mũ lông trắng và chỉ lát sau đã bị tuyến phủ kín trông như những mô đá hình người.
Bạch Thần Y ngồi xếp bằng giữa vòng vây, nâng sáo, vận công thổi một khúc nhạc kỳ lạ. Bọn Hãn Thanh, Tiểu Thuần, Tề Phi Tuyết và hai vị Phán Quan ẩn cả trên cây gần đấy, tay cũng thủ lưới nhỏ.
Số đệ tử còn lại nằm im lìm sau những tảng đá, tạo thành phòng tuyến thứ hai!
Tiếng sáo du dương, rộn rã xuân tình của Bạch Nguyên Giáp bay cao vút, theo ngọn Bắc Phong lan xuống phía Nam. Hãnh Thanh nghe lực dục bừng lên, thầm kinh hãi trước khúc ma âm!
Ngày còn thơ ấu, Hãn Thanh từng chặt trúc làm sáo thổi chơi. Chàng không rành âm luật nhưng nhờ trí nhớ phi thường chỉ nghe qua vài lần là có thể bắt chước không sai một nét.
Thời gian chầm chậm trôi qua, mồ hôi tươm đầy trên trán Bạch Thần Y mà Kim Mao Hồ Ly chưa xuất hiện.
Hãn Thanh liền nhẩy xuống nói:
- Tiểu đệ đạ thuộc lòng giai điệu của bản tiên, xin được thổi thay cho lão bá!
Bạch Nguyên Giáp mừng rỡ trao Thiết Địch cho chàng rồi bảo:
- Nếu ta biết ngươi thổi được sáo thì đã không phải mệt thế này!
Hãn Thanh cười nói:
- Nếu có sai sót, xin lão bá chỉ bảo cho!
Chàng nâng sáo thổi liền, và chẳng hề có lỗi nào cả, Bạch lão hài lòng lui ra, nhẩy lên cây ẩn nấp.
Công lực Hãn Thanh cực kỳ thâm hậu nên tiếng sáo lồng lộng vang rất xa. Tiêu khúc chỉ dài độ nửa khắc, hết lại phải thổi từ đầu. Sau vài lần làm như vậy, Hãn Thanh đã hoàn toàn nắm được tinh túy của Mê Khúc, khiến cả bọn già nua như Tề Phi Tuyết cũng phải rạo rực xuân.
Hãn Thanh thổi hết lượt thứ mười thì từ hướng Nam vọng lại tiếng rít lanh sát con vật trong truyền thuyết.
Kim Mao Hồ Ly chỉ lớn gấp rưỡi con mèo nhà, chiếc đuôi xù dài ba gang và lớp lông màu vàng óng ánh sắc hoàng kim rực rỡ dưới anh nắng ban mai.
Nếu nó đứng im thì chẳng khác gì một pho tượng bằng vàng ròng tinh xảo!
Con vật nhìn thấy Hãn Thanh ngỡ ngàng nhận ra đấy không phải là bạn tình của mình, liền chậm bước.
Hãn Thanh vội bớt công lực đưa tiếng sáo về hướng con vật, cố mê hoặc nó. Chàng thử thổi theo nhịp nhanh hơn trước và đã dụ được Kim Mao Hồ Ly bước vào bẫy.
Linh thú đến sát chân Hãn Thanh, thò mũi đánh hơi. Chàng không bỏ lỡ cơ hội, chụp ngay lấy cổ Hồ Ly!
Bọn mai phục mừng rỡ bỏ lưới đứng lên reo hò. Bạch Thần Y chạy ngay đến, búng vào miệng linh thú một viên hoàn dược. Kim Mao Hồ Ly lật tức mê man bất tỉnh. Họ Bạch cười khà khà:
- Nó sẽ nằm im cho đến lúc chúng ta về tới Lạc Dương! Mau rời khỏi đây thôi!
Nhưng chung quanh đã vang lên tiếng cười ghê rợn của Vu Sơn Sơn Chủ - Đâu có dễ như vậy! Muốn về Lạc Dương thì phải dâng Kim Mao Hồ Ly cho lão phu trước đã!
