Hồi 6b
Thiết Đảm Trang vô phương biện bạch
Hồng Hoa Hội thị vũ dương uy

Thì ra người gù ấy chính là Chương-Tấn, vai vế đứng thứ 10 trong Hồng Hoa Hội. Chương-Tấn tạm thời thu đôi song phủ về mà hỏi:
-Tứ ca đâu? Sao Tứ Tẩu lại ở đây mà giao thủ với họ?
Lạc-Băng lấy tay chỉ vào Châu-Trọng-Anh, Vạn-Khánh-Nhuận và Đổng-Triệu-Hòa, giọng uất ức nói:
-Tứ ca đã bị bọn này ám hại rồi! Thập ca giúp muội một tay báo thù nhé!
Chương-Tấn nghe Lạc-Băng nói Văn-Thái-Lai bị ám hại thì ngơ ngác chẳng hiểu gì cả. Nhưng vốn là người nghĩa khí, bình sinh lại rất thân với vợ chồng Văn-Thái-Lai nên khi nghe Lạc-Băng nói như vậy thì chẳng cần đán đo hơn thiệt gì nữa, giơ ngay cặp song phủ lên mà nhắm đầu Châu-Trọng-Anh bổ xuống.
Trong tay Châu-Trọng-Anh không có một tấc sắt nào nên trong lúc bị tấn công bất ngờ, ông ta bèn nhảy lên mặt bàn đứng hét lên:
-Đừng nên vô cớ mà động thủ! Phải hỏi cho ra lễ đã chứ!
Nhưng Chương-Tấn đã tin lời Lạc-Băng nói nên chẳng buồn nghe lời Châu-Trọng-Anh khuyên giải, cứ việc nhắm Châu-Trọng-Anh mà chém tới. Châu-Trọng-Anh khẽ nhún hai vai, tung lên một cái trông chẳng khác gì một con chim ưng, tránh được những nhát búa của Chương-Tấn một cách dễ dàng. Sau đó Châu-Trọng-Anh nghiêng mình nhảy xuống đất rất nhẹ nhàng, thân pháp trông thật đẹp mắt.
Lúc này, Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường nghe động đã chạy vào bên trong đại sảnh. Thấy Châu-Trọng-Anh tay không đứng trước một người gù cầm đôi song phủ đằng đằng sát khí, An-Kiện-Cường liền đem cây đại đao đến cho sư phụ.
Châu-Ỷ thấy cả Lạc-Băng lẫn Chương-Tấn không chịu nghe theo lẽ phải, vô cớ quấy rối Thiết-Đảm-Trang, lại dùng toàn những chiêu ác độc chực giết thân phụ mình thì tức đến ‘nổ đom đóm’, lớn tiếng gọi hai người đệ tử của cha mình:
-Mạnh đại ca! An nhị ca! Cái quân khốn nạn đê tiện, tàn bạo vô nhân đạo kia thật là khinh thường Thiết-Đảm-Trang của chúng ta thái thậm. Thân phụ em đã bao phen nhường nhịn mà chúng không biết điều chút nào cả, cứ làm già. Chúng ta hãy cùng hợp sức lại dạy cho chúng một bài học đi, đừng nhiều lời với chúng làm gì!
Nghe Châu-Ỷ nói, cả Mạnh-Kiện-Hùng lẫn An-Kiện-Cường gật đầu khen phải liền hợp sức với Châu-Ỷ, vây chặt Chương-Tấn lại mà đánh ráo riết.
Thật ra, cả Mạnh-Kiện-Hùng lẫn An-Kiện-Cường không biết Chương-Tấn là ai, mà cũng chẳng có thù oán gì với y. Nhưng lúc hai người bước vào trong đã được chứng kiến ngay cái cảnh Chương-Tấn cầm song phủ liên tiếp tấn công sư phụ liền sinh ra ác cảm với y ngay, cho rằng ‘gã gù’ này nếu không phải phường đạo tặc thì cũng là kẻ gian không có ý tốt. Giờ lại nghe Châu-Ỷ nói như vậy thì hai người không còn nghi ngờ gì nữa, quyết tâm phải cho y một trận nên thân mới hả giận.
Nước cờ bỗng đổi ngược. Từ thế công, Chương-Tấn bị đổi sang thế thủ. Ba người Thiết-Đảm-Trang liên thủ rất chặt chẽ nên Chương-Tấn phải chống đỡ luôn tay không lúc nào được rảnh rang. Vừa đỡ, Chương-Tấn vừa réo lên gọi:
-Thất ca! Mau vào đây mà bảo vệ Tứ tẩu! Ca ca mà chậm vào thì đệ sẽ lôi mười đời tổ tiên ca ca mà chửi đó!
Thì ra Võ-Gia-Cát Từ-Thiện-Hoằng nghe lời Triệu-Bán-Sơn đi theo trợ lực với Chương-Tấn. Khi đến Thiết-Đảm-Trang thì trời đã khuya. Từ-Thiện-Hoằng chủ ý muốn xử sự theo đúng luật giang hồ, định dùng lễ bái kiến trang-chủ Châu-Trọng-Anh trước nhưng chưa kịp lấy danh thiếp ra thì Chương-Tấn đã nóng nảy vào trước. Biết tính tình lỗ mãng của Chương-Tấn sợ y gây họa nên Từ-Thiện-Hoằng chỉ còn cách chạy theo. Trong thời gian ngắn ngủi như thế mà Chương-Tấn đã giao thủ với bốn người của Thiết-Đảm-Trang!
Nghe Chương-Tấn gọi, Từ-Thiện-Hoằng liền chạy vội vào bên trong đại sảnh, đến bên cạnh Lạc-Băng đứng bảo vệ. Thấy Từ-Thiện-Hoằng xuất hiện, Lạc-Băng mừng rỡ vô cùng. Nàng biết vị Thất đương-gia này túc trí đa mưu túc, nếu có mặt chàng ở đây ắt phe nàng không bị thiệt thòi.
Lạc-Băng buông lời vấn an vị đương gia thứ 7 của Hồng Hoa Hội xong liền chỉ mặt Vạn-Khánh-Nhuận và Đổng-Triệu-Hòa nói:
-Thất ca! Hai tên này đã hại Tứ ca đó, đừng buông tha cho chúng!
Đổng-Triệu-Hòa cùng Vạn-Khánh-Nhuận khi ấy đang đứng xem hai bên hơn thua với nhau. Hai người bụng mừng thầm, cho rằng đám Hồng Hoa Hội sẽ thua. Nhưng dù cho bên Thiết-Đảm-Trang có thắng đo chăng nữa cũng khó mà tránh được thiệt hại. Tới chừng đó, chúng sẽ thừa cơ bắt cả đám đem về nạp cho triều đình ắt lập được đại công. Vạn-Khánh-Nhuận thì luôn luôn để ý đến trận đấu, thỉnh thoảng rỉ tai Đổng-Triệu-Hòa bàn tán. Nhưng cặp mắt láo liên cứ nhìn Lạc-Băng thèm thuồng mãi thì còn làm sao nghe được lời bàn của đồng bọn nữa!
Đang suy nghĩ vẩn vơ, Đổng-Triệu-Hòa bỗng giật mình khi thấy Từ-Thiện-Hoằng đứng trước mặt, tay cầm thanh cương đao sắng quắc. Đổng-Triệu-Hòa miệng đang há hốc thì thanh cương đao của Từ-Thiện-Hoằng đã nhắm đầu hắn chém xuống. Vạn-Khánh-Nhuận vội vàng đưa đại đao ra đỡ cho Đổng-Triệu-Hòa, và hét lớn:
-Hai đứa ta là người của Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương, tổng tiêu đầu Trấn-Viễn tiêu-cục, có can hệ gì tới các người mà phải gây sự với chúng ta! Các người cũng biết danh tiếng của Trấn-Viễn tiêu cục rồi chứ? Đừng dại dột mà đụng đến để rước họa vào thân!
Thấy Từ-Thiện-Hoằng dáng người thanh nhã, giống văn nhân hơn là võ tướng nên Vạn-Khánh-Nhuận mới lôi uy danh Vương-Duy-Dương và Trấn-Viễn tiêu-cục ra để ‘khủng bố tinh thần’.
