5.

LÃO PHẬT
Bà thái hậu lại lên ngôi, trị vì một lần nữa. Vì tuổi đã cao nên dáng điệu, tính nết biến cải, như không còn nữ tính, bà thản nhiên ngự trên ngai rồng không cần buông rèm như khi xưa. Bà ngồi trên ngai như một người đàn ông, đối diện với đình thần, trong một khung cảnh, trang nghiêm, rực rỡ, huy hoàng. Niên tuế đã cao, tính nết đã cởi mở, độ lượng, từ bi, không khắt khe, nghiệt ngã như hồi còn trẻ. Vì thế, bà cũng cho người cháu (ông vua bị cầm tù) thỉnh thoảng xuất hiện trước công chúng. Về lễ tiết thu, tháng tám (xuân thu nhị kỳ), bà cho phép cháu bà (vua Quang Tự) được làm chủ lễ. Ngày mùng tám tháng tám, bà cho phép phế đế vào bệ kiến ơ long điện. Trước mặt văn võ bá quan, các thân vương, bà chấp nhận của cháu bà chín lễ (cửu bái), chứng tỏ cho thần dân trong ngoài biết bà là vị chúa tể của toàn dân.
Bà cho phép cháu bà (vua Quang Tự) có một đội lính đi kèm để coi chừng, đứng chủ lễ đình Kính Thiên, tạ ơn thiên địa về sự thái bình và phong đăng hòa cốc. Bà nghĩ để cho hắn coi việc cúng lễ hơn là cai trị người. Bà cho hành quyết sáu người Hán, can tội phản loạn, bọn này đã xúi giục vua Quang Tự mưu phản. Bà vô cùng phẫn nộ khi hay tin tên cầm đầu Khang Hữu Vi đã chạy thoát nhờ có sự ám trợ của người hồng mao. Bà cho đem giết hết những người trong tộc đẳng của Khang Hữu Vi. Thân vương tài, bạn và đồng chí của Quang Tự, bị vợ tố cáo, bà cho bắt và hạ ngục. Người vợ của ông thân vương này giận chồng ghét bỏ, người đó cũng là cháu gái của bà. Bà loại trừ xong những phần tử đối nghịch, một công việc nữa cũng không kém phần quan trọng, biện minh với quốc dân những hoạt động của bà. Bà biết hiện trong nước có hai khuynh hướng, một khuynh hướng tán đồng, cổ võ chính sách của thiếu đế, canh tân trong nước, tạo lập một hạm đội chiến thuyền, chỉnh đốn, canh cải, quân đội, thiết lập đường hỏa xa, rập theo khuôn mẫu các nước Tây phương, cho hợp với trào lưu tiến hóa. Một khuynh hướng, thủ cựu, lấy lý thuyết Khổng Mạnh làm tôn chí, bế môn tỏa cảng, có óc bài ngoại.
Bà thái hậu cố dung hòa hai khuynh hướng đó. Bằng những sắc chỉ, những lời phao vu, bịa đặt xuyên tạc, do bọn thái giám tung ra trong dân chúng bằng đường lối truyền khẩu, rỉ tai, vua Quang Tự đã phạm vào nhiều lỗi lầm rất nguy hại, nếu bà thái hậu không kịp thời ngăn chặn, tổ quốc sẽ lâm nguy. Ông vua đã âm mưu sát hại bà cô già, và thông đồng với ngoại nhân để ám trợ. Ngoại nhân lợi dụng sự khờ khạo của ông để xâm chiếm toàn thể lãnh thổ. Hai tội tày trời đó cũng đủ lý do chứng minh, vì non sông vì tiền đồ của quốc dân, bà thái hậu lại phải một lần nữa chéo chống con thuyền quốc gia. Những người bảo thủ, thấm nhuần nho giáo, không thể nào chấp nhận một đường lối bất chính, bất nhân của thiếu đế đối với một bực trưởng thượng. Bọn người có xu hướng canh tân cũng không thể tha thứ vị thiếu quân kết liên với người bạch chủng hay quân giặc người Hán.
Lời phao vu, tuyên truyền này của bà thái hậu rất điêu xảo, tinh vi, chỉ trong vài tháng toàn dân chấp nhận bà là một nữ hoàng đế chân chính, thậm chí cả những người ngoại quốc cũng muốn giao dịch với một nữ đế có uy quyền có nghị lực hơn là một thiếu quân ươn hèn.
Lão phật với sự khôn ngoan vượt bực, sự tế nhị đã hoàn toàn thành công, đánh đổ tất cả các dư luận bất lợi cho bà. Bà biết bọn người đàn bà là lợi khí sắc bén, bà dã dùng lợi khí đó để "Chiêu dụ" các sứ thần, quan lại ngoại quốc. Bà cho mời các bà đại sứ, quan lại Tây phương, vào trong hoàng thành dự yến. Suốt trong đời bà, lần thứ nhất bà được nom tận mắt bọn người da trắng. Tuy trong lòng bà rất ghét song cũng cho mời bọn này vào cấm thành yến tiệc. Bà biết nếu bà chinh phục được bọn người đàn bà này, gây được cảm tình với họ. Bà sẽ chinh phục được bọn đàn ông, chồng của chúng. Bà chọn ngày sinh nhật của bà, không phải một lễ tiết quan trọng, nhưng là ngày sinh nhật hàng năm (năm bà 64 tuổi), bà mời bảy người đàn bà, vợ của bảy sứ thần ngoại quốc.
Bà ra chỉ thị cho sửa soạn, xếp đặt đón tiếp. Hoàng thành trở nên nhộn nhịp, các thể nữ tò mò muốn xem người da trắng thế nào, các a hoàn bận rộn, lần thứ nhất những người đàn bà ngoại quốc được xâm nhập vào trong cấm thành. Duy chỉ có bà thái hậu rất bình thản, bà nghĩ nên cho dò hỏi xem họ thích những món gì? Bà cho thái giám đến hỏi các tân khách, tôn giáo họ có được dùng thịt không? Họ ưa dùng trà Trung Hoa, nước xanh pha loãng hay tra Tích Lan, nước đen và đậm, họ có thích dùng bánh ngọt rán với mỡ heo tay bằng dầu thảo mộc. Thực ra bà không cần để ý họ trả lời ý muốn thế nào, bà làm theo ý bà, tuy nhiên bà theo phép lịch sự xã giao mà hỏi cho có lệ.
Bà không thiếu xót một chi tiết nào. Đến trưa bà cho một lính kỵ mã người Hán, quần vàng, áo đỏ đến các sứ quán báo tin, kiệu song loan đến sau. Một giờ sau, những chiếc kiệu loan đến, mỗi kiệu có 5 phu kênh, có một toán lính kỵ mã đi hộ tống đến chờ ở sứ quán hồng mao. Để cho thật chu đáo, theo đúng nghi lễ, thái hậu phái một viên quan ở bộ ngoại giao đi kèm với bốn thông dịch viên, 18 lính kỵ mã, sáu chục ngự lâm quân đi hộ tống.
Đến cổng ngoài Di Hòa cung, đoàn người dừng lại, các tân khách xuống kiệu. Có bảy chiếc kiệu loan, đệm bọc vóc đỏ, sáu thái giám áo vóc vàng thắt lưng đỏ đã chờ sẵn phía trong cổng.
Đến cổng thứ nhì, các tân khách lại xuống kiệu, được mời lên đoàn xe lửa ngoại quốc, có đầu máy chạy bằng hơi nước kéo đi. Đường thiết lộ này nguyên của cựu đế Quang Tự cho thiết lập từ mấy năm trước để tiêu khiển và học hỏi. Đoàn xe đi ngang qua cấm thành đến chính điện. Các tân khách được các thân vương huyết thống (Princes de sang) tiếp đón, mời dùng trà trước khi được hướng dẫn tới long điện. Ở đó hoàng thượng và hoàng hậu đã chờ sẵn. Bà thái hậu, một người ngoại giao đại tài, mưu trí, thủ đoạn hôm đó cho phế đế Quang Tự ngồi bên tay mặt ngai, bà thái hậu ngồi bên tay trái để cho người ngoại quốc nhìn thấy một khung cảnh gia đình đầm ấm, trên, dưới, tôn ti.
Các vị phu nhân các sứ thần đứng trước ngai rồng, một thông dịch viên ngự tiền văn phòng giới thiệu trước ngai rồng, từng người theo thứ tự những vị nào đến nhiệm sở lâu ngày ở Bắc Kinh. Cuộc giới thiệu chấm dứt, thân vương Chinh hướng dẫn lên trình diện trước ngai rồng.
Bà thái hậu để ý quan sát từng khuôn mặt, bà rất ngạc nhiên, lạ lùng, nhưng không để lộ cảm xúc. Bà ngồi trên ngai, cúi về phía trước hai tay giơ ra, niềm nở nắm tay từng người, mỗi người bà đeo tặng ở ngón tay một chiếc nhẫn vàng có gắn hạt trai thật đẹp.
Người nào cũng cám ơn bà thái hậu, bà gật đầu, mỉm cười. Tiếp xong các tân khách, bà xuống ngai, rời long điện bọn thái giám xếp thành vòng cung đi sau bà như một tấm rèm.
Bà về tư dinh, bà giơ cánh tay phải ra hiệu, cho "Dẫn độ" "Hoàng thượng" trở về ngục thất.
Bà thái hậu dùng cơm trưa có các thể nữ sủng ái thị hầu. Trong khi đó các tân khách ngoại quốc dự yến ở đại sảnh trong cung với các thể nữ thường, bọn thông dịch viên và vài người thái giám.
Hôm đó, bà thái hậu rất vui vẻ, bà và tất cả mọi người đều rất lạ và thích nhất màu sắc mắt của mấy người đàn bà ngoại quốc, mắt màu xám nhạt, vàng hay xanh như mắt mèo rừng. Bà chê họ có vẻ thô kệch, nhưng khen nước da họ đẹp thật, trắng hồng, mịn màng trừ có người Nhật, nước da bánh mật. Theo bà nhận xét, người đàn bà hồng mao đẹp nhất đám, người Đức quần áo chải chuốt hơn cả. Bà chê cái mũi cao lênh khênh của người đàn bà Nga La Tư. Còn người đàn bà Mỹ, ba thấy hao hao giống một vị nữ tu sĩ, nét mặt nghiêm nghị rắn rỏi. Các thể nữ cười ngặt nghẹo, vỗ tay tán thưởng bà phê bình đúng quá, chưa bao giờ họ thấy bà vui tính như ngày hôm nay. Ăn cơm xong, bà thái hậu thay xiêm y và nữ trang, trở lại long điện. Lần này có hoàng hậu đứng cạnh bà ở bên tay ngai. Các tân khách trở vào cung điện để bà thái hậu giới thiệu với cô cháu dâu. Bà rất thích thú nhận thấy trong khóe mắt của các tân khách ánh lên sự thán phục. Khen ngợi những xiêm y lộng lẫy và những đồ trang sức của hoàng hậu. Hai lần ra mắt tân khách, chưa lần nào bà thái hậu mặc những xiêm y, đeo các đồ trang sức đẹp nhất. Mấy người đàn bà ngoại quốc khen ngợi những xiêm y và đồ trang sức của bà. Bà muốn cho bọn người này ngạc nhiên đến lần thứ ba và cũng là lần chót bà ra mắt, bà sẽ thay đổi phục sức cực kỳ lộng lẫy. Bà rất hoan hỉ, đứng dậy chào hỏi mọi người, bà nắm tay họ đặt lên ngực bà và lên ngực họ, luôn luôn đọc lên một câu châm ngôn của một hiền triết cổ: "Tứ hải giai huynh đệ".
Khi thông dịch viên dịch sang Anh, Pháp, mọi người trầm trồ khen ngợi câu nói rất hay. Bà mời tân khách coi một vở hát, ba có nhã ý tự soạn để chào mừng tân khách. Thông dịch viên dịch sang Anh, Pháp ngữ cho mọi người đều hiểu sự tích vở hát. Một lần nữa, bà lại cáo lui, trở về tư dinh bà thấy người hơi mệt, bà tắm nước nóng có pha nước bông. Bây giờ bà chọn một chiếc áo cực kỳ lộng lẫy, một chiếc áo vóc vàng, thêu đàn chim phụng bằng chỉ ngũ sắc và kim tuyến. Bà đeo chuỗi hạt trai tuyệt đẹp, trê đầu mười ngón tay có những chiếc tháp nhỏ bằng vàng bảo vệ ngón tay. Chiếc mũ miện có gắn những viên ngọc quý ở Miến Điện, bạch ngọc Ấn Độ, hồng ngọc, lam ngọc lóng lánh giữa những viên kim cương sáng chói ở Phi Châu. Tất cả thể nữ đều công nhận, chưa bao giờ bà thái hậu lại đẹp, lộng lẫy như lần này. Nước da bà trắng nõn, mịn màng, đôi môi đỏ chót, hai mắt long lanh, mặc dù niên tuế đã cao, bà vẫn như còn ở trong tuổi thanh xuân.
Bà trang điểm xong, trở lại đại sảnh, lúc đó các tân khách đang thưởng thức trà và bánh ngọt. Bà đến như tiên nga giáng trần, ngồi trong kiệu loan, bọn thái giám khênh đến tận ngai rồng. Tất cả thực khách đứng dậy nét mặt tươi cười, sự ngưỡng mộ thấy trong các khóe mắt. Bà thái hậu nhấc cao chén trà, uống một ngụm, lần lượt mời các tân khách lại gần cạnh bà, một tay bà cầm chén trà, bà lại nhắc câu triết lý cổ nhân: Tứ hải giai huynh đệ. Bà truyền thái giám đem lại tặng mỗi vị tân khách một món quà kỷ niệm: Một chiếc quạt, một tấm tranh lụa chính tay bà vẽ, một đồ trang sức bằng ngọc.
Cuộc triều kiến được kết thúc với sự hoan hỉ và lòng nhiệt thành cảm tạ của tất cả các tân khách.
Mấy hôm sau, bọn thám tử đến tâu với bà, những người đàn bà ngoại quốc khoe với chồng họ sự tiếp đãi của hoàng gia thật là nồng hậu. Họ tấm tắc khen ngợi bà. Họ nói một người đàn bà vừa đẹp, vừa có độ lượng, bặt thiệp không thể nào có tâm địa ác độc, làm hại người khác. Bà thái hậu cũng cho họ nhận xét đúng.
Bà đã thành công, gây được thiện cảm với tất cả mọi người, trong cũng như ngoài, bà để trọng tâm diệt hết phiến loạn và bọn người chủ trương cải cách, đặt toàn dân dưới một chế độ, một chủ trương, đạt tới mục tiêu đó, bà củng cố uy danh của bà. Nghĩ đến vấn đề đó, bà thấy sự hiện hữu của phế đế là một chướng ngại vật, làm cản trở việc thực hiện ý định đó. Phế đế có bộ mặt buồn buồn, lúc nào cũng có vẻ suy tư, tính ôn hòa, dễ bảo, gây được thiện cảm với nhiều người. Một lần nữa, vì quyền lợi chung của triều đại, của dân tộc, bà lại ra tay hành động một cách quyết liệt. Tên thái giám Lý Liên Anh ỏn thót, xúc xiểm:
- Tâu thái hậu, phế đế còn sống ngày nào, khuynh hướng trong nước bị phân chia. Tình trạng này kéo dài sẽ có hai khuynh hướng đối nghịch, người ta sẽ chọn đường lối của thái hậu hay phế đế. Người Hán, bẩm sinh có tính ác hiểm, họ thấy trong nước không thuần nhất, có sự chia rẽ phái này, phái nọ, họ mừng lắm. Bọn chủ mưu hoạt đầu, lúc nào cũng âm mưu trong bóng tối. Họ tuyên truyền, nhắc nhở dân chúng, người Mãn Thanh cai trị chúng không phải người Hán. Chỉ có thái hậu đem lại thanh bình vì uy tính thái hậu vang lừng trong dân chúng.
Bà thở dài nói:
- Nếu cháu ta là người có tư cách, có nghị lực, ta sẵn sàng giao phó trọng trách cho hắn.
- Tâu thái hậu, phế đế không phải người có uy quyền, có nghị lực, một người nhu nhược, bất chấp. Ông đã nghe bọn phản loạn người Hán, không suy xét, hiểu thâm ý của họ. Như thế, mặc nhiên ông đã phá hủy triều đại mà không biết.
Bà không nói gì, cho hắn nhận xét rất đúng, rất phải. Tên thái giám đứng chờ tưởng thế nào ba cũng cho chỉ thị để thi hành tức khắc.
Ngày hôm đó, bà đi bách bộ trước tư dinh, ngắm chiếc cù lao giữa hồ, mặt hồ đầy sen, cháu bà hiện bị cầm tù ở đó. Không thể gọi nơi đó là ngục thất, một tòa lâu đài, trang bị đồ đạc rất diễm lệ, đủ tiện nghi, trong một khung cảnh rất vui tươi. Bà nom thấy cháu bị cầm tù đi chơi trên tù lao, bọn thái giám đứng ở xa vẫn để ý theo dõi.
Bà nghĩ bọn người có phận sự canh gác nên thay đổi luôn luôn, không nên để mãi, sợ lâu ngày, phế đế gây cảm tình với họ. Cho đến giây phút này chưa thấy có triệu chứng gì họ phản trắc. Chiều nào bà thái hậu cũng nhận được bản sao tờ báo cáo về người cháu bị cầm tù, nên bà hiểu rõ những tư tưởng thầm kín của hắn. Có một tên trong bọn thái giám được cắt cử canh gác phế đế, người đó tên là Hoàng, người này có nhiều điểm đáng ngờ vì tờ báo cáo hàng ngày hắn gửi, ca tụng tính nết phế đế.
"Hoàng thượng, hàng ngày đọc những sách có giá trị. Khi nào ngài chán đọc sách, ngài vẽ hay làm thơ."
Suy nghĩ lời lẽ trong tờ báo cáo, đột nhiên bà thay đổi ý định, bà nghĩ chưa đến lúc cần phải giết. Bà đã chọn hắn lên ngôi, bà không muốn chịu trách nhiệm về việc giết hắn. Bà cầu mong cho hắn chết nhưng để cho "Hoàng thiên" xếp đặt, định đoạt.
Với một giọng lạnh lùng, dứt khoát và như cấm không được hỏi lại, bà hỏi Lý Liên Anh:
- Từ rày không được nói đến việc viễn du của hoàng thượng ở suối vàng. Việc đó sẽ do lòng Trời định đoạt.
Tên thái giám cúi đầu, phụng mệnh.