Thì ra bọn Hãn Thanh đã bị vây chặt bởi một đạo quân đông gấpiv>Bọn mới đến hành động rất mau lẹ, dứt khoát. Họ tản ra chung quanh tòa tửu lâu, từ xa ném vào những trái cầu màu trắng, nhỏ như trái chanh. Hai tầng dưới mịt mù khói trắng và vọng ra những tiếng ho sặc sụa.
Toán mai phục bên trong bắt buộc phải xông ra ngoài đối diện với bọn hắc y. Nhân số của họ chỉ độ ba mươi người, thua xa đối phương. Bản lãnh của những kiếm thủ thanh y này cũng không bằng các tay búa của Phù Dung Hội.
Nhưng nhờ có độc châm hỗ trợ nên giữ được thế quân bình.
Lão áo đen cao gầy quát vang:
- Thì ra Phi Châm Môn! Bọn ngươi đã tận số rồi nên mới dám đến đây hỗ trợ lão họ Chu!
Nói xong, lão cùng đồng bọn phi thân lên tầng chót để giết Nhất Bất Thông, tiếng đàn sáo giờ đây đã im bặt, Chu Minh và nnhn áo xanh rút kiếm chờ đợi.
Thấy hai lão đầu lĩnh một gầy một béo sắp hạ thân xuống lan can, nữ nhân kia vung tay rải một nắm độc châm để chặn lại.
Nhưng hai cây lưỡng nguyệt phủ trong tay đối phương đã hóa thành màn lưới thép bảo vệ toàn thân. Kim thép chạm vào phủ ảnh, bắn ra những tia lửa nhỏ và rơi rụng.
Hai lão ác ma vừa đặt chân xuống thành lan can đã lao đến tấn công. Chu Minh và nữ nhân áo xanh vội rút kiếm chống đỡ. Chỉ chiêu đầu đã thấy được sự lợi hại của hai cây lưỡng nguyệt phủ và công lực thâm hậu của hai đầu lĩnh Phù Dung Hội!
Nếu nữ nhân kia không liên tiếp phóng ra những mũi phi châm thì nàng và Nhất Bất Thông đã nguy rồi!
Hận Thiên kinh hãi, chuyền ra đầu cành ngoài cùng, đứng lên nhún nhảy vài cái để lấy đà. Cành cây trĩu xuống rồi bật lên, trợ lực cho Thiên nhi vượt quảng đường năm trượng.
Cậu bé sinh trưởng chốn núi rừng nên rất quen thuộc với cách bay nhảy của loài khỉ mặt vàng núi Vũ Di. Năm mười một tuổi, Thiên nhi đã có thể chuyền cành cây mà đuổi theo bọn khỉ vượn.
Thân hình Thiên nhi bay vút lên cao, rơi vòng xuống lan can tửu lâu. Lúc còn trên không trung, Thiên nhi đã vận toàn lực xạ ngay hai mũi Xách Hồn Tiễn vào lưng kẻ địch.
Ám khí độc môn này được rèn bằng huyền thiết nên khá nặng, đuôi lại có bốn cánh nên bay rất xa. Do Thiên nhi xuất thủ từ khoảng cách hai trượng khiến đối phương khó đối phó, khi phát hiện thì trở tay không kịp.
Hai lão áo đen nghe tiếng gió vội phiêu thân tránh né, nhưng cũng bị Sách Hồn Tiẽn cắm vào tay.
Trước khi rời núi Vũ Di Sơn, Hận Thiên đã tẩm kỳ độc vào đầu ba mươi sáu mũi Sách Hồn Tiển. Chất kỳ độc bí truyền này của người Cao Sơn rất lợi hại, đã từng tạo nên danh tiếng cho Mông Diện La Sát.
Hai lão ác ma trúng đòn, vội nhảy lui điểm huyệt phong bế vùng chung quanh thương tích. Nhưng chất độc kia cứ lan nhanh vào cơ thể. Lão béo lùn đã nhận ra lai lịch ám khí, rú lên kinh hoàng:
- Sánh Hồn Tiễn!
Hai lão biết không còn phương cứu vãn, nhất tề vung búa chặt phăng tay trái của mình đi!
Nhất Bất Thông và Thanh Y nữ lang mừng rỡ lao vào tấn công tới tấp.