Lúc bấy giơ tại Trung-Quốc, ngoài triều đình Mãn-Thani âu yếm. Lạc-Băng chưa kịp ngồi dậy thì Văn-Thái-Lai đã nhẹ gót đi đến ẵm nàng dậy ôm vào lòng và đặt một tràng hôn nồng nàn lên đôi gò má ửng hồng như hai trái đào.
Lạc-Băng để mặc tình cho chồng thỏa mãn những đòi hỏi về sắc dục mà nàng bỗng cảm giác được bao nhiêu khác hiện trên vành môi của chồng. Lạc-Băng toàn thân nhẹ bổng chẳng khác như một đứa trẻ còn măng sữa trên đôi tay của Văn-Thái-Lai.
Những giây phút say sưa sau đó được tiếp nối liên miên. Rồi hình như không dằn nổi những đòi hỏi quá mãnh liệt của cõi lòng, Văn-Thái-Lai toan dùng sức lực để giải quyết sinh lý ngay trên nệm cỏ ấy mặc dù Lạc-Băng hết sức can ngăn. Thấy không cưỡng nổi lòng ham muốn càng lúc càng mãnh liệt hơn của chồng, Lạc-Băng giận lắm, vùng mình trở dậy nhìn Văn-Thái-Lai mà trách rằng:
-Em tưởng mình bị thương, bị bắt, bị khổ nhục đủ điều nên tạm thời dẹp bỏ được những thú vui ham muốn của nhục dục mà tĩnh dưỡng cho lành mạnh để rửa hận báo cừu, ngờ đâu mình không mình lại không chịu giữ gìn lo cho thân thể, vừa được thoát nạn gặp lại em đã nghĩ ngay đến chuyện đắm mê trong nguồn ân bể ái như thế này! Vậy ra thương tích trong mình đã lành hết rồi phải không? Công tác của cố Tổng-Đà-Chủ trước khi nhắm mắt ủy thác cho cũng hoàn tất cả rồi chứ?
Những lời phiền trách chính đáng của Lạc-Băng không làm cho Văn-Thái-Lai thức tỉnh. Chàng vẫn ghì chặt lấy thân thể yêu kiều mềm mại của Lạc-Băng vào ngực như cốt ý để cho nàng nghe những tiếng đập mạnh trong con tim của chàng. Chàng không trả lời những câu hỏi của Lạc-Băng mà lại nói toàn những chuyện mơ hồ nhạt nhẽo, chẳng có liên quan gì với nhau cả.
Lạc-Băng cố sức vùng vẫy nhưn Văn-Thái-Lai giữ chặt quá khiến nàng không làm sao thoát được cánh tay của chàng. Hơi nóng trong thân thể Văn-Thái-Lai truyền sang thân thể của Lạc-Băng. Nàng quyết không để mềm lòng theo sự đòi hỏi không đúng lúc của chồng nên lấy hết ý chí mạnh mẽ ra mà chống cự lại...
Đang lúc giằng co, đột nhiên Lạc-Băng giật mình tỉnh dậy. Nàng mở đôi mắt ra thật to vì còn ngỡ đây là một giấc chiêm bao, nhưng sự thật lại rõ ràng trắng trợn hiển hiện như ban ngày. Thân hình của nàng đang bị hai cánh tay đàn ông ôm chặt lấy. Nhưng người ôm nàng không phải là trượng phu Văn-Thái-Lai mà lại là... Dư-Ngư-Đồng!
Thật là một sự kiện hãi hùng chưa từng bao giờ xảy ra trong đời nàng! Một sự kiện hãi hùng mà luôn cả trong giấc mơ nàng cũng không bao giờ có thể ngờ tới! Không thể nào tha thứ được, mà cũng không thể nào kéo dài thêm tấn kịch gớm ghiếc này thêm một khoảnh khắc nào, Lạc-Băng tung mạnh một cái vụt đứng ngay dậy, nghiêm nghị như một pho tượng nữ thần. Dư-Ngư-Đồng vốn đã có chủ ý từ trước nên cố ý ôm giữ nàng thật chặt trong tay, chẳng ngờ Lạc-Băng vùng vẫy mạnh quá khiến cho chàng ngã ngửa ra sau chẳng khác nào bị địch thủ quật xuống đất.
Dư-Ngư-Đồng lồm cồm ngồi dậy. Chàng cũng thế, tưởng chừng như vừa tỉnh mộng. Chàng kêu gào như thét lên:
-Trời hõi trời! Vì quá yêu tôi trở thành một đứa bất nghĩa! Than ôi! Ma lực của ái tình! Ôi! Đau khổ biết bao nhiêu!
Lạc-Băng không ngờ Dư-Ngư-Đồng dám lừa mình, lợi dụng trong lúc đang ngủ say mà giở trò bỉ ổi nên vừa giận vừa thẹn. Nàng quát lên như tiếng gầm trong đêm vắng:
-Ngươi có im mồm hay không? Đã ngu dại muốn chết thì để ta đánh cho chết chứ đừng than van gì nữa!
Lạc-Băng tung ngay vào mặt Dư-Ngư-Đồng một quả thôi sơn nhanh như điện xẹ, mạnh như búa bổ. Dư-Ngư-Đồng vội vàng lách mình sang một bên tránh khỏi. Đang còn như ngây như dại thì Lạc-Băng lại bồi tiếp thêm một quyền vào bụng chàng. Dư-Ngư-Đồng thấy khí thế Lạc-Băng dũng mãnh như vậy thì biết nàng đang giận dữ vô cùng nên cảm thấy tội lỗi co giò bỏ chạy chứ không dám đánh lại.
Lạc-Băng sau đó rút cặp song đao bên mình ra rượt theo chém loạn xạ khiến cho Dư-Ngư-Đồng kinh hoảng, hết hồn hết vía. Thấy không thể thoát khỏi tay Lạc-Băng được, Dư-Ngư-Đồng đành quay lại rút ống sáo vàng ra chống đỡ. Biết đao pháp của Lạc-Băng rất lợi hại, nếu lơ đãng hay lỡ tay sểnh miếng là mất mạng như chơi nên Dư-Ngư-Đồng phải dùng những chiêu tuyệt kỹ trong Nhu-Vân Kiếm-Thuật ra mà đối phó. Chỉ trong vài hiệp, Dư-Ngư-Đồng đã đánh văng cặp song đao của Lạc-Băng xuống đất.
Lạc-Băng biết Dư-Ngư-Đồng bản lãnh siêu việt, nàng không thể cự nổi nên rút trong túi ra hai ngọn phi đao rồi nói lớn:
-Này, thằng khốn kiếp kia! Ráng mà giữ mình kẻo chết đấy nhé! Ta thật không ngờ người dám cả gan liều lĩnh như vậy! Thiếu chút nữa là ta đã bị ô uế rồi!
Dư-Ngư-Đồng quỳ xuống, nét mặt hết sức thểu não, nói như van xin:
-Em van lạy chị! Hãy để cho em nói một lời rồi chị có muốn giết chết em đi chăng nữa, em cũng cam tâm đứng yên cho chị hạ thủ. Có chết em cũng không ân hận...
Lạc-Băng giận dữ ngắt lời:
-Ai là chị của người? Ngươi là một tên khốn nạn! Ta thật không ngờ lòng dạ của ngươi lại chó má đến thế! Dư-Ngư-Đồng! Ngươi có nhớ điều cấm kỵ thứ nhất của nội quy Hồng Hoa Hội không? Nếu nhớ thì đọc lại cho ta nghe!
Dư-Ngư-Đồng cúi gầm mặt xuống, vừa sợ hãi vừa thẹn thùng. Chàng không dám ngẩng mặt lên nhìn Lạc-Băng, mà cũng không dám nói một lời nào.
Lâu nay đối với Dư-Ngư-Đồng, Lạc-Băng luôn thương mến như em ruột. Những cử chỉ đầy thân ái của Dư-Ngư-Đồng từ trước đến nay chiếm được cảm tình của Lạc-Băng rất nhiều. Nay thấy chàng khổ sở như vậy nàng cũng không đành xuống tay. Nhưng đứng trước một sự kiện như việc vừa xảy ra, Lạc-Băng cũng khó mà có thể tha thứ cho Dư-Ngư-Đồng được.