Thật không ai có thể ngờ tưởng, quân giặc người Hán nhờ có tên thái giám làm môi giới, trung gian đã liên lạc được phế đế. Một buổi sáng vào tuần trăng thứ mười, phế đế lợi dụng sự ơ hờ, bất cẩn của bọn người canh gác, đã trốn thoát, chạy ra rừng thông, đến một bãi ở phía bắc cù lao, ở đó đã có một chiếc thuyền chực sẵn. Một tên thái giám đã nhìn thấy chiếc vạt áo ông biến sau rặng cây, bọn người đuổi theo và bắt được ông, lúc ông sắp xuống thuyền.
- Chúng con xin thiên tử đừng trốn, nếu thiên tử trốn, lão phật sẽ cho chặt đầu chúng con.
Lời van nài của bọn thái giám thật công hiệu, ông vua nhân từ, thấy họ van nài, ông không nỡ, ngập ngừng không xuống thuyền. Người lái thuyền, một tên giặc người Hán, giục ông xuống thuyền gấp, đừng nghe họ mà bỏ lỡ đại sự, mặc kệ họ, dù họ có chết cũng không sao. Phế đế nhìn mặt bọn người, trong số đó có một thằng nhỏ mới lớn lên thằng này rất ngoan, thường nhật hết lòng hầu hạ ông. Ông nhìn thấy nó mếu khóc, ông không nỡ lòng bỏ nó để lên thuyền. Ông lắc đầu, người lái thuyền không dám chờ lâu, đành lẽ đánh thuyền đi, chiếc thuyền mất dạng trong đám sương mù buổi sáng.
Câu chuyện thương tâm đó đến tai bà thái hậu, bà vô cùng căm phẫn người cháu (phế đế). Bà hạ lệnh giết hết tất cả những ai (thân vương, các quan lại) a tòng, ám trợ phế đế, âm mưu phản lọan. Còn phế đế, bà không cần giết vội vì bà có cách chế ngự rất hữu hiệu. Theo học thuyết Khổng giáo, người Hàn bài xích thiếu quân vì chủ trương âm mưu chống đối lại với một bà cô già nua. Chính thiếu quân cũng tự hiểu vì ông là người có lương tâm và đã được thấm thuần học thuyết Khổng Mạnh.
Nhung Lữ đến xin yết kiến thái hậu và khẩn cầu thái hậu mở lương từ bi:
- Tâu thái hậu, nếu dân chúng không tán thành lại cuộc âm mưu chống đối lại thái hậu, dân chúng cũng không tán thành thái hậu sát hại thiếu quân dù thiếu quân chết một cách đột ngột bất đắt kỳ tử. Tốt hơn hết là giam giữ thiếu quân lại không để cho làm một lợi khí tiếp xúc với ngoài. Nhưng bề ngoài vẫn phải có phong độ. Trong mười ngày nữa có sứ thần Nhật Bản và các thuộc quốc vào triều kiến, thái hậu nên cho phép thiếu quân đứng thị hầu bên cạnh ngai. Thái hậu nên tỏ ra khoan dung, đại độ cả với người thứ phi Ngọc.
Bà giơ cả hai tay lên trời tỏ ý bảo Nhung Lữ im. Bà không muốn nghe ai nhắc đến tên đó. Giờ đây, không còn là một người vợ nghe chồng khuyên nhủ mà là bà hoàng thái hậu với hai con mắt lạnh lùng. Nhung Lữ lảng sang nói chuyện khác.
Hiện nay trong nước thái bình song dân tình xao xuyến. Mối câm thù người bạch chủng nổi lên dữ dội. Trong tỉnh Quản Châu, dân chúng giết người tu sĩ hồng mao. Sự kiện đó, gây khó khăn, lộn xộn cho nhà cầm quyền. Người hồng mao đòi phải bồi thường thỏa đáng và còn yêu sách về đất đai, đòi đặt thêm tô giới.
Bà thái hậu đùng đùng lên cơn phẫn nộ. Hai bàn tay nắm chặt, bà đập lên hai đầu gối, thét lên:
Lại chuyện mấy thằng tu ngoại quốc. Làm sao chúng không ở trong nước chúng, đến đây làm gì? Mình có phái thầy tu nước mình đến nước họ để phá hoại thần của chúng đâu? Đó là kết quả tai hại những trân mình thua với bọn tây phương. Họ buộc mình phải ký hòa ước để cho bọn thầy tu, lái buôn của họ được nhập cảnh vào nước ta.
Bà tuyên bố:
- Ta thề phải trừ khử bọn ác ôn này.
Bà ngồi trầm ngâm suy nghĩ, hai mắt sầm lại, hai vành môi đỏ cắn chặt. Bà làm như không biết Nhung Lữ đứng đó. Nhung Lữ thấy bà ngồi yên, hắn quỳ xuống lạy rồi lặng lẽ đi ra. Bà vẫn ngồi yên, đầu cúi, lúc Nhung Lữ đi ra bà cũng không ngửng mặt lên.
Tháng chạp năm đó, trong tỉnh Hồ Bắc lại có một thầy tu bị giết. Họ giết rất dã man, kinh rợ, lột hết quần áo, tùng xẻo cắt từng miếng thịt. Thiên hạ phao đồn bọn thầy tu ngoại quốc là bọn phù thủy, ăn cắp con nít, khoét mắt, giã xương thành bột luyệng thành bùa.
Bà thái hậu vô cùng phẫn nộ, bà biết, dân chúng sát hại thầy tu ngoại quốc là một nguy cơ, người ngoại quốc sẽ phản kháng mãnh liệt, bà đã nhìn thấy bóng dáng chiến tranh xuất hiện.
Đúng thế, các nước kết liên lại chống bà: Nga La Tư, Anh Cát Lợi, Pháp, Đức... đều tỏ thái độ quyết liệt. Nước Pháp lấy cớ nhiều nhà truyền giáo bị giết trên lãnh thổ Trung Hoa, yêu sách một tô giới ở Thượng Hải. Nếu yêu sách đó không được thỏa mãn, sẽ tuyên chiến. Bồ Đào Nha yêu sách những phần đất đai ở MaCao, nước Bỉ đòi hai tu sĩ bị giết bằng một phần đất ở Hán Khẩu. Người Nhật yêu sách ở phần đất phì nhiêu nhất ở Phúc Kiến. Tây Ban Nha cũng tiềm cách trả thù cho bọn tu sĩ bị sát hại. Ý Đại Lợi tỏ ra ương ngạnh nhất, sứ thần họ yêu sách phải nhượng bộ họ vịnh Sầm Côn trong tỉnh Chiết Giang, một hải khẩu đẹp nhất của Trung Hoa.
Trước tình thế nguy khốn, các nước Tây phương xú lại xâu xé, vô cùng tai hại, bà thái hậu cho họp hết quân thần, các thân vương, trong một cuộc thiết triều khẩn cấp và đặc biệt. Bà cho triệu hồi khẩn cấp tướng Lý Hồng Chương, lúc đó đảm trách trùng tu con đê sông Hoàng Hà bị nước lên to đe dọa.
Hôm thiết triều, trời oi bức, nóng lắm, có một trận bão cát từ mạn Tây Bắc thổi tới. Trong không khí có lẫn chất cát rất nhỏ, sự hô hấp rất khó khăn. Các đình thần, các thân vương chờ bà thái hậu lâm triều, phải lấy khăn tay che mặt. Bà mặt triều phục rất uy nghiêm, lộng lẫy, xuống kiệu loan, vịn vào cánh tay Lý Liên Anh đi thẳng lên ngai rồng. Dáng điệu bà rất uy nghiêm, bình tĩnh, các quan phải noi theo. Tất cả mọi ngườoi làm lễ, tung hô trước ngai rồng. Bà nhận thấy ngay Nhung Lữ vắng mặt. Bà hỏi Lý Liên Anh:
- Quân cơ đại thần Nhung Lữ đâu?
- Muôn tâu thái hậu, ông có nói ông bị đau đầu không đến triều kiến được. Hạ thần nghĩ chỉ là một cớ để không vào bệ kiến vì quyết định của thái hậu cho triệu thỉnh Lý Hồng Chương.
Mấy lời "ám hiểm" của tên thái giám như một mũi tên cắm vào giữa trái tim bà thái hậu. Tuy nhiên, bề ngoài bà vẫn bình tĩnh, điềm đạm, uyểng chuyển như thường.
Bà cho gọi các quan lại, các thân vương, từng người một đến gần ngai cho bà ý kiến từng cá nhân về tình thế biến động, bà chăm chú để tai nghe lời tâu trình. Viên lão tướng Lý Hồng Chương là người cuối cùng lên bệ kiến. Ông đi rất nặng nề, chậm chạp, quỳ xuống trước ngai rồng có vẻ khó khăn. Hai thái giám phải xốt nách đỡ, tuy thế bà không cho phép được ngồi. Hôm đó, bà bắt buộc mọi người phải tuyệt đối phục tùng. Điều gì bà không chấp thuận, không ai được nhắc đến.
- Lão tướng, lương đống của triều đình, có ý kiến gì nói lên, trẫm nghe.
Lý Hồng Chương đầu vẫn cúi gâm, thưa:
- Muôn tâu thái hậu, đó là cả một vấn đề, hạ thần đã nghiên cứu trong bao nhiêu tháng nay. Chúng ta hiện nay bị quâ thù bao vây. Ngôn ngữ, phong tu6c, tập quán, đường lối sinh hoạt của bọn họ khác hẳn ta. Hạ thần thiển nghĩ, chúng ta nên tránh cuộc binh đao vì giao tranh với quân địch có quân số đông khác nào nhảy vào miệng chó sói. Ta nên khôn ngoan, tìm trong các nước thù địch với ta một nước, ta có thể kết liên làm đồng minh. Chẳng hạn như Nga La Tư, một nước thuộc Châu Á như ta.
- kết liên, xây tình hữu nghị với họ, ta phải trả giá thế nào?
Giọng nói nhỏ nhẹ, lạnh lùng của thái hậu làm viên lão tướng sợ quá, run lên. Bà nom thấy hai tay ông, hai bàn tay chấp lại run run. Ông không trả lời, bà cất to giọng, nói:
- Trẫm trả lời câu hỏi của trẫm đặt ra. Mình phải trả một cái giá quá cao. Cần gì phải đánh bại tất cả quân thù để rồi làm chư hầu, nô lệ cho một nước. Ở trên đời này, thử hỏi có nước nào chịu đem tiền bạc, xương máu cho không một nước khác không? Ta chưa thấy một người nào hào hiệp như thế. Chúng ta phải tự lực quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi. Tất cả người bạch chủng, đàn ông, đàn bà, con nít phải được tống xuất ra biển. Ta không nhượng bộ gì hết. Ta thu lại tất cả những gì thuộc về ta.
Bà đứng lên nói. Mọi người hiện diện lúc đó tưởng như bà là một tiên nữ dáng phàm, người cao lớn, có phép nhiệm màu. Hai mắt bà sáng ngớt, hai má ửng hồng, bà giang thẳng hai cánh tay, hai bàn tay xòe ra, những chiếc tháp nhỏ bằng vàng, bảo vệ móng tay, nom tựa như móng vuốt. Bà như có sức mạnh phi thường nhập thể. Cơn phẫn nộ của bà như sấm sét, nhãng quang bà loang loáng như những tia chớp. Tất cả mọi người phủ phục, trán chạm đất. Bà nhìn những chiếc lư cúi rạp, lòng tự cao, tự đại bốc lên ngùn ngụt, bà say sưa như một chất men nóng chạy trong huyết quản.
Nghĩ đến Nhung Lữ văng mặt, không đến, lại nhìn những chiếc lư cúi gập, những bộ triều phục lộng lẫy trên nền gạch, bất giác bà để ý đến viên ngự sử Quan Hi một người tuy đã có tuổi song vẫn khỏe mạnh, óc bảo thủ, bài xích những lề lối mới. Bà nói to, giọng trong trẻo, rõ ràng:
- Ngự sử Quan Hi ở lại tư yết. Đinh thần, thân vương cho cáo lui.
Bà bước xuống ngai. Lý Liên Anh tiến lại, đưa cánh tay bà vịn. Bà đi rất đường bệ, uy nghi, không để ý các triều thần sì sụp lễ sau lưng. Bà đã lấy quyết nghị, không thay đổi, hoán cải. Không bao giờ bà nhượng bộ người da trắng.
Đại thần ngự sử Quan Hi được lệnh tư yết lúc quá trưa vào giờ thân (ba giờ trưa). Tổng quản thái giám đứng gần đó, để tai nghe trộm, có lẽ đã đút lót trước với Quan Hi. Bà thái hậu nói, mắt bà nhìn ra cửa để ngỏ. Lúc này đã ngớt cơn mưa, cơn gió, nhờ có trận bão, không khí trong lành mạnh mẽ, bà tuyên bố:
- Trẫm nhất quyết, không do dự, không thể nào nhân nhượng vời bọn người da trắng, trẫm phải cho thu hồi lại đất đai bị cưỡng đoạt, không thể nào hy sinh một cách phi lý.
Viên đệ tử của Khổng Khâu (tên của Khổng Tử) thưa:
- Muôn tâu thánh thượng, lần thứ nhất trong đời hạ thần thấy hé mơ hy vọng.
Nữ hoàng nói:
- Nhà ngươi có điều gì tâu lên trẫm không?
- Muôn tâu thánh thượng, thườnh nhật hạ thần vẫn luận đàm với Tuấn thân vương về vấn đề đó. Cả hai chúng hạ thần cùng chung một ý nghĩ, một quan điểm, muốn đánh bại quân giặc man di (tây phương) phải lợi dụng lòng uất hận của người Hán, dùng họ làm hậu thuẫn. Muôn tâu thái hậu, người Hán căm thù người bạch chủng kéo đến nước ta gây chiến, mở cuộc đao binh, chiếm đóng lãnh thổ nước ta, yêu sách những món tiền bồi thường khổng lồ vì những tên ác tăng của họ bị giết. Người Hán có lập những hội kín, thề sẽ tận diệt bọn người Tây phương. Muôn tâu thánh thượng, bộc bạch vài lời tâu trình lên đèn trời soi xét. Hạ thần không dám tự cao, tự đại, khôn ngoan, lịch duyệt. Tâu thánh thượng, hội kín của người Hán đã có, sao mình không lợi dụng. Hạ thần trộm nghĩ, thỉnh thỏang, cho chúng biết thánh thượng tán thành tôn chỉ của họ. Những hội đó một khi đã xác nhập vào quân đội hoàng triều do Nhung Lữ làm tư lệnh đại tướng quân, hạ thần nghĩ không có sức nào có thể chống lại được. Người Hán sẽ tuyệt đối trung thành với thánh triều khi họ được thánh thượng nâng đỡ để trục xuất man di mọi rợ.
Bà thái hậu suy nghĩ, bà thấy kế hoạch nghe được, hay. Bà hỏi thêm vài câu nữa rồi cho viên (đệ tử) này rút lui. Bà không ngỏ một lời khen nào. Sau cuộc trình bày mưu trí của viên ngự sử, bà thấy trong lòng vui vui, khoan khoái, nhẹ nhõm. Khi Lý Liên Anh đến trình bày ý kiến, bà cho phép. Tên thái giám hỏi bà:
- Thái hậu đã có kế họach nào hay không? Viên ngự sử này là người thận trọng, khôn ngoan.
- Phải, đúng thế.
Bà để ý thấy tên thái giám nhìn sang bên, hai mắt hé mở, có vẻ tinh quái. Bà hỏi:
- Thế nào? Hai người đó (Nhung Lữ và Quan Hi) đồng quan điểm hả?
- Tâu thái hậu, con xin báo trước thái hậu rõ. Theo như con biết, chắc chắn Nhung Lữ không táng thành ý kiến của Quan Hi.
Nói xong, hắn lấy đầu lưỡi đặt lên môi trên, rồi đưa lưỡi về bên giữa mồm.
Bà thái hậu thấy nét mặt nhăn nhở của tên thái giám, bà phì cười.
- Như thế, ta không nghe Nhung Lữ.
Tuy bà nói thế song vài hâm nữa bà cho gọi hắn đến định khiển trách về mấy công tác do bọn trinh sát báo cáo. Hắn vừa bước chân vào, bà hỏi ngay:
- Thế nào?
Mặc dù lúc đó đã trễ, bà không cho hắn ăn cơm xong, cho gọi lập tức vào hầu. Ở nhà phải để phần cơm.
- Tâu thái hậu, hạ thần có làm điều gì nhầm lỗi?
Lần đầu tiên bà thấy hắn già, dáng người có vẻ mỏi mệt.
- Ta nghe nói nha ngươi để cho các sư quán tăng gấp đôi đội lính phòng thủ?
- Hạ thần bị bắt buộc phải chấp thuận như vậy. Hình như bọn họ cũng có do thám, họ biết thái hậu nghe lời đề nghị của Quan Hi, thái hậu bảo trợ những hội kín của bọn thảo khấu người Hán, như ai cũng biết, hăng say diệt trừ tất cả người ngoại quốc trên đất nước này. Tôi có nói, tôi không tin thái hậu tán thành một việc quái gở như thế. Thái hậu tưởng có đủ uy lực để chống lại tất cả các nước trong địa cầu này sao? Thái hậu nên tìm cách điều đình, cho tình thế bớt căng thẳng, chờ cho mình có đủ sức mạnh mới có thể thắng được họ.
Bà nói:
- Nghe nói, hình như dân chúng rất công phẫn, nguyền rủa ngoại quốc dầy xéo lên đất nước ta. Quang Hi sau cuộc chu du ở thành đô có kể chuyện lại tỉnh đó dân chúng tổ chức kháng chiến. Hắn có đem về trình tôi mấy tên quyền phỉ để biểu diễn mấy môn quyền thuật. Hình như họ có phép siêu nhiên, khi lâm chiến không bao giờ bị thương hay chết. Súng đạn cũng vô hiệu không làm gì được họ.
Nghe bà thái hậu nói thế, Nhung Lữ lo, sợ quá, kêu lên.
- Ôi! Thái hậu! Sao thái hậu có thể tin tưởng những chuyện hoang đường đó?
Bà thái hậu nói văn lại:
- Chính ông mới nói những chuyện viển vông, anh quên rồi sao, cuối đời nhà Hán, Trương quấc cầm đầu bọn giặc khăn vàng (hoàng cân) năm mươi vạn quân tấn công triều đình, lấy được bao nhiêu thành trì. Bọn khăn vàng có những ma thuật siêu nhiên, khi lâm trâïn không một người lính nào bị thương vong. Quang Hi cả quyết xác nhận, nhiều bạn bè ông được chứng kiến họ biểu diễn những quyền thuật vô cùng kinh dị ở tỉnh Giang Tây cách đây đã lâu. Ta nói khi mình có chính nghĩa, quỷ thần sẽ ám trợ, phù trì cho mình.