Hận Thiên cũng liên thủ với họ vì không muốn đối phương tẩu thoát. Cậu bé biết thanh đoản kiếm mỏng manh ngắn ngủn của mình không thể chịu đựng nổi những nhát búa như trời giáng của đối phương, nên đã tận dụng Cửu Cung Mê Bộ tránh né, chờ cơ hội phóng Sách Hồn Tiễn!
Hai lão áo đen tuy mất một cánh tay nhưng vẫn hung hãn như mãnh thú.
Lão gầy một mình đối phó với hai người, để lão béo giết cho được Hận Thiên.
Lão ta múa tít lưỡng nguyệt phủ, miệng gầm lên căm hận:
- Tiểu tử chết bầm kia, lão phu không giết được ngươi, quyết chẳng làm người nữa.
Năm xưa, Mông Diện La Sát Phùng Lệ Phi thành danh là nhờ vào thủ pháp Sách Hồn Tiễn và pho khinh công Cửu Cung Mê Bộ. Bà mang kiếm cho có lệ chớ ít khi dùng đến.
Vì vậy, giờ đây Thiên nhi chập chờn như bóng ma, thoát khỏi những nhát búa chết người chỉ trong gang tấc. Công phu khổ luyện từ thuở ấu thơ đã phát huy được hiệu dụng. Nhưng cậu cũng tháo mồ hôi hột vì những lần lưởi búa lạnh lẽo chỉ cách cơ thể trong gang tấc. Thiên nhi đã bảy lần phóng Sách Hồn Tiễn mà không hạ được đối phương, lòng vô cùng hổ thẹn, tự nhủ sẽ cố trau dồi thêm. Phùng Nương đã luyện thủ pháp này đến mực đại thành, tay không động đậy mà Sách Hồn Tiễn vẫn bay đi, Thiên nhi không thể sánh được.
Bỗng thấy lão cao gầy đang để trống hậu tâm. Hận Thiên xạ ngay một mũi Sách Hồn Tiễn. Cậu còn quá nhỏ để hiểu rằng hành vi ám toán kia là trái với đạo nghĩa của người hiệp khách. Đòn bất ngờ này đã trúng đích, lão cao gầy đau đớn rú lên, tay chân luống cuống bị trúng thêm một nắm phi châm của nữ lang áo xanh, ngã lăn ra chết.
Lão béo đau lòng trước cái chết của đồng đảng chẳng còn sợ Sách Hồn Tiễn nữa, lao thẳng đến chụp lưới thép xuống đầu Hận Thiên.
Hai mũi Sách Hồn Tiễn bay ra, cắm vào ngưc lão ta mà vẫn không cản được bước tiến. Có lẽ lớp mỡ dầy trên cơ thể đã khiến mũi thép không vào sâu đến phủ tạng.
Hận Thiên bị bất ngờ, chỉ còn biết trợn mắt kinh hoàng chờ chết. Chu Minh và nữ lang áo xanh sợ hãi thét lên, nhưng không cách nào can thiệp được.
Trong lúc sinh mệnh cậu bé như chỉ mành treo chuông, bỗng có luồng gió mạnh ập đến, đẩy lão béo lùn chếch sang một bên. Lưỡi búa phá nát lan can và lão ta lao xuống đất, nặng nề như trái mít rụng.
Nhất Bất Thông ngây người trước hiện tượng bất ngờ kia, lát sau mới hồi tỉnh chạy đến ôm Hận Thiên mà khóc:
- Không ngờ công tử lại liều lĩnh đến cúu lão phu như vậy! Hậu nhân của Phùng nữ hiệp quả đáng mặt anh hùng.
Thiên nhi gượng cười:
- Anh hùng gì! Vãn bối sợ đến nỗi chẳng còn hồn vía gì cả!
Nữ nhân áo xanh thúc giục:
- Chu đại ca, chúng ta mau xuống dưới bảo vệ anh em!
Chu lão gật đầu, dặn Hận Thiên cứ ở yên trên này, rồi cùng nữ nhân kia phi thân xuống! Cậu bé chạy quanh, thu nhặt lại những mũi Sách Hồn Tiễn.
Thấy đã đủ, Thiên nhi cũng xuống lầu tham chiến.