Lạc-Băng nói lớn như thét lên:
-Ngươi không nói à? Này Dư-Ngư-Đồng! Ta hỏi câu nào người phải trả lời ta câu ấy nghe chưa! Lão Tổ của Hồng Hoa Hội họ gì?
Dư-Ngư-Đồng riu ríu khẽ đáp lời:
-Lão Tổ Hồng Hoa Hội vốn họ Châu.
Lạc-Băng vô mưu là ngu dại. Người trí dũng song toàn phải biết thời cơ.
Có lẽ Châu-Ỷ giống cha ở chỗ ấy. Nàng rất trọng nghĩa khí, rất khảng khái, biết cân nhắc khinh, trọng. Đành rằng là Châu-Ỷ có nóng tính. Nhưng không vì thế mà nàng thiếu xét đoán, coi thường lẽ phải.
Nói dứt lời, Châu-Ỷ bước ra khỏi phòng đi thẳng một mạch, không quay đầu nhìn lại. Đứa nữ tỳ cũng trở gót đi theo.
Lạc-Băng được chứng kiến những hành động của Châu-Ỷ, lại được nghe tận tai câu chuyện giữa nàng ta cùng với con liễu hoàn. Nàng nhận xét thấy con người của Châu-Ỷ thật là quang-minh chính đại. Nhưng câu chuyện nghe được giữa hai người làm cho Lạc-Băng không khỏi bồn chồn suy nghĩ.
Căn cứ theo câu chuyện vừa nghe được thì chính Hồng Hoa Hội của nàng là thủ phạm đốt phá Thiết-Đảm-Trang. Nếu quả thật Châu-Trọng-Anh xử sự hòa nhã như thế thì ông ta quả là một người hiếm có trên đời. Chẳng nói đâu cho xa, những cử chỉ cùng lời nói của Lạc-Băng nhục mạ Châu-Trọng-Anh hôm nọ còn nặng hơn cả giết chết ông ta nữa!
Lạc-Băng cảm thấy có điều gì hết sức lạ lùng mà nàng chưa nghĩ ra được. Có lẽ nào mà Châu-Trọng-Anh lại khiếp nhược đến thế được? Dẫu sao thì ông ta cũng là ‘minh chủ võ lâm’ của cả vùng Tây-Bắc. Lý do nào lại khiến cho ông ta chịu nhẫn nhục đến như vậy?
Nếu quả thật là người của Thiết-Đảm-Trang phản bội cấu kết với triều đình mà chỉ chỗ ẩn nấp của Văn-Thái-Lai cho Trương-Siêu-Trọng thì Châu-Trọng-Anh phải chịu trách nhiệm mà nhận lấy hậu quả, cho dù có phải đích thân ông ta hành động hay chủ mưu hay không! Và đương nhiên Lạc-Băng sẽ không bao giờ hối hận về cử chỉ của nàng đối với Châu-Trọng-Anh cả. Luôn cả việc Hồng Hoa Hội của nàng đốt phá Thiết-Đảm-Trang cũng chẳng có điều gì đáng nói. Quy luật của Hồng Hoa Hộng xưa nay vẫn thế. Ân đền ân. Oán trả oán.
Tuy nhiên, điều mà Lạc-Băng sợ nhất là ngộ nhỡ không phải người của Thiết-Đảm-Trang chỉ điểm mà chính Trương-Siêu-Trọng tìm thấy được chỗ núp của Văn-Thái-Lai hôm ấy thì sao đây? Biết đâu người của Thiết-Đảm-Trang thật tình hết lòng bảo vệ nhưng vẫn phải chịu thua non một tay Trương-Siêu-Trọng? Như thế chẳng hóa ra thụ ân lớn đã không đền mà còn đi trả thù một cách tàn nhẫn! Và như thế thì uy tín Hồng Hoa Hội liệu còn có giá trị nữa hay không?
Điều lo ngại này chính Văn-Thái-Lai đã đề cập đến hôm đó lúc bị lộ tẩy. Có lẽ Văn-Thái-Lai cũng đoán được sẽ có ngày này. Phải chăng chàng đã biết trước anh em Hồng Hoa Hội sẽ không chịu điều tra kỹ lưỡng trước khi hành động?
Nhưng rồi Lạc-Băng lại không tin rằng Hồng Hoa Hội là thủ phạm việc đốt phá Thiết-Đảm-Trang. Nàng tin Thiếu-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách là người thông minh tột đỉnh, xét đoán việc như thần, quyết không thể sai lạc. Ngoài Thiếu-Đà-Chủ ra, cũng còn các đương-gia khác nữa. Họ đâu phải là những người tầm thường chỉ biết nghe mà không biết suy đoán! Huống chi Châu-Trọng-Anh là một nhân vật có danh vọng và uy tín cao như vậy. Trước khi ra tay ‘trừng phạt’ một nhân vật như thế ắt Hồng Hoa Hội phải nắm được bằng chứng xác thực hẳn hòi trong tay chứ không thể hành động hồ đồ thiếu suy nghĩ được.
Lại thêm một điều khiến cho Lạc-Băng vô cùng thắc mắc nữa là Lục-Phỉ-Thanh, một vị tiền bối có bản lãnh trác tuyệt, kinh nghiệm có thừa mà lại không hiểu rõ được con người Châu-Trọng-Anh mà lại giới thiệu cho Văn-Thái-Lai để bị lầm vào mưu gian? Nếu Lục-Phỉ-Thanh không biết rõ Châu-Trọng-Anh tất nhiên đã không giới thiệu cho Văn-Thái-Lai đến đó để nương náu làm gì, vì ông ta biết sự sống chết của Văn-Thái-Lai có quan hệ không nhỏ đến sự tồn vong của Hán-tộc. Có lẽ nào Lục-Phỉ-Thanh lại khờ khạo đến độ ‘đưa mồi vào miệng hồ lan’ (#4)? Và nếu Hồng Hoa Hội hành động thiếu suy nghĩ thì không lẽ Lục-Phỉ-Thanh không biết dùng lẽ phải để canh thiệp, can ngăn?
Lục-Phỉ-Thanh nhận lãnh trách nhiệm chịu thay thế Dư-Ngư-Đồng về gấp An-Tây báo cáo tình hình khẩn cấp để Hồng Hoa Hội tìm phương cách giải cứu Văn-Thái-Lai. Lẽ đương nhiên Lục-Phỉ-Thanh đã về đến nơi và sau đó đi chung với Hồng Hoa Hội, tức là ông ta luôn luôn ở bên cạnh Hồng Hoa Hội, và phải có mặt trong vụ này. Nếu chuyện là thế sao Lục-Phỉ-Thanh không một lời khuyên ngăn hay cản trở?
Nằm mãi trên giường nghĩ tới nghĩ lui mà Lạc-Băng vẫn không sao tìm ra được chân lý trong vụ đốt phá Thiết-Đảm-Trang. Ngoài ra bao nhiêu câu hỏi đặt ra cũng không có cách nào mà giải đáp!
Đã qua hai ngày kể từ lúc Lạc-Băng được Châu-Ỷ cứu đem về Thiết-Đảm-Trang. Nàng được tận tình săn sóc bằng thuốc men, dùng toàn thức ăn của ngon vật lạ để bổ dưỡng, lại được ngủ ngon, cũng như nghỉ ngơi đúng mức.
Hôm nay, Lạc-Băng không còn cảm thấy đau nhức chút nào nữa. Các vết thương như đã lành cả rồi. Tinh thần thì khoan khoái nhẹ nhàng, nhiệt độ trong người đã trở lại mức bình thường. Lạc-Băng nghe mình như đã được hoàn toàn bình phục.
Vì quen luyện tập võ công nên thân thể Lạc-Băng quả khác với người thường. Một khi hết bệnh là thân thể lại trở nên mạnh khỏe lại như cũ. Nàng liền ngồi dậy thu thập y phục xếp lại cẩn thận rồi khăn gói mang lên vai. Đang đói bụng, lại thấy trên bàn có sẵn một cái đĩa lớn với những chiếc bánh gói rất thơm ngon, Lạc-Băng liền bóc mấy cái dùng đỡ dạ. Ăn no xong, Lạc-Băng lấy nốt những cái bánh còn lại bỏ trong bao đem đi đường dùng làm lương thực. Sau đó, nàng lấy cặp Uyên-Ương Đao trên bàn giắt vào mình nhẹ bước ra khỏi phòng mà đi.