Nhung Lữ người nóng ran như điên, cầm mũ quăng xuống đất, hai tay bứt đầu, bứt tóc. Hai hàm răng nghiến ken két, hắn nói:
- Tôi không kể ngôi thứ, địa vị, bà vẫn là em gái họ của tôi, người mà tôi đã hy sinh tất cả. Với tư cách một người anh họ, tôi nói thẳng công việc bà đang làm là điên rồ. Không phải vì sắc đẹp, vì quyền lực của bà, mà bà không làm những việc dại dột. Tôi xin nói rõ bà biết, bà nghe lời Quang Hi là chết, hắn không nhìn hiện tại, lúc nào cũng mơ màng sống trong những thế kỷ trước. Nếu bà tin vào lời sàm tấu của tên thái giám và đồng bọn, cả thân vương Tuấn, họ lơ mơ sông trong ảo ảnh, tôi có thể nói bọn họ làm sụp đổ triều đại. Bà nghe tôi, bà nên nghe tôi, nếu không hối không kịp.
Nhung Lữ chấp hai tay van vái bà, nhìn thẳng vào mắt bà. Bốn mắt gặp nhau, hắn thấy bà có vẻ xiêu xiêu, hắn không dám nói thêm sợ lỡ hỏng việc.
- Tôi có hỏi thân vương Chính về vấn đề đó. Hắn trả lời, kể dùng bọn quyền phỉ cũng có lợi.
- Chỉ có tôi mới dám nói lên sự thật. Thân vương Chính không dám nói những gì hắn nói riêng với tôi. Bọn quyền phỉ là bọn xí gạt, hợm hỉnh, khoe khoang, thực lực không có gì, bọn ăn cướp ngu dại, nó định nhờ hơi hướng bà để có chút thế lực. Có người nào thật lòng tôn kính bà như tôi không?
Câu nói cuối cùng, hắn hạ giọng nói rất khẽ, lời nói ngập ngừng. Bà cúi đầu suy nghĩ. Hắn nhấn mạnh:
- Xin bà hứa với tôi, bà quyết định làm một việc gì cũng phải nói cho tôi biết. Đó là một lời hứa, một â hưởng độc nhất, tôi hỏi xin bà.
Hắn chờ một lúc, hai mắt nhìn vào chiếc đầu đang cúi xuống. Một lúc sau, bà ngửng đầu lên nói:
- Tôi xin hứa với anh.
Quang Hi nói một cách quyết đoán với bà thái hậu:
- Tâu thái hậu, thái hậu bỏ lỡ đại sự. Thái hậu niên tuê đã cao, nên khoan dung, độ lượng, không muốn làm mạnh. Thái hậu không ban lệnh cho phép trừ khử hết ngoại nhân ở trong nước. Chỉ cần một lời của thái hậu ban ra là bọn ngoại nhân phải cuốn xéo đi hết, không còn sót một tên, cả lũ chó và mớ gà, vịt của bọn chúng. Một viên đá nhà chúng cũng không còn.
Quang Hi vội vàng xin vào bệ kiến, vì bọn do thám của hắn báo cáo Nhung Lữ gièm pha, phá hỏng kế họach của hắn.
Bà thái hậu nghe lời tâu, quay đầu lại bảo:
- Tất cả các khanh chỉ đến quấy rầy tôi, làm tôi thêm mệt.
Quang Hi cố vật nài thưa:
- Tâu thái hậu, lúc này lhông phải là lúc mệt mỏi. Giờ đã điểm để ta toàn thắng. Thái hậu không phải thò ra một ngón tay, thái hậu chỉ cần nói lên một tiếng, người khác sẽ làm. Tất cả chỉ chờ lệnh của thái hậu ban rạ.. Chỉ chờ lệnh...
Bà lắc đầu nói:
- Ta không thể nào ra lệnh được.
Ngự sử Đồng Phúc Hoàng quỳ xuống tâu:
- Tâu thái hậu, hạ thần chỉ xin thái hậu cho thời hạn là năm hôm, hạ thần cho phá sạch hết nhà cửa, cơ sở của bọn ngoại quốc ở kinh thành.
Bà thái hậu tiếp các quan ngự sử ở Ôn cung. Bà ở cấm thành từ chiều hôm qua, bà luyến tiết phải tạm rời Di Hòa cung. Bọn quyền phỉ đã tự ý không có lệnh của bà phá hủy con đường thiết lộ ở Thiên Tân.
Chao ôi, có thật bọn quyền phỉ có ma thuật, gươm giáo, súng, đan, kông thể phạm đến người?
Viên ngự sử Chi Huấn tâu:
- Muôn tâu thái hậu, xi thái hậu cho phép hạ thần thảo một sắc chỉ để xin châu phê. Ta hãy đọan giao với người Tây phương, như thế cũng làm tụi chúng khiếp sợ.
- Khanh có thể thảo sắc chỉ nhưng ta nói trước ta không phê chuẩn.
Quang Hi quỳ xuống, tâu:
- Muôn tâu thái hậu, hôm qua hạ thần có đến chơi nhà quận công Lan. Ở sân ngoài có đến trăm quyền phỉ đến đóng trại. Tâu thái hậu quả thực bọn này có phép siêu nhiên, hô thần, hoán quỷ. Hạ thần thấy những đứa trai độ 14, 15 tuổi, xuất thần nói xi x6 toàn tiếng ngoại quốc. Quận Lan có nói với hạ thần, lúc nào có thời cơ thuận tiện, bọn quyền phỉ có quỷ thần (lục đinh, lục giáp) sẽ kéo đến đền Gia Tô Giáo để tiêu diệt.
Bà thái hậu tuyên bố:
- ta chưa nhìn thấy tận mắt.
Bà giơ cao cánh tay, ra hiệu cho bọn này rút lui.
Đến chiều, Lý Liên Anh mật tâu:
- Tâu thái hậu, có rất nhiều người chọn bọn quyền phỉ đến đóng ở nhà họ.
Tên thái giám ngập ngừng, hạ thấp giọng, nói: - Nếu thái hậu không phẫn nộ, hạ thần xin mật tâu việc này. Lệnh điệt tẩu (cháu dâu của bà) nuôi 250 quyền phỉ, hiện cấm trại đóng ở ngoài tỉnh. Thân vương Tài Hưng đang học ma thuật của họ. Bọn quyền phỉ ở Cam Ninh, Cam Túc đang định tiến vào tỉnh. Nhiều người sợ chiến tranh tái phát đã bỏ đi lánh nạn về vùng quê. Tất cả mọi người mong chờ lệnh của thái hậu.
- Ta không thể ra lệnh được.
Ngày mùng 6 cùng tháng, bà sai Lý Liên Anh triệu thỉnh Nhung Lữ. Trước khi ra quyết nghị, bà cần giải lời hứa với Nhung Lữ.
Buổi sáng, do thám đến trình bà có nhiều quân đội ngoại xâm mới đỗ bộ ở biển, kéo vào trong nội địa. Bọn lính mới đến tăng cường quân trú phòng và trả thù những người ngoại quốc bị người Hán giết hại ở tỉnh Cam Ninh.
Đến trưa, Nhung Lữ đến, mặc quần áo thường, như đi ra vườn hay về quê. Bà thái hậu không để ý cách phục sức của hắn.
Nom thấy Nhung Lữ, bà vội hỏi:
- Trong tỉnh đầy nhóc binh lính ngoại quốc, ta có nên im lặng, ám binh bất động được không? Ta e dân sẽ nổi lên chống đối ta, triều đại sẽ lâm nguy.
- Tâu thái hâu, hạ thần cũng không đồng ý để quân ngoại quốc kéo vào kinh thành đông quá. Nhưng hạ thần xin nhắc lại thật là một quốc sĩ cho ta, nếu vô cớ mình tấn công quân ngoại quốc. Người ta sẽ cho mình là man rợ không hiểu công pháp quốc tế. Không ai đi đầu độc những khách đến cư trú nhà mình.
Nét mặt bà đăm chiêu, bà hỏi lại:
- Như vậy, theo ý anh, ta phải làm thế nào?
- Mình mời khéo họ, gia đình họ, bạn hữu họ hãy tạm lánh xa kinh thành. Nếu họ đi, quân đội họ cũng rút đi. - Nhưng trường hợp họ không chịu đi, thì sao?
Nhung Lữ bình tỉnh trả lời:
- Tôi tin họ sẽ đi. Nếu trường hợp họ không chịu đi, bà không phải chịu trách nhiệm nữa.
- Anh có bằng lòng bỏ lời hứa của tôi không?
- Để maị..mai.
Nhung Lữ trả lời xong đi ra.
Nửa đêm hôm đó, bà đang ngủ, chòang trở dậy, lửa sáng rực kinh thành. Theo thói quen, bà ngủ để cửa ngỏ, ánh sáng ở ngoài chiếu vào gian phòng bà nằm. Không phải ánh đèn, không phải ánh trăng, cả một bầu trời đỏ rực. Bà đánh thức bọn thể nữ ngủ dưới đất có trải nệm. Bọn này lục tục thức dậy, chạy ra cửa sổ nghe ngóng, xem chuyện gì.
Cả bọn kêu ầm:
... Àị.. Àị..
Lý Liên Anh đẩy cửa bước vào, mặt ngơ ngác, hắn đến báo cáo có một ngôi đền thờ ngoại quốc bị đột cháy, ngọn lửa bốc cao. Không bắt được thủ phạm, không biết ai đã gây ra hỏa hoạn.
bà thái hậu ở trên giường bước xuống, bà sai lấy ngay quần áo để mặc. Bọn thể nữ lao xao đem quần áo lại. Có các thái giám tháp tùng, bà đi thẳng ra phía đồi nơi trồng mẫu đơn, ở vị trí cao, bà có thể quan sát phía ngoài qua bức tường thành. Những cột khói bốc lên mù mịt, bà không nom rõ đám cháy, nhưng một lúc sau bà ngửi thấy mùi thịt cháy khét lẹt. Bà lấy khăn tay bịt hai lỗ mũi, bà hỏi tại sao có mùi thịt cháy? Bọn quyền phỉ đã châm lửa đốt ngôi nghà thờ của người Pháp, ở trong nhà thờ có hàng trăm người Hán theo đạo Gia Tô, đàn ông, đàn bà, con nít.
Bà thái hậu nói như rên:
- Gơm quá, gớm quá. Nếu ta biết nông nỗi này, ngay lúc đầu ta không cho người ngọai quốc nhập cảnh. Việc này đang lý ta phỉa làm biết bao nhiêu năm nay, người dân không bị cám dỗ, lầm lạc đi theo mấy ông thần ngoại quốc.
Để khích lệ bà, Lý Liên Anh tâu:
Tâu thái hậu, bọn ngoại quốc bắn trước vào đám đông ở trước cửa nhà thờ, bọn quyền phỉ mới đốt nhà thờ để trả thù.
Bà rên lên:
- Lịch sử đã cho ta biết, khi ngọn lửa tiêu hủy hoàn thành, ngọn lửa sẽ đốt hết, bất luận từ viêm đá cụi đến viên ngọc quý.
Bà quay đầu không muốn nhìn cảnh tượng hãi hùng. Suốt ngày hôm đó, bà buồn lắm. Vì phảng phất có mùi tử khí. Bà sai thái giám đem mấy quyển sách của bà đến cung Diên Thọ, ở đó bà không nom, khônh thấy gì mà không khí cũng trong lành.
Bọn thái giám và thể nữ đứng vây quanh bà, khẩn cầu:
- Muôn tâu thái hậu, để bọ ngoại nhân khỏi tàn phá, bảo toàn được cung diện, chúng con xin phép cho bọn quyền phỉ được dùng yêu thuật. Hiện giờ lính ngoại quốc tràn vào kinh thành như nước vỡ bờ.
- Xin thái hậu ra lệnh ngay tức khắc, đừng trì hoãn. Muôn dân trong đợi ở thái hậu.
Các quan ngự sử thúc bách, kêu nài. Bà nhìn tất cả mọi người: Quang Hi, thân vương Tuấn,các quân cơ đại thần, thượng như cán bộ... Khi bãi triều, ở long điện kéo đến, vây quanh bà thái hậu, không có thứ tự, hàng lối, phẩm trật... Tình thế cấp bách, tất cả mọi người không giữ lễ nghi ở triều đường.
Bên tay mặt bà, phế đế ủ rũ ngồi, mặt xanh mét, đầu cúi gầm, hai bàn tay yếu đuối bạc nhược đặt trên hai đầu gối. Bà ngoảnh lại phế đế, hỏi:
- Thế nào, thiên tử? Chúng ta có nên ra lệnh cho bọn quyền phỉ tấn công quân thù không?
Nếu ống nói "Nên" một mình ông chịu trách nhiệm một việc tày trời. Ông vẫn cúi gầm mặt xuống, nói:
... Thái hậụ.. Thái hậụ..
Những tiếng vẫn lao xao nói xung quanh bà, những tiếng trầm trầm, âm thanh dội lên rầm, rui sơn son trên trần nhà.
Bà đứng dậy, hai tay giơ cao, ra hiệu bảo mọi người im. Lúc đó vào tảng sáng, không ai từ lúc thấy đám cháy. Quân ngoại quốc kéo vào bốn cổng thành trong tỉnh, theo hướng tiến vào trung tâm kinh thành. Không có cách gì giải quyết nổi, ngoài vấn đề gươm, giáo, súng, đạn.
Bà thái hậu tuyên bố:
- Giờ đã điểm, phải tận diệt các ngoại nhân ở các lãnh sự quán, không còn một tên nào sống sót, một ngôi nhà nào của bọn chúng còn lại.
tất cả mọi người im lặng đón nhận lời tuyên bố quyết liệt của bà. Bà đã bội hứa với Nhung Lữ.
Nhung Lữ đến quỳ trước mặt bà. Hai má ông nước mắt chảy ròng ròng. Ông cố trình bày với bà sự lợi hại.
- Tâu thái hậu, vẫn hay quân ngoại quốc thù nghịch với dân tộc mình, họ phải chịu trách nhiệm về những cuộc tập sát. Hạ thần xin mẫu hậu xem lại quyết nghị của thái hậu vừa ban bố. Nếu chúng ta phá sập được mấy ngôi nhà của họ, giết được một số người họ, chúng ta đương nhiên gây sự câm phẫn với các chính phủ họ. Họ sẽ đem đại quân, chiến hạm đến đánh mình. Các lăng tẩm niếu mạo thờ liệt thánh sẽ phút chốc thành tro bụi. Các vị thần linh cũng xiêu bạt, phách tán, đình chùa của dân chúng sẽ bị sang bằng.
Bà nghe mấy lời tâm huyết, lòng tê tái, máu ngừng trong huyết quản, tuy vậy bà giấu nỗi kinh hoàng, nét mặt vẫn bình tĩnh. Chưa bao giờ, ai nom thấy bà tỏ vẻ sợ hãi. Trong lòng có kinh sợ thế mấy, bà cũng trấn tĩnh được, khuôn mặt kiều diễm của bà vẫn thản nhiên.
Bà bảo Nhung Lữ:
- Trẫm không thể kìm hãm được dân chúng. Họ nóng lòng phục hận. Nếu quân chúng không đánh bại được quân thù, lúc đó ta sẽ ra tay. Như khanh, lươn gđống của triều đình, nếu không có mưu lược nào hay hơn, để đây trẫm lo liệu. Trẫm miễn cho khanh không phải dự hết buổi họp.
Nhung Lữ đứng ngay dậy, hai mắt ráo hoảnh, không nói một lời, đi ra ngay.
Khi Nhung Lữ đi khỏi, viên ngự sử Chí Huấn rút ở chiếc hia nhung, tờ giấy gấp. Thủng thẳng ông mở rộng tờ giấy, trịnh trọng đến gần ngai để trình bản văn lên nữ hoàng.
- Muôn tâu thánh thượng, hạ thần mạo muội thảo tờ sắc lệnh, thánh thượng cho phép hạ thần xin tuyên đọc.
Bà thái hậu uy nghi ngồi trên ngai, hai môi khô bỏng.
- Đọc lên!
Viên ngự sử đằng hắn, dọn vọng, tuyên đọc tờ sắc lệnh tuyên chiến với tất cả kiều dân ngoại quốc.
Tiếng ông đọc oang oang trong một bầu không khí, phẳng lặng, trang nghiêm, kinh rợn.
- Cúi xin thánh thượng châu phê và đóng ngọc tỷ.
Bà thái hậu giọng nói rất bình tĩnh, lạnh lùng:
- Chư khanh, trẫm cho công bố theo thể lệ một sắc chỉ của hoàng triều.
Nghị quyết của bà thái hậu ban ra được toàn thể đình thần long trọng đón nhận. Chí Huấn lễ tạ, lui về chỗ.
Trời vừa sáng, theo thường lệ giờ thiết triều. Lý Liên Anh tiến lên, giơ cánh tay bà thái hậu vịn để lên kiệu loan. Kiệu rướt thẳng ra long điện. Ở Long điện, phế đế đã túc trực, chờ sẵn, khi kiệu bà thái hậu đến, phế đế quỳ xuống nghiên đón.
Bà sẽ đáp lễ phế đế rồi đi thẳng vào nội điện, có hai thái giám đi kèm đỡ hai bên. Ở trong nội điện, đình thần, văn võ, bá quan phủ phục tùng hô vạn tuế. Buổi thiết triều cực kỳ quang trọng, có các tộc biểu, các quan cơ mật đại thần, các thượng thư của hai mươi bốn đạo quân, các quản chấp kỳ, đội ngự lâm quân...
Đi chậm chạp sau thái hậu và thiếu quân, mặt tái mét, hai mắt to, hai bàn tay mất máu, nắm chiếc đai áo. Bà thái hậu lên ngự trên ngai rồng, phế đế ngồi trên chiếc đai thấp hơn ở phía bên tay mặt.
Theo lễ nghi triều đường, các quan xếp theo thứ tự, phẩm trật, trên dưới tôn, ti. Bà thái hậu khai trào. Thường nhật, tiếng nói bà rất nhỏ nhẹ, song vì lòng cânm phẫn đối với quân thù, nên giọng nói rất hùng mạnh, quyết liệt, luồng nhỡn quang sáng lóe, như tia chớp.