Nhưng bọn sát thủ Phù Dung Hội đã rút lui vì thấy hai đầu lĩnh đã thảm tử. Thủ hạ Phi Châm Môn thương vong không nhiều vì đã khôn ngoan rút lui trở lại vào tầng trệt, dùng độc châm mà cầm cự! Có lẽ phe đối phương đã xử dụng hết yên cầu nên không sao xua được họ ra lần nữa!
Hận Thiên thấy cuộc chiến đã tàn, cáo từ trở về Vạn An lữ điếm!
Chu Minh ân cần bảo:
- Sáng mai, lão phu sẽ đến vấn an công tử!
Hận Thiên vào phòng bằng đường cửa sổ, tắm rửa qua loa rồi buông mình xuống giường nệm. Cậu không ngủ được, nằm miên man suy nghĩ vể trận chiến lúc nãy. Rõ ràng là bản lãnh của cậu còn quá kém cỏi, khó toàn mạng dưới tay các đại cao thủ! Việc hạ được Thanh Y Thầm Kiếm chỉ là do quá khinh địch mà thôi!
Nghĩ lại lúc mình sắp chết dưới lưỡi búa của lão béo lùn, Hận Thiên rùng mình sợ hãi, và cậu chợt giật mình nhớ đến mùi hương thoang thoảng của trận quái phong đã đẩy lão ta sang một bên. Mùi hương ấy rất quen thuộc với Thiên nhi. Cậu bé ngẩn người một hồi, ngồi bật dậy, nhìn dáo dác quanh phòng, miệng gọi:
- Trịnh tỷ tỷ! Trịnh tỷ tỷ!
Quả nhiên linh ứng, một bóng trắng bay qua cửa sổ, nhẹ nhàng hạ thân đếng cạnh giường. Trên gương mặt nhợt nhạt của bóng ma điểm một nụ cười hiền hòa, ánh mằt dịu dàng âu yếm:
- Sao Thiên đệ lại đoán ra rằng ta có mặt nơi này?
Hận Thiên vui mừng khôn xiết, quàng tay ôm chặt lấy Trịnh Tiểu Thuần, bật cười vui vẻ:
- Tiểu đệ cũng là ma nên đoán việc như thần!
Thiên nhi đang ngồi cạnh giường nên đầu chỉ ngang ngực Tiểu Thuần.
Nữ lang nghe nhột nhạt, thẹn thùng đẩy Hận Thiên ra rồi ngồi xuống bên cạnh. Nàng tủm tỉm hỏi:
- Lúc nãy đệ có sợ không?
Hận Thiên gật đầu hỏi lại:
- Vì sao tỷ tỷ lại đến đây sớm như vậy?
Tiểu Thuần tủm tỉm đáp:
- Ngu tỷ là ma quỷ nên chỉ cần vài khắc để đến đây cứu cái mạng nhỏ bé của đệ!
Trò chuyện một lúc, Hận Thiên che miệng ngáp, cười bảo:
- Chúng ta đi ngủ thôi! Tiểu đệ buồn ngủ lắm rồi!
Cậu bé thản nhiên đẩy Tiểu Thuần ngã xuống nệm, ôm chặt lấy. Chỉ lát sau đã chìm vào giấc mộng.
Sáng hôm sau, Hận Thiên thức giấc, nhận ra con ma xinh đẹp đã biến mất. Cậu bé gọi mấy tiếng cũng chẳng thấy đâu, rầu rĩ đi rửa mặt, thay áo.
Nhất Bất Thông y hẹn đến Vạn An lữ điếm cùng Hận Thiên ăn sáng và trò chuyện rất lâu. Đầu giờ Thìn, Thiên nhi mới lên ngựa rời Lạc Dương!
Ngay chiều hôm ấy, Hận Thiên vượt Hoàng Hà, đi thêm năm mươi dặm thì trời tối. Cậu ghé vào một quán trọ trong trấn nhỏ nghĩ ngơi. Đầu canh ba, Trịnh Tiểu Thuần hiện ra, khiên Thiên nhi cao hứng phi thường. Tiểu Thuần cười bảo:
- Ngu tỷ không hợp với ánh dương quang ban ngày, nếu Thiên đệ muốn ta đồng hành thì hãy mua lấy một chiếc xe ngựa mui kín!