Cứ nghĩ đến Châu-Ỷ là Lạc-Băng lại cảm kích cái ơn hồi sinh kia, đã cứu thoát nàng trong lúc nguy nan cực kỳ khốn đốn chẳng khác nào như một cơn ác mộng.
Mối thù đối với họ Châu tại Thiết-Đảm-Trang nếu sâu như bể thì ân nghĩa kia cũng chẳng khác gì non cao. Lạc-Băng không hiểu đó là một sự ngẫu nhiên hay là do định mệnh an bài?
Người của Thiết-Đảm-Trang dù vô tình hay cố ý phản bội, nếu phải trả bằng cái giá đó tưởng cũng đủ lắm rồi. Lòng căm thù của nàng đối lại hỏi:
-Vì sao Lão Tổ lập ra Hồng Hoa Hội?
-Lão tổ lập ra Hồng Hoa Hội để cứu nạn cho dân tộc.
Lạc-Băng bèn hỏi tiếp:
-Toàn thể anh em trong Hồng Hoa Hội kính trọng Lão Tổ như thế nào?
-Kính trọng Lão Tổ như Tôn-Sư, không bao giờ được coi thường những điều luật của Lão Tổ ban ra.
-Còn anh em trong hội phải đối với nhau ra sao?
-Phải tuân theo ba điều, thứ nhất: phải tương kính lẫn nhau như Lưu, Quan, Trương kết nghĩa tại đào viên.
-Nghĩa là sao?
-Nghĩa là khôn thể đồng sanh nhưng thề đồng tử; hoạn nạn tương cứu, sinh tử bất ly.
-Còn điều thứ hai?
-Tận trung báo quốc.
-Còn điều thứ ba?
-Phải noi theo gương của 108 vị anh-hùng Lương-Sơn-Bạc.
-Nghĩa là sao?
-Phải có những hành động trung dũng cương trực, 108 người cũng chỉ như một. Dù cho tánh ý khác nhau, võ nghệ khác nhau, họ tên khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, nhưng phải giống nhau một điều là: anh-hùng khí phách.
Những lời vấn đáp giữa Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng là quy-luật của Tổ-Sư Hồng Hoa Hội đặt ra. Tất cả người của bang hội phải răm rắp tuân theo, không được làm sai một ly nào. Ai nấy đều phải học thuộc lòng như kinh nhật tụng. Mỗi lần khai hội hay trước khi bàn thảo công việc, điều trước tiên phải thắp nhang quỳ lạy trước bàn thờ Tổ-Sư rồi sau đó vị Tổng-Đà-Chủ sẽ hỏi từng câu, và tất cả những người có mặt đều đáp rập lại câu trả lời cho ăn khớp.
Theo đúng quy tắc của Hồng Hoa Hội thì lúc ‘khai đường nhập hội’ (#3), khi ‘thệ sư xuất phát’ (#4), cũng như lúc chấp hành một hình phạt một cá nhân nào của hội, nhân vật với chức vị cao hơn sẽ làm một cuộc đại lễ và đứng ra hỏi những câu này để đương sự lần lượt trả lời. Cấp trên hỏi đến đâu thì người kia phải trả lời đến đó, không được nói ngoài phạm vi câu trả lời mà cũng không được nói quá vắn tắt. Và trong khi vấn đáp, đương sự không được cử động mà phải đứng nghiêm trang hay ngồi yên tĩnh tọa.
Theo thứ tự vai vế trong Hồng Hoa Hội thì địa vị của Lạc-Băng cao hơn Dư-Ngư-Đồng. Giá mà chuyện này ở chỗ thông thường thì Lạc-Băng sẽ phải làm một cuộc lễ long trọng và chấp hành hình phạt kẻ có tội là Dư-Ngư-Đồng. Nhưng đây là trường hợp đặc biệt, sự việc xảy ra giữa đêm trường nơi hoang vu hẻo lánh chỉ có mặt hai người, một người phạm luật của hội và một người chấp hành cương kỷ của hội. Theo tiên cáo của hội thì trong những trường hợp ngoại lệ, các nghi thức được phép giản dị hóa, tuy nhiên, nghi thức vấn đáp vẫn phải giữ đúng quy củ cho thật uy nghiêm. Do đó, Dư-Ngư-Đồng bắt buộc phải nghiêm chỉnh trước mặt Lạc-Băng. Hễ nàng hỏi câu nào thì chàng phải trả lời câu nấy.
Nghe hỏi, Dư-Ngư-Đồng bỗng lạnh toát cả người vì một khi người nào được cân nhắc vào hàng đương-gia, tức thuộc về cấp lãnh đạo của Hồng Hoa Hội mà phạm trọng tội thì bao giờ hình phạt cũng là tử hình chứ không thể nào nhẹ hơn. Huống hồ tội của Dư-Ngư-Đồng là một trong mấy điều tối kỵ của hội. Đó là tội cưỡng dâm một người vai vế ở trên mình. Ai phạm tôi này chẳng những bị tử hình mà danh tánh còn bị đem ra bêu xấu để cho tất cả mọi người từ trên xuống dưới trong hội thóa mạ nữa.
Chiếu theo điều lệ của hội, Dư-Ngư-Đồng không dám cãi mệnh mà phải trả lời những câu hỏi của Lạc-Băng mặc dù chàng ta thà chịu tội tử hình còn hơn phải đứng trước mặt nàng mà trả lời những câu hỏi khiến cho lòng phải hết sức e thẹn vì xấu xa. Giá mà lúc này có cắt được cái mặt bằm nát ra thì Dư-Ngư-Đồng cũng chẳng tiếc một chút nào. Chàng bỗng cảm thấy hối hận rằng lúc Lạc-Băng nổi giận cầm đao chém sao mình lại né tránh mà không chịu trận để chết phứt đi cho rảnh nợ còn hơn!
Lạc-Băng chấp hành kỷ luật của hội uy nghiêm như một thẩm phán quan chứ không phải nhu mì mềm mỏng như thường ngày nữa. Nàng quắc mắt hỏi Dư-Ngư-Đồng:
-Có bốn hạng người nào mà Hồng Hoa Hội cần phải cứu? Hãy mau kể ra!
Dư-Ngư-Đồng gục mặt trả lời:
-Thứ nhất: cứu những người trượng phu quân tử; thứ nhì: cứu người liêm chính trung cang; thứ ba: cứu những người hy sinh cho dân tộc; thứ tư: cứu những kẻ đeo đuổi mục đích phản Thanh phục Minh như hội của ta.
Lạc-Băng mặt lạnh như tiền, gằn giọng hỏi tiếp:
-Còn những hạng người đáng giết, hãy kể thử cho nghe?
Dư-Ngư-Đồng run rẩy hết tứ chi, dường như thấy tử thần đang chờ trước mắt để bắt một hồn ma tội lỗi giải về hỏa ngục dưới âm-ty. Chàng đau khổ trả lời:
-Thứ nhất: phải giết bọn ‘chim mồi chó săn’ cam tâm làm tay sai cho giặc Mãn, hãm hại đồng bào Hán-tộc. Thứ hai: phải giết bọn tham quan ô lại Mãn-Thanh đục khoét bóc lột lương dân tận xuơng tủy. Thứ ba: phải giết bọn ác bá thổ hào, ỷ quyền cậy thế, trông vào tài lực (#5) sát hại cưỡng bức, cướp đoạt sinh mạng, trinh tiết và tài sản của đồng bào đang quằn quại sống dưới xiềng xích, nanh vuốt của quân giặc xâm lăng tàn bạo. Thứ tư: phải giết những người vi phú bất nhân, gây dựng sự nghiệp trên xương máu, mồ hôi nước mắt của người nghèo khổ...
Lạc-Băng bỗng trợn đôi mắt lên hỏi Dư-Ngư-Đồng:
-Hồng Hoa Hội chỉ giết có bốn hạng người kể trên sao? Không còn hạng người nào đáng giết nữa à?
Dư-Ngư-Đồng mặt mũi xanh rờn, run rẩy, chết đứng cả người trước câu hỏi đanh thép và thái độ sắt đá của Lạc-Băng.