Ý ta đã quyết, lòng ta đã định, chúng ta không thể nào tha thứ những sự ngạo mạn, hỗn xược, những yêu sách phi lý của ngoại nhân. Thực ra ta cũng không muốn dùng quyền phỉ, nhưng thế bất đắc dĩ. Ngoại nhân còn muốn nhúng tay vào nôi bộ của chúng ta, chúng hâm dọa dân tộc ta, trực tiếp cả đến ta. Chúng cho người đến bảo ta phải thoái vị, nhường ngôi lại để cho cháu ta, một người nhu nhược, yếu hèn để chúng dễ bề lung lạc. Tại sao chúng muốn ta rút lui vì chúng sợ ta, chúng biết ý chí ta cương quyết, sắt đá, chúng không thể lay chuyển được. Đối với cháu ta chúng coi như một miếng sáp ong, muốn nặn hình gì cũng được. Sự hỗn xược của ngoại kiều đã thể hiện một cách điển hình qua thái độ của viên lãnh sự Pháp ở Thiên Tân đòi ta phải bồi thường cái chết của một tên tu sĩ quèn lấy các đồn ải ta ở tả Khẩu (taku)
Bà nói đến đó, dừng lại, uy nghiêm nhìn các đình thần tập hợp trước ngai rồng. Ánh sáng những ngọn đuốc chiếu vào những khuôn mặt nghiêm nghị, đăm chiêu, lo buồn, họ nhìn bà và phế đề ngồi trên ngai. Bà quay lại hỏi cháu:
- Mi không có nói gì à?
Phế đế vẫn ngồi gục mặt xuống, lấy lưỡi liếm môi, hai bàn tay gầy còm, khẳng khiu duỗi ra, nắm vào. Một lúc sau ông cất giọng nói, lời nói ngập ngừng, sẽ sàng, yếu đuối, run run.
- Tâu mẫu hậu, vì mẫu hậu cho phép cháu phát biểu ý kiến. Theo cháu nghĩ, chúa cho lời khuyến cáo của Nhung Lữ là khôn ngoan, để tránh đổ máu. Không sao một mình có thể chống đối với tất cả các nước, mình không có khí giới tối tân, không có chiếc thuyền... Cháu đồng quan điểm với Nhung Lữ để cho các lãnh sự và gia đình họ rời khỏi kinh thành một cách yên ổn. Viện này không thuộc thẩm quyền cháu, lẽ tất nhiên như vậy. Việc này thuộc phạm vi thẩm quyền của mẫu hậu xin để mẩu hậu phê phán.
Phế đế vừa dứt lời, lập tức một viên ngự sử tâu lên thái hậu:
- Muôn tâu thánh thượng, vì sự tồn vong của tổ quốc, vì hạnh phúc của muôn dân, cúi xin thánh thượng cho thi hành ngay đường lối duy nhất đã được hoạch định. Phải giết chết bọn ngoại kiều, cho bọn chúng tiệt chủng. Khi bọn ngoại kiều được triệt hạ xong, ta sẽ trừ diệt bọn thảo khấu mgười Hán hiện nay nổi lên như ong vẽ ở miền Nam.
Bà thái chấp nhận lời tâu, bà nói:
- Ta đã nghe lời khuyên dụ của Nhung Lữ, ta không cần ai phải nhắc tới. Soạn thảo tờ sắc chỉ tuyên chiến.
Bà đứng dậy, bãi trào. Đột nhiên ở trong cử tọa, có tiếng ồn ào, bàn cãi. Có bọn hoan nghênh quyết nghị của bà thái hậu, có bọn nói khai chiến với ngoại quốc là tiếng chuông cáo trung của triều đại, người Hán sẽ chiếm đoạt ngai vàng. Viên thượng thơ về ngoại giao sự vụ xác nhận trong các cuộc đàm phán, người Tây phương rất biết điều. Viên này tin chắc không khi nào họ lại yêu sách ký quái thái hậu phải từ bỏ ngôi báu. Những người đàn bà ngoại quốc hết lời ca ngợi thái hậu. Những sứ thần ngoại quốc từ ngày vợ họ được thái hậu tiếp đón nồng hậu đã tỏ ra rất nhã nhặn lịch sự.
Thân vương Tuấn lên cơn phẫn nộ, bà thái hậu muốn tránh cuộc xung đột giữa hai người, bảo viên thượng thơ ngoại giao rút lui. Đến lượt quận vương Lan, một người bênh vực bọn quyền phỉ, nói đêm qua nằm mơ thấy ngọc hoàng thượng đế, xung quanh ngài có rất nhiều quyến phỉ, người đã tán thưởng quyền thuật của bọn này, đã biết dùng ma thuật để cứu nguy trăm họ.
Bà thái hậu để tai nghe, rất thích câu chuyện nằm mơ của quận Lan, bà cười rất tươi và đầy tin tưởng vào mộng triệu. Mộng đó là điềm rất tốt, quỷ thần sẽ phù hộ chúng ta để đánh dẹp quân man đi.
Tuy vậy, bà cũng chưa tin tưởng vào ma thuật của quân quyền phỉ. Bà nghĩ không hiểu những ma thuật đó có thật hay không.
Bà cho bãi trào trờ về tư cung, không nói một lời nào với phế đế.
Quyết nghị tuyên chiến đã được hầu hết triều thần ưng thuận, bà đã thấy đỡ lo. Người mõi mệt, đêm hôm đó, bà ngủ rất ngon giấc. Bà bảo bọn thể nữ:
- Để yên ta ngủ suốt ngày hâm nay, cấm không ai được đánh thức, làm mất giấc ngủ của ta.
Lúc đó vào giờ mùi (hai giờ trưa) Tiếng Lý Liên Anh ở ngoài cửa làm bà thức dậy.
Lý Liên Anh ở ngoài cửa nói vào:
- Tâu thái hậu, thân vương chính đi cùng với Quang Hi xin vào bệ kiến.
Bà thái hậu không thể không tiếp bọn này, bà vội vàng mặc áo, đội mũ ra.
Quang Hi sau khi sụp xuống lễ, tâu:
- Muôn tâu thánh thượng, cuộc chiến đã thật sự bùng nổ. Sáng nay tên đội người Mãn Châu đã giết hai người ngoại quốc, trong số đó có viên lãnh sự người Đức đi kiệu, định đến xin yết kiến thánh thượng. Người đội này có công đã giết hai người ngoại quốc, hắn vội đến thân vương Chính để xin lãnh thưởng.
Bà thái hậu nghe lời báo cáo, lòng bà lo buồn như thắt ruột, thắt gan.
- Nhưng làm sao, quân chúng đã biết khi sắc chỉ chưa được công bố? Tên đội chưa có lệnh đã tự xát hại, không có thưởng gì hết.
Thân vương Chính húng hắn ho, ấp úng tâu:
- Muôn tâu thánh thượng, tình thế đã đến lúc nguy kịch, thân vương Tuấn và Chí Huấn, sau khi bãi trào đã ra lệnh thanh toán hết ngoại nhân trong kinh thành.
Nói xong hai người đưa mắt nhìn nhau. Quang Hi nói thêm:
- Muôn tâu thánh thượng, quân thù phải chịu trách nhiệm. Tên đội xác nhận quan lính gác người da trắng đã bắn trước và giết chết ba người Hán.
Bà thái hậu kêu lên:
- Khiếp quá... Khiếp quá...
Vẻ lo âu hiện trên nét mặt bà, hai tay xoắn vào nhau.
- Nhung Lữ đâu? Đi gọi Nhung Lữ đến ngay, nhanh lên. Chiến tranh bùng nổ sớm quá, ta chưa kịp sửa soạn gì hết.
Nói xong, bà quay phắt người, đi thẳng vào trong phòng.
Hai giờ sau, Nhung Lữ đến, nét mặt ủ ê, buồn thảm.
Bà ra lệnh cho thái giám, thể nữ ra ngoài hết, bà hạ lệnh:
- Có chuyện cơ mật, cấm không ai được vào.
Bà nhìn Nhung Lữ đứng trước mặt, hai mắt hắn cúi xuống nhìn bà, bà nói giọng yếu ớt:
- Anh cho tôi ý kiến, tình thế khẩn trương, ta nên làm thế nào?
Giọng nói trầm trầm, nét mặt lo buồn, Nhung Lữ trả lời:
- Tôi cho bộ đội hộ tống người ngoại quốc ra bờ biển. Làm sao bà không chịu nghe lời tôi?
Bà thái hậu ngoảnh đầu đi, lấy khăn tay lau nước mắt. Nhung Lữ lại nhắc lại:
- BÀ đã không nghe lời tôi khuyên can, bây giờ bà lại hỏi ý kiến tôi?
Bà thái hậu sụt sịt khóc, Nhung Lữ nói:
- Bà định lấy quỹ nào trả cho bọn quyền phỉ? Bà đừng tưởng họ làm không công đâu?
Bà nhìn Nhung Lữ, như muốn vật nài hắn giúp đỡ, có phương kế gì hay, đột nhiên bà thấy mặt hắn tái đi, hai tay run run ôm ngực, hai chân như đứng không vững, muốn khuỵu xuống.
Bà vội vàng chạy đến đỡ, hai bàn tay hắn đã lạnh ngắt hai mắt hé mở vẻ đã đờ, hơi thở có vẻ khó khăn.
Bà kêu to:
Trời ơi! Trời ơi!
Các thể nữ chạy vào thấy bà thái hậu quỳ cạnh viên cơ mật vụ, mọi người kêu ầm lên, bọn thái giám đến. Bà ra lệnh:
- Nhắc ông đặt lên giường.
Bọn thái giám khênh Nhung Lữ đặt lên trên trường kỷ, kê một chiếc gối dưới đầu, bà cho gọi ngự y khẩn cấp đến. Nhung Lữ nằm yên trên trường kỷ, hơi thở khò khè.
Viên ngự y tâu:
- Tâu thái hậu viên cơ mật hiện đang đau, có lệnh thzí hậu triệu thỉnh, ông phải cố gắng gượng đến hầu.
Bà quay đầu, quắt mắt nhìn Lý Liên Anh.
- Sao mi không nói cho ta biết.
- Tâu thái hậu, quân cơ mật không cho hạ thần trình lên thái hậu.
Vì tình nghĩa thâm sâu với một người đã hy sinh suốt cả đời cho bà, bà cố nén lòng xúc động, đau đớn, bà lấy lại bình tĩnh, sai bảo thuộc hạ xung quanh:
- Đem ông về dinh, các quan ngự y, ngày đêm phải túc trực bên giường, chạy chữa. Báo cáo tình trạng sức khỏe của ông từng giờ một. Ta ra chùa lễ bái, kêu cầu.
Bọn thái giám phụng chỉ thi hành mệnh lệnh. Bà nói xong vội vả đến ngôi chùa riêng ở trong cung. Lúc đó vào giờ tuất, nhá nhem tối.
Màn đêm rủ xuống, cảnh vật êm ả có vẻ buồn buồn, không có ngọn gió nào để xua đuổi cái nóng gay gắt ban ngày. Bà thái hậu trong lòng buồn bã, lo âu, như một sức nặng ngàn cân đè trong tâm hồn bà. Bà đi thẳng đến bàn thờ đức Quang Âm. Bà thấp ba nén nhang, cắm vào lưu hương bằng ngọc dưới ánh sáng chập chờn của mấy ngọn nến. Bà thấy chuỗi hạt ngọc ở trên bàn thờ, lẩm bẩm cầu khấn, tụng niệm.
- "Chị cũng cô đơn như em, xin chị nghe lời kêu cầu xin chị phù hộ. Chị giải thoát cho em, những quân thù đang dòm ngó, ngấp nghé, muốn chiếm đoạt giang sơn cẩm tú này, đó là gia tài của ông, cha em để lại. Chúng muốn chia cắt nước này như một quả dưa để nuốt dần. Xin chị giải thoát, giải thoát cho em. Đó là lời cầu nguyện thứ nhất của em. Em xin chị cứu tử cho người em yêu. Hôm nay hắn đã ngã quỵ trước mặt em. Có lẽ giờ tận số của hắn đã điểm. Chị giúp em, chị can thiệp với trời già cho hắn sống thêm. Nếu việc đó không thể được, chị phù hộ cho em lúc đơn đọc hay bại trận, em vẫn được đường hoàng. Nét mặt chị không bao giờ thay đổi, sắc đẹp chị, bao giờ cũng thế. Chị cho em sức mạnh tinh thần để được như chị."
Bà vừa kêu cầu vừa lần tràng hạt, tintưởng lời cầu nguyện phần nào cũng được cảm ứng. Quân thù có thể thắng, người yêu có thể mệnh một, nét mặt bà vẫn không thay đổi, sắc đẹp vẫn như xưa, vẫn kiều diễm, vẫn duyên dáng. Bà vẫn giữ được quyền thế, uy lực.
Những tháng trong nước có chiến tranh, bà thái hậu sống hoàng toàn cô đơn, không có ai để bàn bạc, san sẽ nỗi lo âu. Thân vương Ưng đến nói với bà:
- Tâu thái hậu, quân quyền phỉ khi xuất trận có đem theo một lá bùa hộ mệnh: Một miếng giấy vàng hình tròn, vẽ một hình tượng kỳ quái, không phải người mà cũng không phải quỹ không có chân, xung quanh đầu có bốn vòng hào quang. Trên khuôn mặt hình tam giác, hai con mắt đen dữ tợn. Hình thù kỳ quái có viết những chữ về yêu thuật: Ta là thần ở Hàn Vân, Hỏa thần, Lão Tử cũng trợ giúp ta. Ở bên trái, phía trên có viết những chữ: Bảo thủ Thiên mô câp câp giáng hạ. Ở phía dưới bên phải có những dòng chữ: Hắc thần Dịch khí cấp giáng hạ.
Ai mà đọc mấy dòng chữ yêu thuật đó tự nhiên có linh ứng, đọc một lần thì một ngoại nhân trong nước sẽ chết. Tâu thái hậu, học những dòng chữ đó có hại gì không?
- Không có hại.
Bà thái hậu đọc đi đọc lại mấy chữ đó cho nhớ. Mỗi ngày bà đọc nhiều lần. Lý Liên Anh đến xem bà đọc được bao nhiêu lần thì có bao nhiêu người chết. Hắn nói chuyện với bà về yêu thuật của bọn quyền phỉ: "Khi lưỡi kiếm họ chém vào đâu nó tóe ra lửa. Khi họ bắt sống được một người ngoại quốc, họ làm lễ hỏi Trời nên giết hay không? Họ vo một nắm giấy vàng đốt, nếu tro bốc lên cao thì Trời bảo phải chết, nếu tro giấy rơi xuống thì tha tội giết".
Bà thái hậu không tin những chuyện huyễn hoặc, mơ hồ, song trong tình thế khẩn trương, nguy kịch, những chuyện tuy hoang đường cũng làm bà phấn khởi được phần nào.
Bà hy vọng ai đó sẽ đến giúp bà, cứu trợ bà. Ngày đêm bà đang lo nạn binh đao với người ngoại quốc, lại có những tin tức khủng khiếp, cấp báo: Dân chúng xao xuyến đang nổi lên chống đối, nạn hồng thủy gia tăng, nhiều làng không còn gì ăn, chết đói như rạ, mùa màng thất thu, không thể gieo mạ được. Dân đói quá, đi cướp phá các nhà giàu và các nhà tu sĩ ngoại quốc, ở đó lúc nào cũng sẵn có tiền bạc, lương thực.
Bọn thầy tu ngoại quốc bị giết, bị cướp chỉ có một số nhỏ so với ngàn hàng, hàng vạn nạn nhân người Trung Hoa bị nạn cướp bóc, tuy vậy chính phủ của họ sẽ phái quân đội, tàu chiến đến nếu trật tự không được vãn hồi. Nhìn ra bốn bể năm châu, không một nước nào, một người nào để thái hậu có hy vọng đến cứu trợ. Nhung Lữ nằm liệt trên giường bệnh. Tướng Viên Thế Khải đã tự kiểm chứng bọn quyền phỉ, không tin lời tuyên bố huênh hoang súng, đạn, gươm, giáo không làm gì được chúng, không chạm đến người chúng. Ông xin thái hậu đừng cả tin vào bọn bịp bợm, khoác lác. Ông không giúp được gì, cũng không bàn bạc được điều gì ích lợi để vãn hồi trật tự.
Trong lúc đó, thân vương Tuấn đến quấy rầy bà, hắn khoe khoang có thể đẩy hết bọn người ngoại quốc ra biển nếu bà cho phép... Bà khất lần này sang lần khác, mong tình thế được sáng sủa, thanh bình trở lại. Thân vương Tuấn tự ý tán trợ quân quyền phỉ, vô cớ tấn công vào các lãnh sự quán. Viên tổng đốc Nam Kinh, bây giờ đã già nhưng rất trung thành với triều đình, gởi sở về, xin bà thái hậu cấm chỉ những việc khiêu khích, tấn công người ngoại quốc, khẩn cầu bà cho bảo vệ kiều dân ngoại quốc.
Bà thái hậu trả lời, gởi theo lối tống đạt đặc biệt công văn:
"Không phải do trẫm trong lòng thích thú khởi hấn. Khanh thông báo cho các lãnh sự quán ngoại quốc, trẫm muốn giao hảo với các chính phủ của họ, trên tinh thần hữu nghị, hiểu biết. Trẫm muốn đề nghị cùng các nước soạn thảo một quy chế, vì lợi ích chung, một giải pháp sống chung trong hòa bình."
Bà cho soạn thảo một tờ công hàm gửi đi khắp các nước:
...Vì nhiều trường hợp ngẫu nhiên, dồn dập xảy tới rất bất lợi đã phát sinh ra sự mất trật tự, chúng tôi không biết giải thích thế nào đã xảy ra cuộc đao binh Trung Hoa với liệt cường Tây phương. Các đại biểu của chúng tôi ở hải ngoại, cách xa hàng vạn dặm không am hiểu trạng huống thực sự ở nước nhà và giải bày những cảm tình chân thật của chúng tôi.
Bà giải thích những trạng huống về chiến sự hiện tại, sự nổi dậy của quân giặc người Hán, bọn hạ lưu, ti tiện du đãng, lúc nào cũng sẵn sàng gây sự lộn xộn, bất ổn trong dân chúng. Triều đình đã can thiệp, ra chỉ thị cho các địa phương đề phòng, nếu không các tu sĩ ngoại quốc sẽ bị giết trên khắp lãnh thổ. Vì thế đã xảy ra chuyện một viên lãnh sự Đức bị giết và các chiến sĩ ngoại quốc muốn xâm chiếm các đồn lũy ở Thiên Tân. Viên quan chỉ huy người Hán không thể nào chấp thuận được. Người ngoại quốc đã oanh tạc các đồn ải đó.