Hận Thiên mau mắn đáp ứng, sáng hôm sau mua ngay xe ngựa, tự tay làm xà ích. Lúc đầu cậu rất lúng túng, nhưng rồi cũng quen dần.
Sau hơn hai mươi ngày đêm hần gũi, chia sẻ mệt nhọc trên đường thiên lý, tình cảm giữa hai chị em càng thêm thắm thiết. Thiên nhi đã quen với vòng tay ấm áp và mùi hương thơm ngát của Tiểu Thuần, nên đã sa lệ khi nghe nàng nói:
- Bên kia Vạn Lý Trường Thành là địa phận của một phán quan khác, ngu tỷ không thể sang đấy được, Thiên đệ cứ một mình đến Hồ Đạt Lai học nghệ. Khi nào thành tài, trở lại ngọn núi Hằng Sơn này gọi lớn, ngu tỷ sẽ xuất hiện!
Lúc này hai người đang dừng xe dưới chân rặng Bắc Nhạc Hằng Sơn.
Tiểu Thuần chỉ vào một đỉnh thâm thấp trong dãy núi:
- Ngu tỷ sẽ ở trên ngọn núi ấy chờ đợi!
Nói xong, nàng ôm ngực húng hắng ho. Thời gian qua, thỉnh thoảng nàng cũng ho như vậy!
Hận Thiên lo lắng hỏi:
- Tỷ tỷ có sao không?
Tiểu Thuần mỉm cười:
- Ta là ma quỉ, đâu có bệnh hoạn gì!
Nàng cúi xuống định hôn lên trán Hận Thiên để từ biệt, nào ngờ cậu bé cũng có ý định ấy nên cũng nhón chân lên. Vô tình hai đôi môi chạm nhau ngọt lịm. Tiểu Thuần đỏ mặt quay gót, lướt như bay về hướng ngọn núi, thoáng chốc đã mất dạng trong rừng cây rậm rạp.
Hận Thiên dõi mắt nhìn theo, dạ bồi hồi, xao xuyến, cảm thấy hồn trống vắng, quạnh hiu.
Nhớ đến mối huyết thù, Hận Thiên gạt lệ lên xe đi tiếp. Cũng là cảnh thu nhưng giờ đây lại quá ư tiêu điều, ảm đạm?
Ở vùng Tái Bắc này, mùa thu về sớm hơn Trung Nguyên. Mới cuối tháng bảy mà hàng ngô đồng ven đường đã rụng hết lá, chỉ còn trơ lại cành khẳng khui. Gió thu lạnh lẽo ào ào thổi tung mái tóc buông xõa của Thiên nhi.
Cậu bé đã đi suốt chiều dài của tỉnh Sơn Tây mà chẳng hề thấy xa. Giờ đây, chỉ còn vài trăm dặm nữa mà sao muôn trùng diệu vợi!
Hằng Sơn chỉ cách trấn Đại Đồng hon trăm dặm, nên chiều hôm ấy, Hận Thiên đã đến nơi. Theo lời dặn dò của Nhất Bất Thông Chu Minh, cậu bé tìm đến căn nhà của Sa Mạc Thần Đà Trang Vĩnh Qúi là bằng hữu chí thân của Chu Minh, có ba mươi năm xuôi ngược các vùng sa mạc hoang vu, tạo dựng nên cơ đồ. Lão đi trên sa mạc dễ dàng và an toàn như đang dạo phố ở Bắc Kinh vậy!
Trang lão đọc thư của Nhất Bất Thông, hết lòng chieu đãi Hận Thiên.
Hai ngày sau, Sa Mạc Thần Đà cho ba thủ hạ lão luyện nhất đưa Thiên nhi vượt sa mạc đến Hồ Đạt Lai.
Bốn người xuất quan, đi vào khu vực phía Nam của sa mạc Đại Qua Bích.
Cước trình của lạc đà chẳng thể so với ngựa, chúng chậm rãi bước đi giữa vùng cát vàng mênh mông vô tận. Hận Thiên khổ sở vì cái nắng cháy da và cát bụi, hết lòng thán phục những bạn đồng hành.
Đêm đến, nằm cạnh đống lửa hồng, nhìn lên bầu trời sao lấp lánh, Hận Thiên nhớ mẫu thân và Tiểu Thuần vô hạn.