Thấy Dư-Ngư-Đồng gục mặt, im lặng như kẻ có xác không hồn, Lạc-Băng không chút động lòng mà trái lại còn cực kỳ căm phẫn. Như một ‘thiết diện vô tư’ đối với một phạm nhân khiếp nhược, Lạc-Băng nhướng đôi mày tầm hét to lên tiếp tục hỏi:
-Hồng Hoa Hội có bốn giới điều quan trọng hơn cả gọi là ‘tứ đại giới điều’. Hãy đọc lại cho rõ ràng ta nghe!
Dư-Ngư-Đồng khẽ đáp bằng một giọng run run, cố lướt qua cho thật lẹ:
-Kẻ đầu hàng Mãn-Thanh, tội đáng giết. Kẻ khinh thường cấp trên, tội đáng giết...
Nói tới đây, Dư-Ngư-Đồng bỗng nghẹn lời, cảm thấy như miệng chàng vừa tự đọc lên bản án cho chính mình. Chàng còn đang ngập ngừng chưa đọc hết được cả bốn điều thì Lạc-Băng hét lên giữa khoảng không làm rung chuyển cả cây cỏ chung quanh:
-Dư-Ngư-Đồng! Mi dám khinh ta là kẻ đang chấp hành hình phạt của Hồng Hoa Hội?
Dư-Ngư-Đồng riu ríu đáp:
-Kẻ phạm tội theo điều luật của hội thật không dám vô lễ với cấp bộ hội đảng chấp hành hình phạt.
Lạc-Băng nói:
-Phải đáp lại từng câu chậm rãi, thật rõ ràng của ‘tứ đại giới điều’ của Châu tổ-sư mà ta vừa hỏi mi.
Dư-Ngư-Đồng không dám cãi lời, vừa sợ vừa hổ thẹn mà đáp:
-Kẻ quy thuận triều đình Mãn-Thanh đáng tội chết; kẻ ‘khi tôn diệt trưởng’ (#6) đáng tội chết...
Thấy Dư-Ngư-Đồng ấp úng, Lạc-Băng bèn hối thúc:
-Đã xong đâu! Còng hai tội đáng chết nữa, mau kể luôn ra!
Dư-Ngư-Đồng miễn cưỡng đáp:
-Kẻ ‘mãi hữu cầu vinh’ (#7) tội đáng chết...
Dư-Ngư-Đồng trả lời đến đây lại ngập ngừng. Lạc-Băng trợn mắt lên, quyết hỏi đến cùng:
-Còn một trọng tội đáng chết thứ tư nữa, mi quên rồi à? Nếu mi quên thật thì cây bảo đao của ta sẽ nhắc cho mi nhớ!
Mũi đao của Lạc-Băng nhá lên trước mắt Dư-Ngư-Đồng. Chàng biết không còn van xin hay năn nỉ gì được nữa nên thầm nghĩ đáp phứt qua cho xong chuyện, sau đó mặc cho Lạc-Băng muốn chém giết, mổ xẻ ra sao tùy ý. Dư-Ngư-Đồng thu hết can đảm nói:
-Kẻ tham tài... háo sắc... tội đáng giết...
Lạc-Băng nghe xong liền quắc mắt lên nhìn Dư-Ngư-Đồng. Như một thẩm phán quan, nàng vừa kể tội, cũng như vừa ‘tuyên án’ tội phạm:
-Mi đã phạm vào tội thứ nhì và tội thứ tư. Hai tội này cũng quá đủ để kết án tử hình mi rồi, có chết cũng không oan! Mi đường đường là một đương-gia trong thành phần lãnh đạo của Hồng Hoa Hội mà một lúc phạm đến hai điều trong ‘tứ giới’ điều của Tổ-Sư thì đem đầu mi mà xử bá đao (#8) vẫn còn là nhẹ! Mi thật đã làm gương xấu cho cấp dưới cùng bao nhiêu những thành viên khác. Mi làm ô nhục đến uy danh của Hồng Hoa Hội, một tổ chức cách mạng phản Thanh phục Minh được nhân dân khắp nơi kính phục và giới võ lâm đồng đạo nể vì. Mi còn làm mất thanh danh của Tổ-Sư vì luật của người đặt ra từ trước đến nay chưa ai dám phạm tới. Mi không xứng đáng là hội viên của Hồng Hoa Hội, và cũng không xứng đáng là người của Hán-tộc. Mi thật là một đứa phản bội! Tư cách của mi không khác gì bọn ‘chim mồi chó săn’ hại dân hại nước. Ta thiết nghĩ, lưỡi đao của ta có chặt phứt cái đầu của mi đi mà khỏi cần phải hỏi câu nào cũng là đáng lắm rồi. Chỉ vì ta muốn cho mi trước khi chết được trông thấy rõ cái tội của mình kẻo khi chết còn cho là oan ức để không nhắm mắt được.
Dư-Ngư-Đồng không ngờ Lạc-Băng bình nhật thương chàng như em ruột, thế mà lúc này lại nghiêm khắc xem chàng là hạng người ghê tởm còn hơn là kẻ thù thì cảm thấy chua xót vô cùng. Trong giây phút, Dư-Ngư-Đồng cảm thấy đời mình chẳng còn chút gì hứng thú nữa. Chàng chỉ mong được chết dưới lưỡi đao của Lạc-Băng càng sớm càng tốt.
Từ lúc gia đình bị tan nát vì đại họa, Dư-Ngư-Đồng trưởng thành trong niềm bơ vơ cô độc cho đến khi gia nhập Hồng Hoa Hội. Tại đây, chàng được Lạc-Băng hết lòng thương yêu và quý mến, xem như em ruột. Dư-Ngư-Đồng rất cảm kích, thấy tâm hồn mình như được sưởi ấm lại. Chàng tìm được nơi Lạc-Băng một hình ảnh người chị đáng kính, và một người bạn đáng quý mến. Chàng xem Lạc-Băng là nguồn sống duy nhất của mình. Dần dà theo ngày tháng, hình ảnh Lạc-Băng càng lúc càng in sâu vào trong tâm trí Dư-Ngư-Đồng. Lòng chàng bỗng tự nhiên thay đổi hẳn. Chàng nhận thấy tình thương kia có vẻ chưa đủ, vẫn thiếu xót một cái gì. Phải một cái gì kín đáo và sâu sắc, vượt xa hơn tình thương và tình bằng hữu...
Vào một ngày đẹp trời, Dư-Ngư-Đồng chợt phát giác ra một điều mà xưa nay chàng không bao giờ dám nghĩ tới. Chàng đã thầm yêu Lạc-Băng. Mối tình câm lặng một chiều của một kẻ yêu vụng yêu trộm và yêu trong tội lỗi đã làm cho Dư-Ngư-Đồng nhiều phen phải điên đảo. Chồng Lạc-Băng là Văn-Thái-Lai, ở vào địa vị trên Dư-Ngư-Đồng, là anh em của chàng trong Hồng Hoa Hội, là một người rất nghĩa khí, cũng thương chàng hết sức không kém gì Lạc-Băng.
Dư-Ngư-Đồng từ trước vốn không có tà ý nào cả. Đã bao lần chàng phải dùng lý trí kềm kẹp con tim, không dám để tình yêu kia tiếp tục nảy nở. Nhưng con người vẫn chỉ là con người. Khi gặp cơ hội tốt thì dường như mất hết cả lý trí, cho dù thời gian ấy rất ngắn ngủi.
Chuyện gì lỡ cũng đã lỡ. Giờ có hối hận cũng không kịp nữa. Dư-Ngư-Đồng chỉ còn trách thầm cho định mệnh xui khiến cho ra nông nỗi này mà thôi. Chàng biết bản thân mình bình sinh không phải đốn mạt như vậy. Hành động vừa qua cũng chỉ vì do lòng yêu thương chất ngất lâu ngày không còn chỗ chứa thêm được ở trong lòng nên mới bất đắc dĩ phải trào ra. Nhưng Dư-Ngư-Đồng biết rõ mình đã lầm lỗi. Và chàng sẵn sàng chấp nhận tất cả những hậu quả không tốt xảy ra cho mình, cho dù cảm thấy xót xa...