Bà kết luận:
Xét như vậy, chúng tôi không chịu trách nhiệm về cuộc chiến này. Trung Hoa tự biết mình còn yếu kém, muốn được sống yên ổn, không có tham vọng. Gây chiến với toàn thể thế giới là một chuyện phi lý, điên rồ. Với bản công hàm này, chúng tôi trình bày trung thực những biện pháp để áp dụng do tình thế tạo nên. Những đại diện của chúng tôi ở ngoại quốc sẽ giải thích rõ ràng bản công hàm này. Chúng tôi đã ra chỉ thị cho các cơ quan binh vụ phải bảo hộ các sứ quán, chúng tôi sẽ cố vãn hồi trật tự cho cuộc sinh hoạt trở lại bình thường. Các tổng bộ trưởng, tất cả các cơ quan phải tăng năng lực để đạt tới mục tiêu đó. Không ai có thể hờ hững, khách quan trong lúc quốc gia đang gặp biến cố.
Bức công hàm đó bà thấy chưa đủ. Bà gửi cho các vua chúa liệt cường những bức điện văn do chính tay bà soạn thảo. Trong bức điện văn gửi cho Nga hoàng, bà viết:
Suốt trong hai thế kỷ rưỡi nay, hai nước chúng ta sống trong tình bằng hữu, giao hảo. Vì, gần đấy, có sự bất đồng ý kiến của một nhóm người theo đạo Gia Tô và các đạo cổ truyền khác, bọn vô lại đã lợi dụng để gây rối cuộc trị an. Liệt cường ngoại quốc đã tưởng nhầm triều đình chúng tôi chủ trương bài xích đạo Gia Tô giáo.
Dưới bức điện văn, bà viết mấy dòng này:
Bây giờ, Trung Quốc đã gây nên, ngoài ý muốn của mình, mối bất hòa với liệt cường Tây phương. Chúng tôi kính nhờ quý quốc can thiệp để vãn hồi hòa bình, chấm dứt các sự bất đồng ý kiến với Tây phương. Tôi trân trọng kêu gọi hoàng thượng đứng ra làm trọng tài, cứu giúp chúng tôi. Chúng tôi mong đợi quý quốc phúc đáp.
Bà thái hậu viết cho nữ hoàng Anh Cát Lợi, trong bức điện văn lời lẽ rất thân mật, như viết cho một người chị. Bà nhấn mạnh việc thương mại của Trung Hoa phần lớn với Anh Cát Lợi. Bà nói:
Chúng tôi xin nự hoàng xét, nếu chẳng may chúng tôi mất quyền tự chủ, quyền lợi quý quốc sẽ bị thiệt hại, không phải là nhỏ. Chúng tôi cố gắng thành lập một đạo quân đế tự vệ. Chúng tôi trân trọng yêu cầu quý quốc đứng làm trung gian, giàn xếp việc xích mích, để đem lại thanh bình trên đất nước chúng tôi. Chúng tôi mong được biết tôn ý.
Bà gởi một lá thơ cho Nhật hoàng, lá thơ mang chữ ký của bà và phế đế. Bức thơ gởi cho sứ thần Trung Hoa ở Đông Kinh, chuyển đệ lên Nhật hoàng.
Kính chào hoàng thượng, Trung Hoa và Nhật Bản gắn liền như hai ngón tay của bàn tay. Âu Châu và Á Châu kết liên trong trận chiến, hai quốc gia Á Châu chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ. Các nước Tây phương như một đàn mãnh thú đói, muốn đi xâm chiếm đất đai. Họ không tha thứ, sẽ dòm ngó đến lãnh thổ quý quốc. Trước nguy cơ thiệt hại, hai nước chúng ta sẽ quên những xích mích cũ, kết liên làm huynh đệ chỉ bang. Chúng tôi trân trọng yêu cầu quý quốc làm trọng tài với bọn quân thù đang vây hãm chúng tôi.
Bà thái hậu gởi giác thư, điện văn đi các nước để cầu cứu, nhưng bà không được một nước nào trả lời. Ngày đêm bà mong có thơ phúc đáp, lời kêu gọi của bà được hưởng ứng. Ngày đêm thân vương Tuấn đến thúc giục, quấy rầy bà.
- Tâu thái hậu, bạn hay thù, thiện cảm hay ác cảm với triều đình, toàn thể các quan lại, lớn, nhỏ, cả đến quân giặc người Hán, đều căm thù, bất cộng đới thiên với bọn Gia Tô giáo bọn ngoại nhân, họ đến nước ta để buôn bán hay để huyễn hoặc dân chúng, truyền bá đạo của họ, đối nghịch với ý chí của chúng ta.
Bà thái hậu bị hoàn toàn cô đơn, cô lập, thể chất cũng như tinh thần, không có tiếng nói của một người nào, một nước nào đáp lại lời bà, thần phật thì trơ trơ trích trích. Ngày ấy sang ngày khác, suốt ngày, bà thái hậu ở trong Long điện.
Các quan, các thân vương đứng im trong khi thân vương Tuấn nói. Xung quanh bà, hoàn toàn phẳng lặng, yên tĩnh. Nhung Lữ vẫn nằm liệt trên giường bệnh. Hè đến, ngày này qua ngày khác, trời nắng chang chang đã lâu không có mưa. Nền trời trong xanh không một cụm cây, một vẩn đục. Dân tình nhốn nháo, ta thán, dân đói quá, trộm cướp nổi lên như ong. Sau trận hồng thủy năm ngoái, tiếp đến năm nay hạn hán, tiêu khô. Dân chúng lầm than, thời buổi nhiễu nhương, thiên đình phẫn nộ, ra tai. Bà thái hậu bề ngoài rất bình tĩnh, thực ra trong lòng rối như tơ vò, bà không còn chút hy vọng nào. Trong kinh thành, giặc cướp nhan nhản, quân quyền phỉ đầy đường. Những người tử tế có chút máu mặt đóng chặt cửa ở trong nhà. Các sứ quán đề phòng, sợ bị đánh úp bất ngờ, các cửa đóng hết, quân lính đặt trong tình trạng báo động.
Ngày 20 tháng 5, bà thái hậu biết chờ đợi cũng vô ích không sao có thể ngăn cản được sự phá hoại, tiêu hủy. Mới sáng kinh thành đã đỏ rực lửa. Hàng trăm cửa tiệm bị tiêu hủy do quân giặc và quân quyền phỉ châm lửa đốt. Những người buôn bán giàu có, mạnh ai người ấy chạy toán loạn ra khỏi thành phố. Họ bồng bế, đem theo vợ con chạy loạn. Bọn quyền phỉ, giặc cướp tạo nên hỗn loạn, không phải họ nhắm vào người ngoại quốc mà thực ra để thúc giục triều đình và nhất là bà thái hậu phải có thái độ dứt khoát. Ngày hôm đó, bà nhận một lúc hai tờ phúc trình của hai viên thượng thư Viên và Hứa, hai viên chức này làm ở bộ ngoại giao. Hai người này quả quyết, chính mắt họ nom thấy, lính ngoại quốc bắn chết quân quyền phỉ, xác hãy còn trên đường phố, trước lãnh sứ quán. Bọn quyền quý bắt buộc phải tự vệ. Phế đế có hỏi viên thượng thư Hứa, nếu thảng hoặc quân đội ngoại quốc tấn công, mình liệu có đủ sức đề kháng hay không? Câu trả lời, mình làm sao có thể chống cự nổi, làm vua ứa hai hàng nước mắt. Viên thượng thư Viên tuyên bố khi ông nghe thấy có cuộc tấn công vào lãnh sứ quán, là một thất bại lớn, mình đã vi phạm nặng nề về quốc tế công.
Bà thái hậu do dự, không quyết định hành động. Ba oán trời, trách đất, biết trông cậy vào đâu?
Lời lẽ các tờ phúc trình cò vẻ hỗn xược, như quy trách nhiệm vào bà thái hậu, bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu bà. Ngày lại ngày, trong các sứ quán, người ngoại quốc sống như bị cô lập, vây hãm. Bà thái hậu được tin báo những người trong sứ quán không tiếp xúc với bên ngoài, nên bị đói khát. Bà lo lắng cho số phận họ, nên truyền đem thức ăn và mấy thùng nước tốt để uống. Họ từ chối không nhận vì sợ nước có thuốc độc.
Ngày rắm tháng sáu âm lịch, tình thế đến hồi quyết liệt, gay cấn nhất. Có hàng trăm giáo dân người Hán bị quân quyền phỉ sát ở trước cửa nhà một thân vương.
Khi bà thái hậu được tin bọn người vô tội bị sát hại, bà vô cùng xúc động, hai tay đưa lên bên tai, người run rẩy. Nếu người đi theo đạo Gia Tô chịu từ bỏ đạo, bà không bị bắt buộc phải lao mình vào chiến tranh tàn khốc này, nhưng bọn này ngoan đạo không chịu từ bỏ.
Bà còn nhậncđược những tin cấp báo ở Thiên Tân gởi về tình thế vô cùng cấp bách nguy ngập, quân đội ngoại quốc đã chiếm thành phố Thiên Tân, tiến quân về kinh thành để phá vỡ vòng vây của người Hán quanh các lãnh sứ quán. Quân đội hoàng gia thua liểng xiểng, cuốn cờ chạy toán loạn. Bà thái hậu biết làm sao bây giờ, chỉ còn mong đợi thời cơ, lễ bái, cầu thần lực.
Ngày mùng 10 tháng 7, sự kêu cầu lễ bái hàng ngày của bà đã cảm ứng thấu đến cửu trùng, Nhung Lữ thoát khỏi cơn bạo bệnh. Bà ra chùa làm lễ tạ và cho người đem đến cho Nhung Lữ những giỏ món ăn ngoại quốc rất bổ dưỡng để chóng được bình phục. Bốn hôm sau, Nhung Lữ nằm trên cáng cho người khênh đến trình diện bà thái hậu.
Nom thấy Nhung Lữ người ốm yếu, xanh xao, bà cho phép cứ nằm yên trên võng, không phải dậy. Bà ở trên ngai bước xuống, bắc một chiếc ghế, ngồi bên cạnh. Bà hỏi, tiếng nói nhỏ nhẹ, hịu dàng:
- Trong khi anh nằm đờ trên giường, hồn anh phảng phất nơi đâu?
- Hồn tôi bay bổng, phảng phất nơi đâu? Tôi quên hết không còn nhớ lại được. Tôi không hiểu nhờ vào uy linh nào tôi còn trở lại dương thế, chắc hẳn nhờ bà thành tâm kêu cầu cho tôi được qua cầu thoát nạn.
- Đúng vậy, tôi chí thiết chí thành, kêu cầu lễ bái cho anh được tai qua nạn khỏi. Anh có biết không chiến tranh hiện giờ đang hồi quyết liệt, Thiên Tân thất thủ, quân thù tiến tới gần kinh thành.
- Tôi biết tất cả. Lúc này phải tranh thủ thời gian, sớm ngày nào, bớt nguy nan ngày đó. Việc trước tiên phải bắt giữ thân vương Tuấn lại, bọn người ngoại quốc quy trách nhiệm cho hắn, hắn đã cổ võ, xúi giục bọn quyền phỉ làm càn. Chém đầu hắn cho người ngoại quốc nom thấy và minh oan cho thái hậu lúc nào cũng chủ trương thái bình, giao hảo.
Bà thái hậu bị chạm vào lòng tự ái, bà kêu lên:
- Anh nói sao? Đầu hàng quân thù? Chặt đầu thân vương Tuấn, cái đó không nói làm gì, nhưng đầu hàng? Không, không thể được, tôi không sao chịu như thế. Tất cả những gì suốt cả một đời tôi xây đắp, nay thành tro bụi.
Nhung Lữ rên giọng nói rất yếu ớt:
- Bà thật ương ngạnh, cổ hủ, không theo trào lưu, tôi không biết đến bao giờ bà mới chịu từ bỏ sự đi ngược trào lưu tiến hóa.
Hắn ra hiệu cho bọn phu khênh hắn đi. Bà thái hậu nhìn hắn, ruột như thắt lại, để cho hắn đi không giữ lại.
Bà thái hậu hãy còn cố tin tưởng vào yêu lực của bọn quyền phỉ. Một nửa kinh thành đã bị ngọn lửa thiêu rụi, quân đội ngoại quốc nhất định không chịu đầu hàng. Họ chờ quân cứu viện đến.
Ngày hôm thứ ba, năm lần liền, bà cho triệu tập các quan văn võ, thân vương...tụ họp ở cung Diên Thọ. Mặc dù người còn yếu, Nhung Lữ cũng cố gắng đến dự, ngồi ở hàng ghế các viên ngự sử. Nhung Lữ vẫn giữ vững lập trường, những lời khuyến nghị, trước sau như một, bà thái hậu không chịu nghe theo. Các quan và thân vương câm như hến, mặt người nào cũng xanh xao, hốc hác, vừa lo, vừa sợ, vừa mệt mỏi.
Trong khi mọi người ngậm miệng, im lặng, thân vương Ưng bô bô khoe khoang những bùa phép, thần chú của bọn quyền phỉ thật vô cùng lợi hại, thần sầu, quỷ khốc. Quân giặc (ngoại quốc) không sao qua được hào, một số đông bị chết đuối.
Nhung Lữ nghe trái tai quá, tuy người còn mệt, ông kêu lên:
Quân quyền phỉ là một nắm lông trước gió, đã là một nắm lông trước gió, quân giặc đến như một trận cuồng phong, nắm lông bay hết không còn một sợi.
Lời tiên tri đó đã thành một sự thật hiển nhiên. Vào giờ thân (3 giờ trưa), ngày hôm mùng 5, quận Lan hớt hải, chạy vào thư viện, bà thái hậu ngồi đọc sách ở đó, hắn kêu thét lên, bất chấp lễ nghi:
Lão phật! Lão phật. Chúng vào đến đây rồi. Bọn quỷ sứ Gia Tô phá cổng tỉnh, giặc kéo vào như thác lũ.
Bà ngửng đầu lên, trái tim ngừng đập.
- Như thế, người anh họ ta nói đúng.
Bà gấp sách đứng dậy. Bà đứng yên suy nghĩ, lấy ngón tay cái và ngón tay chỉ cầm chiếc môi trên.
- Quận Lan kêu lên:
- Thái hậu phải đi ẩn. Thái hậu và thiên tử tạm lánh lên mạn Bắc.
Bà đang suy nghĩ, lắc đầu. Quận Lan vội vàng đi tìm Nhung Lữ đến. Hắn đến gần bà, tay chống gậy, đi chưa được vững, nhưng với lòng nhiệt thành muốn phục vụ bà. Bà ngồi xuống, hai bàn tay nắm lại, nhìn hắn với hai con mắt để lộ trong lòng vô cùng bối rối, lo sợ.
Nhung Lữ đến gần bà, tiếng nói mệt nhọc, yếu ớt:
- Bà phải nghe tôi. Bà không thể ở đây được, bà tượng trưng cho triều đình, bà ở đâu, trung tâm quốc gia ở đó. Đêm nay vào giờ dần, trăng chưa lên, trời không sao. Bà phải lánh đi.
- Lại đị.. Lại phải đi nữạ..
- Việc như thế phải như thế, biết làm sao. Bà đã biết đường vất vả lại còn có người nọ người kia, không phải đi một mình.
- Có anh không?
- Không, tôi không đi. Tôi phải ở lại để tập trung tàn lực. Rồi bà sẽ về, cũng như lần trước bà đã trở về. Tôi phải ở lại để bảo vệ ngôi báu.
- Anh không có quân đội trong tay, bảo vệ bằng cách nào?
Bà gục đầu xuống. Nhung Lữ nhìn thấy những giọt nước mắt trên hàng lông mi rậm.
Nhung Lữ cố trấn tĩnh bà:
- Cái gì tôi không thể đạt được bằng sức mạnh, tôi dùng mưu trí. Tôi xin hứa bảo toàn ngôi báu cho bà:
Bà ngửng đầu lên, người ta nhìn thấy trên gương mặt bà sự nhượng bộ. Không phải bà nghe Nhung Lữ rồi nhượng bộ. Nghĩ mà thấy thương, và cũng vì tình cũ nghĩa xưa, Nhung Lữ nắm bàn tay bà một lúc. Nhung Lữ đi lùi ra xa một bước, trở lại vị trí theo đúng lễ nghi quân thần.
Tâu thái hậu, thời giờ cấp bách, không nên trì hoãn. Hạ thần phải lo việc hóa trang thái hậu và chọn người thay thế hạ thần đi hộ giá. Thái hậu phải xoa vào da một chất làm cho da thành màu nâu xậm, đầu đội chiếc nón như một nông dân. Bà lén rời khỏi hoàng cung, chỉ có hai thể nữ tháp tùng, đi đông quá có sự ồn ào rất bất tiện. Hoàng thượng hóa trang làm một nông phu. Các thứ phi ở lại hết.
Bà ngồi nghe Nhung Lữ dặn dò. Khi Nhung Lữ đi khỏi, bà như bói sách, mắt bà để vào một dòng chữ của Khổnf tử, cách đây hàng bao nhiêu thế kỷ:
"Đại sự thất bại chỉ vì trí lự hẹp hòi, sự hiểu biết kém cỏi."
Mấy lời trong sách, tình cờ bà nhìn thấy, làm bà mê hoặc, có ảo giác như có người nói lớn trong gian phòng. Tiếng nói từ ngàn xưa như đập mạnh trong tâm hồn, bà cảm thấy tự thẹn với chính mình.
Trí bà không quảng bác, bà không hiểu thời cơ, đại sự của bà bị phá hỏng... Đại sự là cứu nguy tổ quốc. Quân thù đã thắng, bà bị đại bại. Bà từ từ gấp sách lại và tự hiểu mình đã thất bại. Từ nay bà không đi ngược lại trào lưu tiến hóa, bà phải để trào lưu đưa bà đi.
Trong lòng bà nghĩ thấy cay đắng, đã thất bại, nhưng không bao giờ để lộ trên gương mặt nên mọi người khen bà lúc nào cũng có vẻ ung dung, bệ vệ, bình tĩnh. Bà ra lệnh cho các thể nữ, thái giám đem cất chỗ nào kín đáo, cẩn thận các sách vở của bà, những tranh ảnh, những tấm họa thủy mặc các đồ trang trí lặt vặt. Trong một gian phòng, bà bí mật sai Lý Liên Anh khoét tường cất ở trong các nén vàng, rồi lấy vôi cát, trát lại như cũ. Khi công việc sửa soạn đã xong, tuy vội vàng nhưng rất bình tĩnh, đến giờ dần, bà cho gọi các phế đế cung phi, bà giảng cho họ biết tại sao bà không cho tất cả họ đi theo bà trong cuộc lưu vong:
- Hoàng đế và ta phải bảo toàn tính mệnh, không phải vì cá nhân ta hay hoàng thượng, nhưng để bảo trì ngôi báu được liên tục. Ta đem theo ngọc tỷ, ta ở đâu là quốc gia ở đó. Các ngươi ở lại đây, không có gì phải sợ, vì quân cơ Nhung Lữ đã được bình phục một cách linh diệu vừa đúng lúc quốc gia nguy biến. Ông sẽ tập họp quân đội, đặt dưới quyền thống lĩnh của ông. Ta không tin quân thù đột nhập vào trong nội thành. Các ngươi ở lại, tiếp tục công việc hàng ngày như ta vẫn ở đây. Các thái giám ở lại để phục vụ các ngươi, chỉ có Lý Liên Anh đi theo ta hộ giá.