Cuối tháng tám, đoàn lạc đà mới đến phía Đông Nam Hồ Đạt Lai. Nơi nào có nước thì nơi ấy có người ở. Quanh chiếc hồ rộng lớn này có đến ba tiểu trấn và sầm uất nhất chính là trấn Nam Sa, vì nằm cạnh đường sang ngoại Mông.
Va gã hán tử hộ tống Hận Thiên cũng là người Mông Cổ, nhưng rất tinh thông Hán ngữ. Họ đã dạy cho Thiên nhi nói tiếng Mông, và phục lăn trước trí nhớ phi thường của cậu bé.
Sa Mạc Thần Đà Trang Vĩnh Qúi tất nhiên phải có người quen ở trấn Nam Sa này! Ba gã người Mông đưa Hận Thiên vào một lữ quán, trước là nghĩ ngơi, sau hỏi thăm tung tích Bất Biệt Cư Sĩ.
Lão chủ quán chỉ ngọn núi ở hướng Bắc, cách đấy chừng ba chục dặm, cười bảo:
- Trên sườn ngọn núi Hoàng Cương kia có một lão thần tiên pháp thuật thông thần, thường trị bệnh cho dân chúng quanh vùng. Nhưng chẳng ai biết lão ấy có phải là Bất Biệt Cư Sĩ hay không?
Hận Thiên mừng rỡ nói với ba hán tử:
- Sáng mai tam vị cứ trở lại Đại Đồng, việc học nghệ phải vài năm mới xong, chẳng thể chờ được đâu!
Gã lớn tuổi nhất cười bảo:
- Sau khi thành tài, muốn trở lại Trung Nguyên, công tử cứ đến quán trọ này, lão chủ quán sẽ lo liệu mọi việc.
Lão ta vui vẻ xác nhận:
- Đúng vậy, lão phu là Trang Vĩnh Lợi, biểu đệ của Sa Mạc Thần Đà, đã nhận được lệnh chăm sóc công tử trong những năm ở đây, cũng như lúc trở về!
Thì ra lão nà người Hán, nhờ vậy, bữa cơm chiều không đến nỗi khó nuốt.
Mờ sáng, Hận Thiên một mình khoác bọn hành lý, cỡi lạc dà đi về hướng núi Hoàng Cương.
Ngọn núi này chỉ cao độ tám chục trượng, cây cối rậm rạp nhưng cát sa mạc phủ đầy nên có màu vàng sậm. Tên Hoàng Cương dường như xuất phát từ hiện tượng ấy!
Theo sự chỉ dẫn của Trang Vĩnh Lợi, Hận Thiên mau chóng tìm được đường mòn xuyên rừng, dẫn lên đạo quán trên sườn núi. Cậu bé phải rời lưng lạc đà, theo đường sơn đạo mà thượng sơn.
Cơ ngơi của Bất Biệt Cư Sĩ là một tòa nhà xây bằng đá vôi, mái vòm tròn theo kiểu kiến trúc của một giáo đường đạo Hồi. Tòa nhà này nằm dưới những tàn cây rậm rạp nên khá mát mẻ.
Cửa không đóng nhưng Hận Thiên chẳng dám tùy tiện bước vào. Cậu cao giọng gọi:
- Cao tiền bối! Vãn bối là hậu duệ của Vũ Di Tiên Nương, mang tín vật đến xin cầu kiến!
Bất Biệt Cư Sĩ vốn có tính danh là Cao Hán Ngọc. Hận Thiên từng thắc mắc về biệt hiệu Bất Biệt, được Mông Diện La Sát giải thích:
- Họ Cao suốt đời không phân biệt thị phi, thiện ác, có hay không có. Lão là bậc chân nhân đạt đạo, thấu hiểu bản chất tinh truyền của vũ trụ và nhân sinh. Về võ học, Bất Biệt Cư Sĩ có thể thi triển kiếm pháp ở cả hai tay, phải trái như nhau. Do đó mới có danh là Bất Biệt!
Hận Thiên gọi ba lần, không thấy ai đáp lại, đánh liều bước qua khung cửa âm u kia.
Lát sau, từ trong vọng ra tiếng hét thất thanh của Thiên nhi và rồi khung cảnh lại im lìm như cũ!