Thấy Dư-Ngư-Đồng trầm tư mặc tưởng, Lạc-Băng không hiểu có đoán được tâm trạng của chàng hay không, chỉ thấy nàng nhìn chằm chặp và nói thẳng vào mặt Dư-Ngư-Đồng rằng:
-Tội trạng của mi rành rẽ quá! Ta có thể giết mi trước rồi báo cáo lại với Thiếu-Đà-Chủ cùng các sư huynh-đệ sau cũng được! Chẳng qua vì công lao của mi đối với Hồng Hoa Hội cũng nhiều, lại gặp lúc đang cần người tài để chung sức ầu giây mối nhợ mọi chuyện đều do tên Đổng-Triệu-Hòa này mà ra cả. Giả sử như không có hắn nhúng tay thì chắc chắn Trương-Siêu-Trọng chưa chắc đã tìm đưọc đường đến Thiết-Đảm-Trang nữa chứ đừng nói gì đến chuyện gì khác.
Lạc-Băng còn nhớ trước đây vì say mê sắc đẹp của nàng nên định giở thói sàm sỡ, bị Văn-Thái-lai điểm huyệt một lần suýt nữa mất mạng. Thế nhưng hắn vẫn không chịu chừa mà còn cố tâm đeo đuổi nàng mãi.
Vừa trông thấy mặt kẻ thù, Lạc-Băng lại nghĩ đến bao nhiêu nỗi khổ sở của Văn-Thái-Lai mà lửa giận bốc lên phừng phừng, không sao ngăn được.
Quên cả nguy hiểm, mà cũng chẳng nghĩ nghĩ đến điều lợi hại sống hay chết nữa, Lạc-Băng như con hổ rình được mồi ngon liền rón rén đi lại cửa trước tung mạnh một cái bước vào. Chẳng thèm nói một lời, Lạc-Băng rút ngọn phi đao, nhắm thẳng mặt Đổng-Triệu-Hòa mà phóng tới.
Đang ngồi chợt nghe hơi gió, Châu-Trọng-Anh chợt thấy một mũi phi đao nhắm vào Đổng-Triệu-Hòa bay thẳng tới. Nhanh như chớp, ông ta dùng cây Thiết-đảm phóng tới, gạt mũi phi đao của Lạc-Băng xuống đất.
Mặc dù kịp ra tay gạt được mũi phi đao, cây Thiết-đảm của Châu-Trọng-Anh cũng chỉ đánh gãy được cán đao, còn lưỡi của phi đao vẫn vuột thẳng tới cắm lút vào bả vai bên trái của Đổng-Triệu-Hòa chẳng khác như đóng đinh vào cột.
Nguyên-Châu-Trọng-Anh sau khi giết con là Châu-Anh-Kiệt, vợ ông ta vì quá đau xót mà đâm ra phẫn chí, khóc than ngày đêm mãi không nguôi. Rồi một hôm, bà ta giắt vào người một ít nén vàng làm lộ phí rồi âm thầm cất bước ra đi, không hề nói nửa lời với ai cả. Thế là Thiết-Đảm-Trang lại vắng thêm một người, đi không hẹn ngày về, đi như tìm về cõi chết.
Châu phu nhân khi ấy chưa đầy 40 tuổi vốn là con gái của một vị quyền sư khét tiếng, võ công của bà ta cũng thuộc vào hạng cao thủ. Từ khi xuất giá tòng phu thì gia đình suy xụp, cả cha lẫn mẹ đều lần lượt qua đời nên chẳng mấy khi bà ta có ý về thăm lại nơi làng xưa quê cũ. Nay vì quá đau lòng vì cái chết của đứa con trai, bà ta như điên dại bỏ ra đi, và chẳng một ai biết rõ được là bà đi đâu.
Con chết, vợ bỏ đi, Châu-Trọng-Anh đã khổ tâm lại còn chuốc thêm đau buồn! Gan sắt của người anh hùng cũng đến độ tan nát rã rời! Ông nằm liệt trong phòng suốt mấy ngày đêm bỏ ăn bỏ ngủ, than vắn thở dài, chẳng tìm được cách gì cho khuây khỏa được...
Đêm hôm ấy vào giờ Tuất, Châu-Trọng-Anh nằm vắt tay lên trán mà ngẫm nghĩ về cái lẽ hưng vong bĩ cực ở đời thì bỗng một gã tráng đinh vào báo tin rằng có hai người khách lạ yêu cầu được gặp mặt.
Châu-Trọng-Anh bèn gọi Mạnh-Kiện-Hùng vào dặn chàng thay mặt ông ta mà tiếp khách, còn mình thì thoái thác là đang bệnh nên chẳng thể nào làm trọn lễ tân chủ được.
Mạnh-Kiện-Hùng vâng lời ra tiếp khách thì nhận ra một trong hai người là Đổng-Triệu-Hòa, một tên đầu não trong việc gieo họa cho Thiết-Đảm-Trang. Thấy mặt Đổng-Triệu-Hòa, Mạnh-Kiện-Hùng vừa giận, vừa sợ, lại vừa nghi ngờ, không biết hắn có dụng ý gì khi đến Thiết-Đảm-Trang lần này. Đổng-Triệu-Hòa chẳng khác nào một con quỷ dữ, đi đến đâu là gieo họa cho người ta đến đó.
Thấy mặt Mạnh-Kiện-Hùng, Đổng-Triệu-Hòa liền giới thiệu ngay người bạn đồng hành của hắn:
-Xin giới thiệu cùng Mạnh huynh, đây là võ lâm cao thủ, tài nghệ quán chúng tại Bắc-phương, hiện đang làm Tổng-Giáo-Tập tại phủ Trịnh-Vương, đại danh là Vạn-Khánh-Nhuận.
Mạnh-Kiệt-Hùng bất đắc dĩ phải miễn cưỡng mà hỏi thăm cho hợp lễ kính khách. Nhưng sau đó, cả Đổng-Triệu-Hòa lẫn Vạn-Khánh-Nhuận đều tỏ ý muốn được tiếp xúc trực tiếp với trang-chủ Châu-Trọng-Anh.
Mạnh-Kiện-Hùng cố lựa lời từ chối khéo cho qua chuyện:
-Mấy hôm nay trang chủ chúng tôi trong người không được khỏe nên chẳng thể ngồi lâu mà tiếp khách được, xin thành thật cáo lỗi với hai vị. Nếu hai vị có điều gì cần gấp xin cứ dạy bảo, tại hạ sẽ báo lại cùng trang chủ sau.
Đổng-Triệu-Hòa cười lên ha hả rồi lạnh lùng nói:
-Lần này chúng tôi đến Thiết-Đảm-Trang là có ý tốt, thích tiếp hay không là tùy Châu trang-chủ chứ thật tình chúng tôi chẳng dám ép. Nhưng có điều tôi mong Mạnh huynh thưa lại với trang-chủ là cái họa tan cửa nát nhà, chết người sắp sửa xảy ra rồi đó. Nếu Châu trang-chủ không sớm liệu e không còn kịp nữa.
Sau khi Văn-Thái-Lai bị bắt giải đi, Mạnh-Kiện-Hùng cảm thấy hết sức áy náy, hận sức mình không sao giải cứu được. Chàng vừa cảm khái, vừa thương tiếc con người nghĩa khí mà chàng xem là một anh hùng đáng noi gương. Chàng ngày đêm vẫn thường lo lắng cho tánh mạng của vị Tứ đương gia Hồng Hoa Hội kia. Nhưng đồng thời, Mạnh-Kiện-Hùng còn một mối lo lớn hơn nữa là chàng sợ Thiết-Đảm-Trang cũng bị liên lụy vào. Không phải chàng lo cho bản thân mình, mà lo ngại cho sự an nguy của toàn thể mọi người sơn-trang từ trang-chủ cho đến người tráng-đinh chức vị thấp kém nhất. Lúc nào trong lòng Mạnh-Kiện-Hùng cũng có linh cảm rằng đại họa không sớm thì muộn sẽ xảy đến bất tử cho Thiết-Đảm-Trang, nên chỉ cần một câu nói hơi chút lạ thường cũng đủ cho chàng lo sợ phập phồng rồi. Hôm nay tình cờ Đổng-Triệu-Hòa đến, Mạnh-Kiện-Hùng đã có vẻ nghi ngờ. Khi nghe xong giọng nói khó chịu của tên tiêu-sư gian ác ấy, chàng khẽ than thở trong lòng, cho là việc gì phải đến đã đến.