Các cung phi sụt sịt khóc, lấy ống tay áo chùi nước mắt, không ai nói một câu nào. Đột nhiên người cung phi Ngọc, bọn thái giám thả ra, tiến lại gần. Người này xanh xao héo hon, quần áo rách rưới nhưng vẫn cứng đầu. Hai con mắt như hai viên long não lóng lánh dưới đôi mày lá liễu. Nàng kêu lên:
- Tâu thái hậu, con không ở lại. Con xin phép thái hậu cho con được đi theo hầu hạ lang quân con.
Bà thái hậu nhỏm người lên như con phượng hoàng. Bà mắng, hai ngón tay xỉa vào mặt nàng.
- Mày còn dám nói à? Chính mày phải chịu trách nhiệm về sự nguy biến này. Chồng mày làm bao nhiêu điều không phải, mày không biết mở mồm can ngăn.
Bà lên cơn phẫn nộ, quay lại bảo Lý Liên Anh:
- Xách cổ con này đi, ném nó xuống giếng ở cửa Đông.
Phế đế quỳ xuống, định kêu nài, nhưng bà không cho nói. Trong lúc bình thường, bà rất mềm mỏng, kiều diễm, nhưng trong lúc nguy kịch bà vô cùng độc dữ.
Bà kêu lên, ngón tay chỉ thẳng xuống đầu phế đế quỳ dưới chân.
- Cấm nói, nó là con quỷ. Ta đã nuôi con rắn trong tay áo.
Bà nhìn Lý Liên Anh lấy tay ra hiệu. Tức thời hai thái giám đến nắm lấy người cung phi, đem đi, nàng không kêu một tiếng, người xanh và ngay đờ như một xác chết.
Bà ra lệnh bảoo phế đế:
- Lên xe, kéo rèm xuống khỏi ai nom thấy. Thân vương phúc Lan ngồi trên càng xe. Xe ta đi trước, Lý Liên Anh cưỡi la. Nó đi con ngựa dở lắm, cưỡi la phải cố theo xe cho kịp. Đi đường lở có ai hỏi gì, nói chúng tôi là nông dân nghèo, chạy trốn lên núi. Chúng ta đi ngang qua cung Viên Minh.
Bà dặn dò xong, xe bắt đầu chuyển bánh. Bà thái hậu ngồi trên mấy chiếc đệm, người ngay đờ như pho tượng, nét mặt thản nhiên, để tai nghe ngóng, dáng điệu quyết liệt. Xe đi ngang qua cung Viên Minh, bà kêu:
- Ngừng lại, ta vào đây nghỉ một lát.
Bà xuống xe, cấm mọi người không được xuống, phải ngồi yên trên xe, trừ có Lý Liên Anh được đi theo ba vào. Lần đầu tiên bà bước lên hành lang bằng đá cẩm thạch, cung điện lặng ngắt không một bóng người. Bà để lại đây tâm hồn bà. Bao lâu bà mong ước đến đây dưỡng lão, thảnh thơi, tịch mịch, trong một khung cảnh tuyệt đẹp. Có thể không bao giờ bà được nhìn lại những ngôi chùa xinh xinh, cung điện bà ưa thích nếu quân thù lại phá hủy một lần nữa như cách đây mấy năm... Ngày xưa, bà đã trở lại nơi này, bà cho tái tạo diễm lệ, huy hoàng hơn xưạ.. Nhưng hồi đó bà còn trẻ.
- Bà nhìn lại cung điện một lần nữa, rồi quay đi.
Trong bộ áo cục mịch, thô sơ bằng vải bông xanh, bà vẫn mảnh mai, yểu điệu, thướt tha. Bà bước lên xe, ra lệnh:
- Đi về phương Tây. Qua thị trấn Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây.
Cuộc hành trình kéo dài 90 ngày. Đi đường tuy vất vả, nhọc mệt, nhưng lúc nào nét mặt bà cũng rất thản nhiên. Bà không quên, tuy là trên bước đường bôn tẩu, triều đình vẫn ngưỡng trông bà như ánh sáng vừng thái dương.
Khi xe đi ngang qua một tỉnh lân cận, bà cởi bỏ hóa trang, nghỉ ngơi, tắm táp, rồi ăn mặc triều phục. Bà thấy trong lòng phấn khởi. Trong tỉnh Thiểm Tây, dân chúng sống trong thái bình, không có chiến tranh, nhưng đang bị nạn đói khủng khiếp hoành hành. Khi đã đặt chân lên tỉnh đó, viên tướng tống trấn sở tại đem quân bản bộ ra nghênh đón. Ông đem dâng bà một ổ trứng, một chiếc đai có gắn ngọc quý, một chiếc túi gấm để ống điếu và thuốc hút. Cử chỉ của viên tướng làm bà phấn khởi, mừng thầm. Bà đã đắc nhân tâm. Thực tế, trong khi ở đây đang có nạn đói, nhưng hàng ngày người ta vẫn đem dâng bà những sọt lúa mì kê, hay những con gà, vịt ốm nhom. Như được sưởi ấm bởi lòng dân mến phục, bà thấy phấn khởi, thưởng thức phong cảnh trong lúc bôn tẩu.
Đi qua một ngọn đèo được mệnh danh là đèo Nga Phi, bà cho xe dừng lại để thưởng ngoạn phong cảnh.
Trùng trùng điệp điệp những ngọn núi trọc in bóng trên nền trời đỏ sẫm, rủ bóng đen xuống các thung lũng. Viên tướng sở tại đi hộ giá, hái một ôm hoa vàng trên cánh đồng cỏ. Hai tay ôm một bó hoa lớn đem dâng bà thái hậu, nói các sơn thần, thổ địa ở đây đã rắc hoa suốt dọc đường để nghênh giá.
Bà thái hậu nghe nói rất đẹp lòng, cảm kích về lời tản dương ý nhị, bà truyền thái giám dọn tiệc rượu mời viên tướng đó để tẩy trần. Những chuyện nhỏ nhặt đó cũng làm mát dạ, hả lòng. Tuy ăn uống giản dị, sơ sài, bà ăn ngủ vẫn được điều hòa.
Ngày mùng tám tháng chín, bà đến thủ phủ miền Bắc. Viên tổng đốc Vũ Hiến ở đó ra nghênh giá với tất cả nghi lễ triều đường. Ông quan này tin tưởng vào yêu thuật của bọn quyền phỉ, ông đã sai giết hết người ngoại quốc, đàn ông, đàn bà, con nít. Bà thái hậu nhận những phẩm vật triều cống khi bà đến cổng tỉnh. Bà tỏ lời khen ngợi ông quan này đã có công tẩy uế hết quân thù trong địa hạt ông cai trị.
- Tuy nhiên, chúng ta thất trận, rất có thể quân thù ngoại quốc yêu sách phải đem khanh ra trừng phạt. Trẫm vẫn biết khanh là một trung thần, trẫm sẽ vờ chấp nhận lời đề nghị của họ, trẫm sẽ bí mật ân thưởng cho khanh. Phải cầu ước sau này mình sẽ thắng mặc dù hiện nay mình đang bị bại trận.
Vũ Hiến sụp xuống đất làm lễ cửu bái:
- Muôn tâu hoàng thượng, nếu cần hạ thần vui lòng hoàng thượng bãi truất hay khổ hình.
Bà chỉ ngón tay vào viên quan quỳ trước mặt, dọa:
- Dù sao, khanh đã có lỗi, sao dám xác nhận với trẫm, quân quyền phỉ có phép siêu nhiên, gươm, giáo, súng, đạn, không chạm được tới người họ? Có biết không, chúng chết như giạ. Đạn bắn vào người họ như bắn vào sáp ong.
- Muôn tâu hoàng thượng, yêu thuật của họ không kinh ứng vì họ làm càn không theo quy tắc. Họ đi cướp của, bắn những người vô tội theo đạo Gia Tô. Muôn tâu hoàng thượng những người chân chính, yêu thuật của họ rất linh nghiệm.
Bà gật đầu, nhận lời xét đoán đúng, bà đi thẳng vào trong dinh viên tổng đổng đã được sửa soạn sẵn để cung nghinh. Bà thấy bày trên bàn tiệc chiếc đĩa bằng vàng, bạc, những thứ này khi nào có tân khách mới đem ra dùng.
Chưa năm nào, mùa thu lại đẹp trời như năm đó. Ngày này sang ngày khác, trời nắng ấm, vạn vật tốt tươi. Năm đó được mùa, phong đăng hòa cốc, sau vụ gặt lúa đầy nhà, về nhiên liệu cũng đầy đủ, rơm rạ đầy đồng.
Trận chiến tiếp diễn ở tận đâu đâu, người dân vùng đó không biết gì về chiến tranh, sống trong cảnh thanh bình, no ấm. Họ tâm thành, lũ lượt đến chào mừng người mà họ tôn xưng là Lão Phật.
Tâm trí sảng khoái, chứa chan hy vọng, vững lòng về ngày mai xán lạn, bà thái hậu trở lại nếp sống phong độ như xưa, nhất là các hàng triều thần, thân vương đi hộ giá. Triều đình lại được thiết lập quanh bà.
Vừng trăng đang sáng vằng vặc giữa trời bị đám mây che phủ, tối sầm lại, cũng như sự sung sướng của bà đột nhiên tan biến về tờ phúc trình của Nhung Lữ. Nhung Lữ, trong tờ phúc trình, báo cáo hoàn toàn thất bại, sự nghiệp tiêu tan, người thuộc hạ trung thành nhất, Tùng Chi, vì tuyệt vọng đã thắt cổ nguyên sinh. Bà thái hậu phúc chỉ, ngỏ lời ngợi khen Tùng Chi, một dạ trung thành đã tự sát vì đại nghĩa; bà cho ra lệnh Nhung Lữ đến trình diện. Nàng thất Mai, vợ Nhung Lữ đi theo chồng, đã chết ở dọc đường. Để khích lệ, an ủi người anh họ, bà định cho hắn được thấy nhiều thắng cảnh, triều chính đã hồi sinh tại đây.
Khi Nhung Lữ đến, bà cho phép hắn nghỉ ngơi một giờ trước khi vào bệ kiến.
Bà tiếp Nhung Lữ trong một cung nhỏ cũ kỹ và cấm không được ai dự thính.
Cánh cửa mở, Nhung Lữ bước vào, người gầy gòm, mệt nhọc vì mới khỏi bệnh lại đi đường vất vả. Nhung Lữ rất cẩn thận, dùng một giờ nghỉ ngơi, tắm rửa, thay quần áo.
Theo thông lệ, Nhung Lữ sắp quỳ làm lễ chào, bà thái hậu giơ cao bàn tay mặt lên, cản lại. Hắn đứng yên, Bà ở trên ngai bước xuống. Hai người nhìn nhau một lúc, nét mặt đều có vẻ buồn. Bà khẽ nói:
- Tôi rất buồn khi nhận được tin vợ anh mất.
Nhung Lữ khẽ nghiêng mình, thưa:
- Tâu thái hậu tôi nghĩ rất thương tiếc một người rất tốt đã hết lòng vì nhà vì nước.
Hai người đứng yên, người nào cũng có ý chờ để người kia nói trước, nhưng biết nói gí bây giờ? Một lúc sau, bà thái hậu nói:
- Để tôi kiếm cho anh một người vợ khác.
-Việc đó tùy ý bà.
Anh có vẻ mỏi mệt, cho anh miễn tất cả các nghi lễ. Chúng ta đàm luận tự nhiên. Tôi cần sự lịch duyệt, khôn ngoan của anh trong lúc này.
Bà xuống các bực ở bệ ngai, đi ngang qua gian phòng, dáng điệu kiều diễm, thướt tha, bệ vệ, uy nghi. Hai người ngồi đối diện trên hai chiếc ghế, ngăn bởi một chiếc bàn nhỏ. Bà cầm chiếc quạt bằng lụa, trên quạt bà vẽ phong cảnh ở tỉnh đó. Bà nhìn hai bàn tay Nhung Lữ gân guốc đặt trên hai đầu gối, một lúc sau bà hỏi:
- Thế nào? Mất hết hả?
- Tâu thái hậu, mất hết.
- Anh có điều gì khuyến dụ tôi không?
- Tâu thái hậu, bây giờ chỉ còn một con đường duy nhất. Thái hậu hồi loan, nhượng bộ những yêu sách của quân thù để bảo toàn ngôi báu. Lý Hồng Chương còn ở đó để điều đình. Trước khi hồi loan, thái hậu ra lệnh cho đem thân vương Tuấn ra xử trảm để tỏ cho quân thù biết thái hậu đã hối hận, phục thiện.
Bà gập mạnh chiếc quạt nói:
- Không khi nào.
- Nếu thái hậu từ chối, thái hậu không thể nào hồi loan được. Bọn người ngoại quốc quy trách nhiệm vào thân vương Tuấn. Họ dám phá nát hoàng thành, không để cho thái hậu trở lại.
Trong huyết quản của thái hậu, máu đông lại, chiếc quạt bà đang cầm rơi xuống đất. Bà nghĩ đến bao nhiêu của cải quý giá, kho tàng chôn giấu trong hoàng thành, công lao của tiền nhân gây dựng nên nghiệp lớn. Liệu bà có chịu chấp thuận trở về hay bỏ mặc mất hết, cơ nghiệp tan ra mây khói.
Bà lẩm bẩm khẽ nói:
- Tính anh nóng nẩy, thô bạo.
Bà đưa ngón tay út chỉ chiếc quạt rớt xuống đất, hắn cúi xuống nhặt lên, đặt chiếc quạt lên mặt bàn. Bà hiểu hắn không e ngại bà đã chạm vào tay hắn.
Nhung Lữ kiên nhẫn nói tiếp:
- Quân ngoại quốc đuổi theo ta đến tận đây nếu bà nhất định cương quyết, không chịu điều đình cho ổn thỏa.
- Ta có thể tiếp tục đi nữa về phía Tây. Chỗ nào ta dừng chân lại là kinh đô hoàng triều ở đó. Các vị tiên đế ngày xưa cũng làm thế, ta noi gương người trước.
- Cái đó tùy ý thái hậu. Cả thế giới đều biết nếu thái hậu không trở về là thái hậu đi trốn.
Bà nhất định không chịu nghe theo, đứng dậy, khuyên Nhung Lữ nên nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng.
Bà nhất định không nhượng bộ. Ngày hôm sau, bà ra lệnh cho đình thần sửa soạn sẵn sàng để tiếp tục hành trình. Bà định đóng đô ở Tây An, tỉnh Thiểm Tây. Bà lấy cớ ở đó đang có nạn đói, sự thực, nạn đói nay đã hết. Mọi người phụng chỉ, không ai có ý kiến gì khác. Theo lệnh bà, Nhung Lữ đi ngựa, hộ giá. Nhung Lữ không nhắc nhở chuyện trở lại Bắc Kinh. Đi đường bà chỉ nói phong cảnh rất đẹp, Nhung Lữ trả lời, đọc mấy vần thơ cổ. Tuy đọc thơ nhưng trong lòng thấy chán ngán, thất vọng, một ngày nào đó phải trở lại hoàng thành. Bà rất kín đáo, không để lộ tâm tư trên nét mặt, vẫn cứ hướng Tây tiến thẳng. Càng đi, mỗi ngày ngai rồng càng thêm xa hơn.
Đến Tây An (thủ phủ tỉnh Thiểm Tây), bà thiết lập triều đình ở dinh viên tổng đốc. Dinh đã được sửa sang, quét dọn.
Đến ở đây, bà theo chính sách tiết kiệm, ăn uống giản dị tầm thường, không xa hoa. Người ta làm hàng trăm món ăn, những món đặc biệt ở miền Nam, nấu nướng rất cầu kỳ, bà chỉ dùng có sáu món. Bà chỉ cho nuôi sáu con bò cái để lấy sữa dùng hàng ngày. Tuy đi đường vất vả, xa xôi, bà vẫn mạnh khỏe, nhưng mất ngủ. Vì thế, đêm nào cũng có một thái giám đấm bóp cho bà ngủ.
Kinh đô được tạm lập trong lúc bôn tẩu, bà cho thiết triều hàng ngày, nhận được công văn phúc bẩm những tin tức ở kinh thành xa xăm.
Bà chịu đựng cảnh huống đó cho đến ngày bà nhận được tin cung điện Viên Minh bị quân đội ngoại quốc xâm phạm làm ô uế. Linh tráng ngoại quốc ăn uống bừa bãi trong cung điện. Họ ném chiếc ngai xuống đất, cướp phá tủ quần áo, xiêm y của bà, những bức họa của bà, trên tường phòng tủ của bà, họ vẽ bậy bạ, tục tĩu. Bà nhận được những tin đó, phát đau, nghĩ kinh tởm quá, nôn ọe. Bà nghĩ cần phải trở lại kinh thành, chịu khuất phục những yêu sách của đối phương, bà cho giết hết quân quyền phỉ. Hàng ngày viên tướng Lý Hồng Chương có gửi báo cáo tường trình với bà. Bà quyết định, song rất bối rối, khó nghĩ đem việc hồi loan ra thực hiện. Trong lúc khó khăn, lúng túng này, Nhung Lữ vẫn ở bên cạnh bà, hắn im lặng, lầm lì, cho chung cục không thể nào tránh khỏi.
Thỉnh thoảng bà lặng lẽ quay nhìn hắn, thấy hai con mắt hắn đen lánh, trên khuôn mặt xanh xao. Một hôm bà hỏi:
- Không còn đường lối nào khác ngoài sự phải chịu sự khuất phục chúng à?
- Tâu thái hậu, không còn cách gì. Vô kế khả thi.
Bà lặng lẽ nhìn hắn, hắn chỉ mỉm cười một cách đau khổ không nói gì. Một buổi chiều bà đang ngồi chơi một mình trong vườn, Nhung Lữ đột nhiên xuất hiện không cho báo trước.