Không do dự mà cũng chẳng dám tự chuyên, Mạnh-Kiện-Hùng vào trong thư phòng báo cáo mọi tình hình cho Châu-Trọng-Anh rõ, để mặc cho Đổng-Triệu-Hòa cùng Vạn-Khánh-Nhuận ngồi đó mà chẳng thèm nói một câu nào.
Nghe Mạnh-Kiện-Hùng thuật lại rõ từ cử chỉ hách dịch đến giọng nói phách lối của Đổng-Triệu-Hòa, Châu-Trọng-Anh không dằn được, lửa giận bốc lên tận trời. Ông ta ngồi phắt dậy, với tay lấy cây Thiết-đảm bước ra khỏi phòng miệng nói như gầm thét:
-Quân khốn nạn! Chúng còn dám vác mặt đến đây hăm dọa ta nữa à? Hay chúng tưởng là diệt được Thiết-Đảm-Trang dễ dàng lắm? Ta phải hỏi cho ra lẽ rồi cho ba cái quân súc sinh ấy một bài học!
Bước chân vào phòng khách, Châu-Trọng-Anh chẳng cần đếm xỉa tới Đổng-Triệu-Hòa mà chỉ chào hỏi Vạn-Khánh-Nhuận sơ qua cho có lệ.
Vạn-Khánh-Nhuận đứng dậy rút trong túi ra một tờ giấy, trải ra ngay ngắn giữa mặt bàn, dùng hai tay giữ chặt hai đầu rồi nói với Châu-Trọng-Anh:
-Xin mời Châu lão anh-hùng thử đọc xem!
Châu-Trọng-Anh xích lại gần, nhìn vào tờ giấy mà đọc chứ chẳng buồn lấy tay đụng tới. Thì ra đó là bức thư của Lục-Phỉ-Thanh viết cho Châu-Trọng-Anh, ngụ ý gửi gắm Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng. Mặc dù có đến Thiết-Đảm-Trang và được Mạnh-Kiện-Hùng dấu vào địa huyệt, Văn-Thái-Lai vẫn giữ bức thư trong người chứ không chịu đưa cho ai vì không gặp được Châu-Trọng-Anh để trao tận tay. Chắc hẳn là lúc bị bắt, Văn-Thái-Lai bị Trương-Siêu-Trọng và đồng bọn lục soát khắp người và bắt gặp phong thư này.
Sự thật là thế. Bọn Đoàn-Đại-Lâm sau khi bắt được lá thư đều kinh ngạc đến ngây người, nhận ra ngay chủ nhân viết bức thư này là một trong những khâm-phạm bị triều-đình truy nã gắt gao nhất cả hơn 10 năm trường nay. Không biết bao nhiêu người nhận chiếu chỉ của vua Càn-Long đã khổ công đi tìm từ chân trời này cho tới góc biển nọ mà vẫn không tìm được tung tích của Lục-Phỉ-Thanh ở đâu. Đa số tưởng rằng ông ta đã chết rồi. Nhưng tình cờ không kiếm mà ra, bức thư trên mình Văn-Thái-Lai là bằng chứng hẳn hoi cho thấy Lục-Phỉ-Thanh vẫn còn sống và hoạt động mạnh mẽ, liên kết cả với Hồng Hoa Hội lẫn Thiết-Đảm-Trang nữa. Do đó, đám quan triều đình bàn với nhau chỉ cần chất vấn, gây áp lực với Châu-Trọng-Anh là Lục-Phỉ-Thanh không còn chạy trốn đi đàng nào được nữa.
Bọn Đoàn-Đại-Lâm họp nhau lại bàn tính. Chúng nhận thấy rằng công lao tìm được Lục-Phỉ-Thanh đem so với công Trương-Siêu-Trọng bắt được Văn-Thái-Lai cũng không hơn kém là bao nhiêu.
Đoàn-Đại-Lâm bàn với cả bọn rằng:
-Bắt được Lục-Phỉ-Thanh mà nạp cho vua Càn-Long dĩ nhiên là công lao lớn lắm. Tuy nhiên muốn bắt được con người này thì không phải là chuyện dễ, cho dù Châu-Trọng-Anh có chỉ chỗ đi chăng nữa! Thiết-Đảm-Trang là nơi chuyên chứa chấp khâm-phạm triều-đình, và Châu-Trọng-Anh đã có liên-quan đến việc này từ lâu rồi. Nhưng mãi cho đến nay mới có được bằng chứng cụ thể trên giấy trắng mực đen như thế này để kết tội y. Mà muốn bắt được Châu-Trọng-Anh cũng không phải là đơn giản. Đến Thiết-Đảm-Trang của y nào khác chi đem thân vào hổ huyệt, không khéo lại bị cọp vồ thì bỏ mạng chứ chẳng phải đùa. Kế vạn toàn nhất là đem bức thư của Lục-Phỉ-Thanh đến hăm dọa Châu-Trọng-Anh, buộc y phải xuất ra một số kim-ngân thật lớn để mà chuộc lấy bức thư này. Nhưng chúng ta cũng nên dấu kín chuyện này, đừng để cho Trương-Siêu-Trọng biết rõ vì dù sao Lục-Phỉ-Thanh và Trương-Siêu-Trọng cũng vẫn là huynh-đệ đồng môn. Cả hai người đều lợi hại, không phải dễ đối phó. Ta không nên dại dột mà gây ra oán cừu trong việc này.
Bọn Đoàn-Đại-Lân suy nghĩ đắn đo một hồi thì bỏ ngay ý định bắt Lục-Phỉ-Thanh với Châu-Trọng-Anh. Tất cả đồng ý với nhau là cách đem bức thư này đến tống tiền trang chủ Thiết-Đảm-Trang là thượng sách, vừa có lợi mà không phải chuốc thêm oán thù.
Nhưng đường đường là những bậc quan triều-đình, có chức sắc và địa vị cao lại mà đi làm những chuyện hạ tiện như thế này thì thật không còn mặt mũi nào nhìn ai lỡ chẳng may chuyện đổ bể ra! Vì vậy, sau khi bàn tính kỹ càng, ai nấy đều nhận xét rằng chỉ nên giao việc này cho Đổng-Triệu-Hòa và Vạn-Khánh-Nhuận lo liệu, là hai tay ‘chai mặt’, không dính dáng gì đến quan quyền.
Sau khi đọc xong bức thư, Châu-Trọng-Anh hơi giật mình nhưng cố làm ra vẻ điềm tĩnh, lạnh lùng hỏi:
-Ông đem bức thư này đến đây cho ta đọc chẳng hay có chủ ý gì xin cho tại hạ được biết rõ.
Vạn-Khánh-Nhuận đáp:
-Chúng tôi lâu nay được nghe đại danh của Châu lão anh-hùng như sấm nổ bên tai, trong lòng ngưỡng mộ vô cùng. Những mong được dịp bái kiến chỉ hiềm không có cơ hội nên bất đắc dĩ mới phải chờ tới hôm nay. Nhưng trớ trêu thay, đến lúc đạt được bình sinh khát vọng thì lại gặp lúc Thiết-Đảm-Trang sắp sửa gặp đại họa thê thảm. Nếu chẳng may phong thư này lọt vào tay các quan lớn triều đình thì Châu lão anh-hùng làm sao tránh khỏi không bị liên lụy? Vì vậy khi tìm thấy phong thư này trong mình Văn-Thái-Lai, anh em chúng tôi là những người trọng nghĩa, có cảm tình với Thiết-Đảm-Trang nên nghĩ ngay đến chuyện giấu diếm mà không hề hé môi với quan lớn triều đình một lời nào, vì đây là một phong thư hết sức tai hại, có thể đêm đến họa diệt tộc như chơi! Xem xong, và đại khái biết được nội dung của bức thư, tất cả anh em đặc phái hai người chúng tôi đến đây để diện kiến trang chủ, thứ nhất để báo tin cho Thiết-Đảm-Trang sớm biết trước mà đề phòng, và kế đến là để mong được thỏa lòng ao ước bấy lâu nay để được kết giao với Châu lão anh-hùng trong tình bằng hữu. Nếu Châu lão anh-hùng không chê chúng tôi là những kẻ bỉ tiện mà bằng lòng hạ mình kết giao thì anh em chúng tôi nguyện đốt ngay phong thư này đi mà quyết chẳng lưu lại một chữ nào làm vết tích. Không những thế, chúng tôi còn hứa sẽ ém nhẹm luôn việc Châu lão anh-hùng chứa chấp bọn Văn-Thái-Lai trong Thiết-Đảm-Trang. Còn như chuyện chứa chấp Văn-Thái-Lai mà lòi ra thì e chuyện Lục-Phỉ-Thanh cũng khó mà giấu kín được. Dĩ nhiên Trương-Siêu-Trọng cũng chẳng muốn nhìn thấy điều này lộ ra vì dù sao Lục-Phỉ-Thanh cũng là anh em đồng môn của ông ta. Do đó, nếu chúng tôi giữ im lặng thì đương nhiên Trương-Siêu-Trọng sẽ không bao giờ truy xét đến việc này nữa.