- Tôi đến đây với tính cách thân hữu, không phải về công vụ. Số phận trời đã xếp đặt, an bài như vậy. Sao bà cố cưỡng lại. Bà muốn ở đây mãi sao?
Nhung Lữ kiên nhẫn, hết sức thuyết phục, trình bày, phải trái, hơn thiệt. Ông nói:
- Bà nên hiểu, nếu bà khăng khăng không nghe tôi khuyên nhủ, đại sự sẽ hỏng, lúc đó hối không kịp. Vả lại ở đây bà không đủ tiện nghi, không sao có thể sung sướng được.
- Đã lâu, tôi từ bỏ nếp sống sa hoa vương giả.
Nhung Lữ kiên tâm, cố thuyết phục để bà phải hiểu, phải nghe theo.
- Thế còn giang sơn xã tắc. Làm sao bà cứu nguy được tổ quốc, để cho giang sơn thu về một mối. Nếu bà cứ sống bôn tẩu mãi thế này? Đục nước béo cò, quân giặc chiếm đoạt thành trì, quân ngoại quốc đứng khoanh tay cho bọn giặc hoành hành. Nước sẽ chia năm xẻ bảy. Trăm họ sống bấp bênh lầm than, khổ ái, người ta sẽ oán trách bà vì bà đã bỏ họ đi ẩn một nơi với một nhóm người.
Nhung Lữ thuyết phục đã thành công. Ông đã khéo khêu gợi chí cao thượng, hùng tâm của bà. Bà thái hậu đứng dậy nhìn thẳng vào mặt Nhung Lữ, nói:
- Trước kia, tôi chỉ nghĩ đến tôi, bây giờ tôi nghĩ đến thần dân, trăm họ, tôi sẽ quay lại Bắc Kinh.
Ngày 24 tháng 8 tức là tháng 10 dương lịch, sau mấy trận mưa hè, đường xá đã khô ráo, đi lại được dễ dàng. Bà thái hậu sửa soạn rất trọng thể việc " Xa giá hồi loan", bà không muốn cuộc trở về âm thầm "Lùi xùi". Cuộc trở về phải được trịnh trọng, huy hoàng.
Vào một ngày đẹp trời, không mưa, không nắng, suốt ngày gió máy. Đột nhiên, xảy ra một biến cố bất ngờ, lão tướng Lý Hồng Chương chết đột ngột vì bệnh già. Bà thái hậu nghĩ lại, hối hận, đã có lần bà đã tỏ ra nhẫn tâm, ác nghiệt với một trung thần, người duy nhất trong hàng các võ tướng, không bao giờ dấu giếm bà sự thật, một người tận tâm với chức vụ, đã cải thiện lại quân đội.
Tuy tuổi già, sức yếu, cần phải nghỉ ngơi, một người rất trung thành, liêm khiết, tận tụy hi sinh, đã phụng chỉ bà thái hậu đề cử đem binh mã xuống miền Nam dẹp loạn ở Quảng Đông. Khi trở về Bắc Kinh, ông đã dàn xếp kí với người ngoại quốc một thỏa ước để phục hồi thái bình. Nếu bà thái hậu thực sự triệt để cho thi hành những điều khoản trong thỏa ước đã ký kết. Thái bình đã thực sự hiện hữu trên đất nước.
Để tỏ lòng ưu ái với một thành tử trung kiên, có công lớn với nước, bà truyền lập một đền thờ ở sinh quán ông và tất cả các tỉnh ông đã phục vụ, mỗi tỉnh một ngôi đền thờ ông.
Chẳng mấy lúc, bà thái hậu nhận thấy lời Nhung Lữ nói rất đúng. Cuộc trở về kinh thành của bà là một sự đắc thắng, khải hoàn. Dân chúng hoan hô, cuộc tiếp đón rất trọng thể, tưng bừng. Người ta cho sự trở về của bà là đánh dấu một kỷ nguyên mới, chấm dứt chiến tranh, trăm họ được an cư lạc nghiệp. Ở Khai Phong, thủ phủ tỉnh Hồ Nam, người ta tổ chức những màn hát bội để mừng ngày bà thái hậu hồi loan. Nền trời trong vắt, không có một cụm mây, ngày nóng, đêm mát.
Xa giá đến sông Hoàng Hà, bà cho ngừng lại, tuyên bố:
- Ta muốn dâng chút phẩm vật cho hà bá ở con sông này.
Bà cho sửa soạn nghi lễ rất trọng thể, ánh nắng buổi trưa làm tôn bộ triều phục của thái hậu và triều thần thêm huy hoàng, lộng lẫy. Bà hoan hỷ thấy dân chúng đến chiêm ngưỡng, đứng đông ở hai bên bờ sông, trong số đó có mấy khuôn mặt người tây phương. Để tỏ tình thân thiện, tạo hòa khí, bà sai thái giám đem rượu và trái cây cho người ngoại quốc. Bà dặn các quan và thân vương cho phép họ được chiêm ngưỡng khi xa giá về đến hoàng thành. Bà sang sông bằng một chiếc thuyền rồng, vẩy rồng mạ vàng, hai con mắt rồng gắn hai viên hồng ngọc.
Để tỏ tình thân thiện với đối phương, bà vui vẻ dùng xe lửa của họ để đi một quảng đường. Những chiếc xe bằng sắt này là một món đồ chơi giải trí ngày trước của cố hoàng đế, bà đã ra lệnh cấm không được dùng. Bà muốn cho người ngoại quốc biết bà đã hoán cải, bà đã tân tiến, có thể hiểu được phong tục của họ. Tuy nhiên bà chỉ đi xe lửa một quãng đường, nhất định không chịu vào trong hoàng thành bằng con thiết quái (Monstre de fer). Để tỏ lòng cung kính tiền nhân, bà cho xe ngừng lại ở cổng thành, tiếp tục lộ trình bằng ngọc liễn. Một nhà ga tạm thời được thiết lập ngay trước cổng tỉnh, nhà ga có xây một nhà rất rộng, trang trí bằng những tấm thảm quý, những đồ bằng sứ, chậu hoa, cây cảnh rất đẹp. Có đặt hai chiếc ngai để tiếp bà thái hậu và thiếu quân; ở đó các sứ thần ngoại quốc và đình thần đã túc trực để cung nghênh.
Phải dùng đến ba mươi toa xe lửa mới chở hết hành lý của thái hậu và quan tùy tùng cùng những cống phẩm thái hậu nhận được.
Đoàn xe chạy ngoằn ngoèo qua các đồi núi vắng vẻ. Khi xe đến ga, bà thái hậu nhìn ra cửa xe, bà rất cảm động thấy dân chúng đi đón bà đứng đông nghẹt ở ga. Trong hàng các thân vương, tướng tá, thân hào nhân sĩ trong tỉnh, y phục chỉnh tề, trang nghiêm, bà con nhận thấy các người ngoại quốc, nét mặt nghiêm nghị, lầm lỳ. Bà cố một nở một nụ cười xã giao với họ.
Cuộc tiếp đón diễn ra trong trật tự và trang trọng. Khi thái hậu xuất hiện, ở cánh cửa sổ toa xe, tất cả mọi người trừ những người ngoại quốc ra đều quỳ lạy. Viên quan nghi lễ của hoàng triều kêu to người ngoại quốc bỏ nón, bỏ mũ xuống. Việc này họ đã tự động làm rồi, trước khi có lời rao.
Người thứ nhất trịnh trọng ở trên toa xe lửa bước xuống là Lý Liên Anh. Người thái giám không cần để ý đến đám đông đứng đó, hắn vội vàng lo xếp đặt các hành lý. Hoàng đế xuống xe, thái hậu lấy tay ra hiệu, ông vội vàng vào ngay song loan đi thẳng, không nhận lời hoan hô, chào mừng của dân chúng. Có các vị thân vương đi kèm đỡ, bà thái hậu xuống đến sân ga. Bà đứng ở trong ánh nắng để nhìn cho rõ và cũng để mọi người chiêm ngưỡng, trong khi đó từ quan cho chí dân phủ phục hết, trán chạm đất; sân ga vừa được quét sạch. Bà thái hậu ngạc nhiên thấy có đông người ngoại quốc. Bà nói to, tiếng nói đứng xa cũng nghe rõ:
- Có bao nhiêu người ngoại quốc?
Khi bà biết những người ngoại quốc hiểu câu bà hỏi, bà mỉm cười rất duyên dáng, nói chuyện rất vui vẻ với viên quan nội an. Viên quan này hết lời ca tụng bà, nước da của bà vẫn nguyên vẹn, tuy đã trải qua phong sương, tóc bà đen, tuổi trẻ của bà thật bất diệt.
Viên tổng trấn Viên Thế Khải đến xin bà cho phép để trình diện ông trưởng xe và người tài xế, hai người ngoại quốc. Bà chấp thuận. Hai người da trắng đến đứng trước mặt bà, đầu trần... Bà cảm ơn và khen ngợi đã vâng theo lời bà không cho chạy với tốc độ quá hai mươi cây số một giờ. Thái hậu lên kiệu sơn son thiếp vàng để vào nội thành. Bà định đi vào qua cửa Nam. Bà dựng lại ở cửa Nam để làm lễ tại võ miếu. Trong khi các vị sư tụng niệm, tình cờ bà ngẩng đầu lên, thấy lố nhố trên mặt thành hàng trăm người ngoại quốc, đàn ông, đàn bà đang đứng nhìn bà. Thoạt đầu bà giận lắm, định gọi ngay thái giám đến tống cổ bọn này đi, nhưng bà nghĩ lại phải biết khoan dung, đại độ với đối phương mới có thể bảo toàn được ngôi báu. Bọn người ngoại quốc tưởng cái cười của bà là tự nhiên, không biết trong lòng bà căm lắm mà bề ngoài phải cười với họ. Làm lễ ở võ miếu xong, bà lên kiệu hồi cung.
Bà mừng quá thấy cung điện của tiền nhân để lại không bị quân thù phạm đến, còn nguyên vẹn. Cung điện xây cất rất công phu, tốn công, tốn của. Bà đi xem qua các cung điện, đình tạ trở lên Long điện. Bà nghĩ thầm:
"Ta lại tiếp tục lên ngôi, cai trị muôn dân"
Bà thấy các hoa viên còn nguyên vẹn, không có gì thay đổi, bóng cây vẫn rũ xuống mặt hồ. Tư dinh của bà, các khuôn cửa đồ sộ, uy nghi, tráng lệ, sơn son thiếp vàng, những mái hiên, ngói vàng óng ánh, bức tượng phật bằng vàng vẫn nguyên tại vị. Bà nghĩ "Ta sẽ sống ở đây chết cũng ở đây".
Nhưng hãy còn sớm quá nghĩ đến chuyện chết. Sau khi đã xem xét, kiểm điểm lại một lượt các cung điện, bà nóng lòng muốn biết những của cải, vàng bạc, châu báu, bà chôn, bà cất còn nguyên vẹn không?
Đi kèm với tên thái giám, bà xem xét tỷ mỷ bức tường (chỗ bà chôn giấu) xem có vết tích gì khả nghi không?
Sau khi đã xem xét, bà rất mừng nói:
- Không có một viên gạch nào bị mó đến.
Nói xong, bà cười, nét mặt vui tươi như ngày trước. Bà bảo tên thái giám đứng đó:
- Lũ quỷ Tây phương chắc đã nhiều lần đi ngang qua bức tường này, nhưng chúng không có bùa phép để đoán biết ở trong bức tường có chôn giấu gì.
Bà ra lệnh cho Lý Liên Anh hạ bức tường xuống, thteo bản danh sách kê khai, kiểm điểm lại xem có thiếu sót gì không? Bà dặn tên thái giám:
- Mi phải coi chừng bọn thái giám, có khi tao không mất về tay bọn quỷ Tây phương mà mất về bọn thái giám gian manh.
Lý Liên Anh làm ra vẻ không bằng lòng nói:
- Thái hậu không tin con hay sao?
Bà thái hậu trở về phòng riêng. Cuộc trở về này thật vui mừng, yên ấm biết chừng nào. Lẽ tất nhiên bà phải trả một giá đắt, từ nay, dù sao bà cũng phải làm ra có thiện cảm đối với họ. Ngay chiều hôm đó, bà nói bà sẽ cho mời phu nhân các sứ thần ngoại quốc một lần nữa. Bà tự tay viết thiếp mời. Để bảo vệ thanh danh, khỏi mang tiếng độc ác, bà tán dương tiếet hạnh của cô thứ phi Ngọc. Trong một sắc chỉ được phổ biến, bà nói người thứ phi chậm chạp quá, không đi theo được hoàng thượng trong khi bôn tẩu,vì không muốn nhìn thấy cung điện, lăng tẩm bị quân thù xâm phạm, nàng đã gieo mình xuống giếng quyên sinh.
Đến chiều tối, thái hậu sai Lý Liên Anh mời Nhung Lữ đến.
Nhung Lữ vào trình diện ở gian phòng tư yết, hai thái giám xóc nách đi hai bên. Bà nom thấy Nhung Lữ già quá, yếu quá, lòng bà đang hớn hở sung sướng, bị mất hết. Bà nói:
- Mời anh vào.
Bà bảo bọn thái giám:
- Đưa ông lại ngồi trên ghế. Ông không phải quỳ lạy, tất cả được miễn hết.
- Bưng đến cho ông một bát cháo, một bình rượu nóng, ít bánh nhẹ. Người anh họ ta nhọc mệt vì đã tận tụy phò giúp ta.
Khi bọn thái giám lui hết ra ngoài, còn lại có hai người. Bà thái hậu đến gần Nhung Lữ, đặt mấy ngón tay lên trán hắn, vuốt ve bàn tay hắn.
- Ô! Tay anh gầy đét, còn trơ xương, hai má anh sâu hắm, da anh nóng bỏng.
Nhung Lữ thều thào nói:
- Tôi xin bà, van bà nên đứng xa tôi ra. Những tấm đệm ở đây có mắt, tường có tai.
Bà nói giọng như van nài:
- Tôi không thể săn sóc, trông nom anh được sao?
Bà thấy hắn có vẻ lo ngại, nghĩ đến thanh danh của vị hoàng thái hậu, mà phải lùi ra, thở dài, trèo lên ngồi trên ngai.
Tuy tuổi già, mắt kém, Nhung Lữ cố đọc bản phúc trình về các thể nữ trở về.
- Các bà thể nữ có tuổi than phiền về chuyến đi vất vả. Họ than phiền phải đi xe hỏa, than khói, xe chạy lộc cộc, xốc lắm. Chính tôi phải trông nom, kiểm điểm thùng đựng bạc nén, mỗi thùng có biên ở ngoài tên một tỉnh. Công việc đó vất vả lắm. Tâu thái hậu, những hành lý chất đầy ba ngàn chiếc xe lừa kéo, cái đó cũng không đáng kể, có điều lo ngại nhất là sợ dân chúng bất mãn, khi họ biết việc du hành lúc đi, lúc về rất tốn kém, đặt các trạm nghênh tiếp ở dọc đường, cầu kỳ, sa hoa, những cái đó phải tăng thuế để bù vào chỗ thiếu hụt.
Hắn đang nói, bà thái hậu chặn lại, âu yếm bảo:
- Tôi xem anh mệt lắm, anh về nghỉ ngơi, tỉnh dưỡng. Bây giờ chúng ta đã trở về, cái đó mừng rồi.
Nhung Lữ lẩm bẩm khẽ nói:
- Tôi thấy còn nhiều công việc khó nhọc, nặng nề lắm.
- Những cái đó anh khỏi phải lo, đã có người khác lo liệu, gánh vác.
Bà nhìn kỹ khuôn mặt hắn, tuy đã già nhưng vẫn còn đẹp. Hắn đứng yên cho bà ngắm nghía, quan sát. Sự cảm thông của đôi bên còn sâu đậm hơn đôi vợ chồng già có cưới xin.
Tuy không có sự kết hợp bằng thể xác, song có những sợi dây vô hình thắt chặt tâm hồn hai người. Bà âu yếm vuốt ve hai bàn tay hắn. Hai người lặng lẽ đứng yên một lúc, bốn mắt nhìn nhau trong sự cảm thông. Một lúc sau hắn lặng lẽ cáo lui đi ra.
Làm sao bà có thể biết trước hai người gặp nhau lần này là lần chót? Trong đêm hôm đó Nhung Lữ lại lên cơn bệnh. Suốt bao nhiêu ngày, hắn ở trong tình trạng hôn mê. Bà thái hậu buồn bã, thất vọng, các ngự y trong triều không đủ năng lực làm thuyên giảm được bệnh. Bà cho mời một bốc sư đến. Bốc sư gieo quẻ nói Nhung Lữ đã đến ngày tận số, không sao cứu chữa được. Nhung Lữ mất trong cơn hôn mê tháng ba, tháng tư dương lịch. Bà thái hậu ra lệnh cho triều thần để tang và bà cũng kiêng kỵ không mặc quần áo màu, đeo đồ trang sức trong một năm.
Từ ngày Nhung Lữ mất đi, không có ai, không có gì giải sầu được bà. Bà đứng cạnh quan tài, tự tay trải tấm khăn đỏ phủ trên quan tài. Nếu không phải giữ gìn ý tứ, vì lẽ địa vị cao sang, bà muốn mặc đồ tang chế, túc trực suốt đêm cạnh quan tài. Bà muốn khóc thật to để vợi được phần nào lòng đau khổ. Nhưng bà là vị nữ hoàng, bà không thể rời hoàng cung, than khóc ầm ỉ, chỉ vì mất một trung thần. Bà chỉ than khóc khi vắng vẻ không có ai, nên bà muôn được những lúc rãnh rang, nhàn rỗi, ngoài những công vụ nặng nề trong tình trạng đất nước hiện tại để khóc.
Một đêm bà nằm vật vã trên giường không sao ngủ được, bà âm thầm khóc. Bà cho kéo hết rèm xung quanh giường nằm để được tự do khóc. Bà nghe tiếng trống cầm canh, lúc đó đã sang giờ tý (nửa đêm), bà mơ mơ màng màng như thấy mình thoát xác, nhẹ nhành, bay bổng. Bà mơ thấy Nhung Lữ, trẻ, khôi ngô. Bà mơ thấy ông ôm chặt bà trong hai cánh tay một lúc lâu. Bao nhiêu sự phiền muộn tiêu tan hết, tâm hồn nhẹ nhỏm có thể bay bổng. Bà mê nghe tiếng hắn nói, bà nhận ra đúng tiếng hắn.
"Không bao giờ tôi rời em. Lúc nào tôi cũng ở cạnh bên em. Khi nào em ngoan ngoãn, biết điều, anh đến với em. Tâm hồn anh là tâm hồn em, thể xác anh là thể xác em. Chúng ta tuy hai mà là một".
Mơ màng... Mơ màng... Có phải là mơ màng không? Bà cảm thấy trong tâm hồn như không phải là mơ màng, mộng mị mà là sự thật. Nhung Lự linh thiên đã hiện về. Khi bà bừng thức dậy, thấy trong người nhẹ nhỏm, không mỏi mệt. Bà thực sự được người ta yêu quý, hơn bao giờ hết, dù âm dương cách biệt, bà không cảm thấy cô đơn. Đó là ý nghĩa giấc mộng của bà.
Thái độ, tâm trí bà thái hậu đột nhiên biến đổi, quầng thần đều phải sửng sốt ngạc nhiên. Dù sao, những ý nghĩ, tư tưởng bà vẫn giữ kín đáo.
Nhờ có trí thông minh, lịch duyệt, sự hiểu biết, như người ngủ mê, vừa mới thức tỉnh, bà đã lấy bại làm thắng. Đáng lẽ bà còn tranh đấu, bây giờ bà đã khôn ngoan nhượng bộ, chịu nghe theo lẽ phải, theo trào lưu tiến hóa.
Trước sự kinh ngạc của mọi người, bà đã khuyến khích thanh niên, nam và nữ, người Hán cho xuất dương du học. Trong một đạo sắc chỉ, bà cho phổ biến, có minh thị:
"Tất cả thanh, thiếu niên tuổi từ 15 đến 25, những người có đủ sức khỏe và thông minh, có thể, nếu muốn được xuất dương du học. Triều đình đài thọ tất cả phí tổn về di chuyển."
Bà cho triệu viên thượng thơ Viên Thế Khải và học giả Trương Chí Tùng, người Hán có óc chủ trương chống đối bà. Bà thảo luận rất lâu với hai người đó, rồi bà cho bãi bỏ những kỳ thi hương, thi hội. Bà khuyên nhủ bọn thanh niên không những đến viếng thăm, quan sát Nhật Bản mà sang cả Châu Âu và Châu Mỹ. Bà nói tất cả dân tộc trên năm châu này là cùng một gia đình dưới bầu trời, họ sống rãi rác do đại dương phân cách. Bà xuống chiếu chỉ một năm sau Nhung Lữ mất.
Năm sau bà cho ban bố một sắc lệnh cấm dân chúng không được dùng nha phiến. Những người già cả đã quen dùng nha phiến, bà ra ân lùi lại mười năm mới cho áp dụng thi hành sắc lệnh.
Suy nghĩ về những sự cải cách, bà thấy còn nhiều thứ phải canh tân, Người ngoại quốc không chịu từ khước những đặc quyền nên bà không cho canh cải về hình luật. Bà xuống chiếu từ nay, xử án theo luật không dùng cường bạo hay khổ hình. Bà ra lệnh bãi bỏ hết cực hình đối với phạm nhân như chặt đầu, tùng xẻo, phanh thây, đánh bằng trượng hay sắt nung đỏ, vấn đề tru di tam tộc. Bây giờ bà hãy còn nhớ, mấy năm trước Nhung Lữ có khuyến cáo bà nên bãi bỏ những tục lệ dã man, vô nhân đạo đó.
Bà lo lắng, tự hỏi ai là người sau này kế vị bà. Bà không muốn thiếu quân, một người ốm yếu, nhu nhược, một tên tội phạm của bà lên cầm quyền. Phải một người nào có chí khí, có nghị lực, mạnh khỏe, nhưng biết ai? Người nào có đủ tài năng để cầm vững tay chèo con thuyền quốc gia trong vận hội mới.
Bà thấy thắc mắc về tương lai. Bà thường nói với các vị thân vương, người đó sẽ là một vị thánh. Bà bắt đầu để ý, suy xét về Tây phương, ở đó phát sinh ra sự hùng mạnh. Thường nhật bà nói, bà tiếc nay bà đã già, không còn trẻ để đi quan sát mấy nước đó. Bà than:
- Chao ôi! Ta đã già quá rồi.
Các thể nữ nhao nhao lên nói bà vẫn đẹp lắm, nước da rất hồng hào, sáng sủa, hai mắt đen lánh, tinh nhanh, đôi môi đỏ, tươi thắm. Bà chấp nhận những lời khen ngợi đó, song bà cũng hiểu sự chết không từ ai, một định luật thiên nhiên chung cho tất cả mọi người trên thế gian này.
Bọn thể nữ đồng thanh tung hô:
- Muôn năm. Muôn năm Lão Phật. Muôn năm. Muôn năm.
Bà xuống chiếu, cho các quan, người nào xuất sắc nhất được đi du lịch các nước Tây phương. Cuộc du lịch đặt dưới quyền hướng dẫn của quận vương thái tử.
Trong tờ chiếu có nói:
"Chư khanh đi du lịch các nước Tây phương, những nước nào cường thịnh nhất, có nếp sống cao, dân chúng ưa chuộng chính phủ của họ. Được tuyển chọn bốn vị xuất sắc nhất ở mỗi nước một năm. Để tâm nghiên cứu chính phủ của họ, tìm hiểu đúng nghĩa những chữ "Hiến pháp", "Dân chủ".
"Làm tờ trình cặn kẽ về những vấn đề đó".
Trong lòng các quan có người chê trách bà, phải chịu khuất phục bọn người đi chinh phục, thiếu tự hào, sự yếu kém đó làm tổn thương đến danh dự quốc gia dân tộc.
Một nhà Nho người Hán viết: "Người dân chúng tôi sẽ bị khinh thị là bọn quê mùa, thô kệch, nếu chúng tôi cúi đầu vâng theo người ngoại quốc. Nhưng biết nói làm sao khi bà thái hậu của chúng tôi chịu hạ mình một cách thái quá đối với mấy người đàn bà vợ của các viên sứ thần ngoại quốc? Sự tươi cười, niềm nở, chào hỏi của bà khi bà ngồi trong kiệu loan đi ngoài phố, gặp một người đàn bà ngoại quốc như thế biết nói làm sao? Hình như trên mặt bàn ở trong hoàng cung người ta cũng thấy những mảnh giấy viết chữ ngoại quốc, những đồ đạc ngoại quốc đầy rẫy trong nội thành. Tuy người mình đã nhún nhường đến như thế, các lãnh sự quán ngoại quốc vẫn luôn luôn tỏ vẻ thù nghịch với người mình qua trung gian của viên bộ trưởng ngoại giao của họ."
Tuy nhiên, người ta cũng thấy những ý kiến, những lời bình phẩm đối nghịch. Một người Hán khác viết:
"Bà thái hậu tuy đã cao niên vẫn không từ bỏ đường lối thù nghịch với người ngoài. Chắc người ngoại quốc tự hỏi bà âm thầm mưu đồ kế hoạch gì để chống đối họ."
Lại một người khác viết:
"Thái độ kỳ lạ hiện nay của bà thái hậu, có thể giải thích vì lý do bà đã già, muốn thực hiện bốn chữ "Lão giả an trị"."
Trong những lời chỉ trích, phê bình, bà mỉm cười nói:
- Ta biết công việc ta làm, ta hiểu rõ, ý thức được hành động của ta. Không có nghị quyết nào của ta mà không thể giải thích được. Tư tưởng đó ta có từ lâu, nhưng phải chờ đúng cơ hội mới đem thực hành.
Không ai hiểu những lời giải thích của bà, nhưng bà đã nhất định theo một đường lối mới.
Một năm sau khi đoạn tang Nhung Lữ, nhân dịp tết Nguyên Đán, bà thái hậu cho mời tất cả các sứ thần ngoại quốc, các phu nhân và con cái đến dự yến ở hoàng thành. Các sứ thần dự yến ở đại sảnh, các bà phu nhân ở trong tư dinh thái hậu; các cung phi tiếp đón đám con nít trong các gian phòng riêng của họ, có thái giám và a hoàn phụ giúp.
Hoàng thượng ngồi dự yến tiếp các sứ thần, khi tan tiệc bà thái hậu mới xuất hiện. Hoàng thượng rất sành, biết thưởng thức những món cao lương mỹ vị Tây phương cũng như ngài hiểu những món ăn Đông phương. Phải huy động ba trăm đầu bếp giỏi để làm bữa tiệc đặc biệt. Bọn nhạc công trong triều hòa tấu, gánh hát hoàng gia diễn bốn tuồng, mỗi vở dài ba tiếng đồng hồ.
Chưa lần nào, ở trong nội thành, có một cuộc tiếp đón khách khứa quá đông đảo như vậy, bà thái hậu phải hết sức cố gắng. Bà truyền lệnh cho người con gái của viên khâm sai ở Âu Châu, chỉ cho bà cách chào hỏi theo xã giao Tây phương và bà học vài tiếng Anh ngữ thông thường.
Bà coi bản đồ Âu Châu, chê nước Pháp nhỏ quá, không cần phải học Pháp ngữ; nước Mỹ, một nước tân lập, chưa được vui mừng lắm. Duy có Anh quốc, có nữ hoàng cai trị, bà rất có thiện cảm với nữ hoàng. Vì có thiện cảm với nữ hoàng, bà muốn học Anh ngữ. Bà còn treo ảnh nữ hoàng Anh quốc trong phòng bà. Bà ngắm rất lâu bức chân dung nữ hoàng, bà nói tướng mạo của bà này cũng giống bà, thọ lắm.
Các sứ thần ngoại quốc sửng sốt, thấy bà thái hậu tiếp đón họ, bà nói bằng một câu Anh ngữ. Bà vào trong đại sảnh, ngồi trong chiếc kiệu loan, có 12 thái giám mặc đồng phục màu vàng khênh. Hoàng thượng tiến lại để cung nghênh, bà đặt bàn tay lên cánh tay hoàng thượng, một bàn tay đeo đầy nhẫn nạm ngọc. Bà mặc chiếc áo thêu kim tuyến óng ánh, áo thêu những con rồng xanh, đeo chuỗi hạt trai. Chiếc mũ miện nạm hồng ngọc và bích ngọc. Bà đi lên ngai, tuy bà đã già nhưng dáng đi vẫn kiều diễm, thướt tha như hồi còn trẻ. Bà gật đầu chào mọi người đứng ở hai bên. Bà định nói gì? Các quan khách nghiêng đầu chào, đáp lễ không người nào quỳ. Họ nghe bà nói một câu gì không ai hiểu.
Sau đó thông dịch viên, người ta mới hiểu câu bà vừa nói: "Bà thái hậu chào mừng tất cả các quan khách, chúc mừng năm mới và mời dùng trà". Các sứ thần ngoại quốc nghe bà nói mấy câu đó, cảm động, vỗ tay. Lúc đầu bà lạ quá không hiểu thế nào, chưa nom thấy ai vỗ tay bao giờ, bà nhìn những người cao lớn, nét mặt cứng cỏi, quần áo cũn cỡn, nhưng thấy vẻ mặt người nào cũng đầy thiện cảm. Bà hiểu họ hoan nghênh. Bà rất vui vẻ, cười, lên ngồi trên ngai, nói lớn:
- Các ông đã thấy, muốn kết tình giao hảo cũng dễ dù với quân man di. Cái đó chỉ cần một chút cố gắng về phía những người văn minh.
Bữa tiệc được tiếp diễn trong tình thân hữu. Tan tiệc bà tặng quà cho tất cả mọi người và những người tùy tùng. Bà cáo lui về phòng riêng.
Hồi tưởng lại trong bao nhiêu năm dài của quãng đời bà đã qua, bây giờ bà lo cho tiền đồ của dân tộc. Bà thấy ngày hôm nay (ngày hôm mời sứ thần ngoại quốc dự tiệc) đã giúp bà về nhiều phương diện, bà đã xây đắp được nền móng vững vàng cuộc giao hảo với liệt cường Tây phương tùy theo thái độ của bà, hoặc là bạn hay là thù. Bà nghĩ đến bà Victoria, vị nữ hoàng Tây phương, bà mong ước được ngày nào gặp bà, cùng với bà thắt chặt tình thân hữu, kết hợp hai vũ trụ: Đông và Tây.
Nếu gặp bà nữ hoàng Tây phương, bà sẽ nói:
- Dưới bầu trời, mọi người tuy khác chủng tộc đều là anh em.
Nhưng chao ôi, ít lâu sau bà nhận được tin bà nữ hoàng đã băng hà. Bà thái hậu buồn quá. Bà nghe nói bà nữ hoàng được toàn dân mến phục, bà mất về bệnh già như mọi người. Bà thái hậu vô cùng thương tiếc, như bị một vết thương trong tâm can. Bà lẩm bẩm nói một mình: "Ai cũng phải chết, không ai có thể sống được mãi" (Nhân sinh thế thượng thùy vô tử? )
Lúc bà nói câu này, bà khỏe mạnh, không cảm thấy mình cũng sắp đến ngày về chầu tiên đế.
Việc bà nữ hoàng Anh băng hà một cách đột ngột, làm bà thái hậu lo về vấn đề người kế thừa ngai rồng. Bà nữ hoàng một cường quốc, tử thần đến đón đi, thì bà thái hậu, một ngày kia tử thần cũng chiếu cố đến đón. Nhưng, hiện nay, bà còn mạnh khỏe, bà còn sống lâu, chờ cho một đứa trẻ nào lớn, sẽ lên kế vị ngai rồng, trước khi bà vào nằm trong quan tài. Lại một lần nữa, bà để tâm lo tìm người kế vị, một đứa trẻ, bà dạy cách làm vua. Lần này bà không còn nhầm như xưa kia, bà sẽ chỉ bảo cho người thừa tiếp thực trạng của thế giới hiện tại. Bà sẽ chọn những người phụ đạo người Tây phương. Bà cho phép ấu chúa được chơi các món đồ chơi do ngoại quốc chế tạo: Xe lửa, tàu bè, thần công, đại bác của ngoại quốc. Ấu chúa tập đánh nhau với quân Tây phương. Khi nào bà mãn phần như nữ hoàng Victoria, ấu chúa sẽ thắng, sẽ lấy lại những cái gì bà đã mất, những đất đai bị quân thù cưỡng đoạt. Bà lo lắng, thắc mắc tìm đâu ra con người lý tưởng đó để nối nghiệp bà. Đột nhiên một ý nghĩ nảy ra trong óc. Người đó, hiện nay là đứa trẻ, chẳng phải tìm đâu xa xôi, hiện nó ở trong dinh Nhung Lữ, là cháu ngoại Nhung Lữ, mẹ là con gái Nhung Lữ, cha là thân vương Chuân. Bà mừng quá, cúi đầu xuống cười một mình. Gián tiếp bà cho chăm nom, nuôi nấng đứa trẻ cho đến ngày lớn khôn để lên ngai rồng. Việc này do thiện chí của bà. Trời đất phải ủng hộ bà cho đạt được ý nguyện đó.
Dẫu sao, sự lựa chọn này hãy còn quá sớm. Bà giữ kín, không nói với ai ý nguyện đó, cốt sao nuôi được đứa trẻ đó mạnh khỏe chờ cho đến ngày kim thượng băng hà. Ông này nhiều bệnh hoạn, chắc cũng không sống được bao lâu nữa. Bà đã già, người yếu, chưa nghĩ đến việc làm lễ Giao về thu tiết. Cuộc tế Giao bà phải làm chủ lễ, mạnh bái, phải quỳ, phải lạy nhiều nên rất khó nhọc, mệt mỏi. Theo tục lệ cổ, cấm không được đọc tên người kế vị trước khi hoàng thượng quay về chín suối. Nếu tình trạng sức khỏe ông vua cứ kéo dài mãi thế này, thì là bọn thái giám sẽ dùng độc dược để cho ông về chầu tổ ngaỵ..Đột nhiên, bà nghe có tiếng gió thổi, bà ngửng đầu lên, bảo bọn thể nữ:
- Các ngươi nghe tiếng gió thổi, gió này phải chăng báo hiệu sắp có mưa.
Đã hai tháng nay, trong nước bị trời ra tai, khí hậu rất khắc nghiệt, khó chịu. Trời hanh, rét rồi kéo theo một sức nóng trái mùa. Những cây mẫu đơn nhầm thời tiết cũng ra nõn. Dân chúng kéo nhau ra các đình chùa lễ bái, cầu đảo. Bà thái hậu ra lệnh cho các sư sãi ở các chùa ngày nào cũng phải ra ngoài trời để tụng niệm.
Bà hỏi các thể nữ:
- Các ngươi thấy gió thổi hướng nào tới?
Các thể nữ hỏi bọn thái giám, bọn này chạy ra sân, giơ bàn tay lên, quay mặt về tứ phía, vội vàng chạy vào báo tin mừng. Gió từ biển Đông thổi tới, có hơi nước.
Đột nhiên, nghe có tiếng sấm, một hiện tượng lạ trong mùa này. Ngoài phố, dân chúng ở trong nhà chạy hết ra ngoài đường, ngửng mặt nhìn trời.
Gió bắt đầu thổi mạnh, cửa ngõ các nhà rung chuyển. Gió thổi ở ngoài biển vào đem theo hơi nước. Bà thái hậu ra ngoài sân, nhìn lên trời, quan sát. Lúc đó, mây đen cuồn cuộn kéo đến, tiếp theo là một trận mưa mát lạnh.
Bà thái hậu khẽ nói:
- Một điềm rất tốt.
Các thể nữ kéo đến cạnh bà, bà xua tay đuổi đi, bà đứng một mình dưới mưa. Có tiếng ồn ào ngoài phố, bà nghe thấy:
- Lão Phật, Lão Phật đem lại mưa.
Lão Phật là bà, dân chúng tôn xưng bà ngang hàng với các vị Tiên Phật.
Bà đi vào, lên mấy bậc thềm ở cung, những giọt nước ở áo bà rơi xuống nền gạch. Bà để cho các thể nữ lau áo, bà cười, nói:
- Từ thưở nhỏ đến giờ chưa khi nào ta được sung sướng như hôm nay. Ta nhớ lại lúc ta còn nhỏ hay chạy đùa dưới mưa.
Các thể nữ nhìn bà, âu yếm nói:
-Thái hậu quả thực là một vị Phật sống.
Bà vui vẻ nói:
-Việc mưa, gió do thiên đình, ta người trần làm sao sai bảo được thần Phong, thần Vũ.
Các thể nữ nhất quyết nói bà có phép hô phong, hoán vũ. Bà biết bọn này muốn tâng bốc bà.
- Trời mưa cho Lão Phật. Một trận mưa cứu nguy muôn dân. Nhờ ơn Lão Phật chúng con được thấm nhuần mưa móc.
Để cho bọn này vui, bà cười bảo họ:
- Cũng có khi thế thật.

Xem Tiếp: ----