Nghe Vạn-Khánh-Nhuận nói xong, Châu-Trọng-Anh cười nhạt, mỉa mai nói:
-Được kết giao bằng-hữu với quý vị, Châu-Trọng-Anh tôi lấy làm vinh hạnh lắm chứ! Nhưng kết bạn như thế nào xin hai vị giải bày tường tận để tôi còn định liệu.
Dĩ nhiên, mục đích chính của Vạn-Khánh-Nhuận và Đổng-Triệu-Hòa đến Thiết-Đảm-Trang nào phải để kết tình bằng hữu với Châu-Trọng-Anh. Mà chúng cũng thừa biết, với tư cách của chúng, Châu-Trọng-Anh chưa cho mỗi mạng một trận là may lắm rồi, chứ làm sao mà có được chuyện ‘sinh tử chi giao’! Nghe câu hỏi mỉa mai đầy ẩn ý của Châu-Trọng-Anh, Vạn-Khánh-Nhuận biết chỉ còn cách đánh liều mà nói thẳng ý định ra để kết thúc câu chuyện cho thật sớm mà thôi chứ không nên day dưa thêm nữa. Nghĩ vậy y cố phải làm mặt dạn nói:
-Anh em chúng tôi vâng lệnh hoàng-thượng đi tróc nã khâm-phạm. Từ lúc rời khỏi Bắc-Kinh cho tới nay đã lâu ngày nên tiền lương đã cạn sạch, hết trơn rồi. Ai nấy đều phải nhịn rượu mà vẫn không đủ để chi tiêu, thậm chí không còn được chút lộ phí để trở về kinh-đô nữa! Trộm nghĩ Châu lão anh-hùng là người hào hiệp chắc không nỡ làm ngơ với võ lâm đồng đạo trước tình cảnh như thế này nên anh em bèn phái hai đứa chúng tôi đến đây mượn đỡ Châu lão anh-hùng một ít ngân lượng. Sau này chúng tôi sẽ hoàn lại đầy đủ, mà nghĩa cử của lão anh-hùng chúng tôi nguyện sẽ ghi nhớ mãi chứ chẳng dám quên.
Châu-Trọng-Anh nghe nói liền nhíu mày, đôi mắt trợn lên nhưng vẫn không một tiếng trả lời. Vạn-Khánh-Nhuận thấy vậy nói tiếp:
-Số ngân lượng anh em chúng tôi muốn mượn đỡ Châu lão anh-hùng cũng chẳng lớn lao gì cho lắm, bất quá cũng chỉ vào khoảng năm, sáu vạn lượng mà thôi. So với cái sản nghiệp lớn lao của Châu lão anh hùng thì bấy nhiêu đó tưởng có thấm tháp vào đâu? Mà dĩ nhiên một khi Châu lão anh-hùng nghĩ đến anh em chúng tôi thì anh em chúng tôi có bổn phận phải báo đáp lại cho xứng đáng mới yên lòng.
Nghe cái giọng tống tiền của Vạn-Khánh-Nhuận, lửa giận của Châu-Trọng-Anh như bốc lên phừng phừng. Ông ta dằn rõ từng tiếng vào mặt hắn:
-Sơn trang của tôi làm gì mà có sẵn được một món tiền quá lớn như vậy cho các người mượn! Mà cho dù có đi chăng nữa thì cũng chỉ để dành cho những người nghĩa khí hay để giúp đỡ những bậc anh-hùng quân tử lúc sa cơ lỡ vận hoặc khi ‘lỡ bước cùng đường’ chứ lẽ nào lại để cho đám sai nha, ‘tẩu cẩu’ mượn được!
Thấy Châu-Trọng-Anh chẳng những không chịu ‘bỏ tiền chuộc bức thư’ mà còn mắng xiên mắng xéo, Đổng-Triệu-Hòa cười gay gắt nói:
-Tôi biết Châu lão anh-hùng khinh anh em chúng tôi là đám tiểu nhân, không xứng đáng để kết giao. Một lời nói của bọn tiểu nhân chúng tôi chưa chắc đã hữu hiệu cho việc gây dựng sự nghiệp hay làm lợi cho ai, nhưng trong việc phá hoại làm tan đại nghiệp thì lại không đến nỗi vô dụng. Châu lão anh-hùng tiếc năm, sáu vạn lượng hơn một công trình nguy nga đồ sộ, vĩ đại thế này thật uổn lắm đó!...
Đổng-Triệu-Hòa chưa nói dứt câu thì cửa chính của sảnh đường vụt mở ra, một thiếu nữ bước vào nhìn hắn chằm chặp, miệng hét lớn:
-Có cô nương đến đây! Đứa nào tài thì cứ giỏi thử làm gì Thiết-Đảm-Trang cho biết!
Thiếu nữ ấy chẳng phải ai khác hơn là Châu-Ỷ, con gái lớn của Châu-Trọng-Anh. Chỉ thấy Trang-chủ Thiết-Đảm-Trang khẽ liếc mắt một cái, Châu-Ỷ đã chạy thẳng một nước ra ngoài. Tiếng Châu-Trọng-Anh nói với theo rằng:
-Này con! Nhớ dặn mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường trong này có hai tên tẩu cẩu, nhớ canh gác giữ gìn cho cẩn thận đừng để cho chúng tẩu thoát ra nghe chưa!
Châu-Ỷ nghe nói vui mừng hớn hở thưa:
-Gia gia khỏi lo! Có chúng con giữ ở bên ngoài thì đố ‘hai con chó săn’ đó trốn đi đâu được!
Dặn xong con gái, Châu-Trọng-Anh quay lại nhìn Vạn-Khánh-nhuận và Đổng-Triệu-Hòa với gương mặt đầy sát khí, tưởng chừng như muốn ăn tươi nuốt sống cả hai. Cả Vạn-Khánh-Nhuận với Đổng-Triệu-Hòa thấy vậy cũng hơi chột dạ, nhưng cũng phải cố gắng ra vẻ bình tĩnh. Vạn-Khánh-Nhuận nói:
-Châu lão anh-hùng đ‘ã không chịu giúp đõ thì anh em chúng tôi xin cáo lui!
Dứt lời y cầm lá thư xé ra từng mảnh vụn. Châu-Trọng-Anh đang thắc mắc không hiểu tại sao y lại hủy đi cái thư, là phương tiện để cho chúng làm tiền. Vạn-Khánh-Nhuận như đọc được ý nghĩ của Châu-Trọng-Anh, bèn phân giải:
-Phong thư này chẳng qua chỉ là bản sao mà thôi, còn nguyên bản (#5) thì Trương-Siêu-Trọng đại nhân vẫn cất giữ ở trong mình vì biết đem đến đây sẽ gặp nhiều bất tiện.
Vạn-Khánh-Nhuận hành động như vậy ngụ ý bảo cho Châu-Trọng-Anh biết bằng cớ vẫn nằm trong tay Trương-Siêu-Trọng; cho dẫu cho ông ta có giết chết hắn và Đổng-Triệu-Hòa cũng không sao đoạt lại được bức thư kia.
Đang lúc không khí căng thẳng chưa biết sự tình đi đến đâu thì cánh cửa mở toang ra và phi đao của Lạc-Băng nhắm Đổng-Triệu-Hòa phóng tới. Mặc dầu ghét Đổng-Triệu-Hòa thậm tệ, cho dù có bằm thây hắn ra cũng chưa hả giận, Châu-Trọng-Anh không muốn thấy hắn bị chết trong sơn trang của mình. Vì thế, không chút đắn đo mà cũng chẳng cần phải biết người phóng phi đao là ai, ông ta vội dùng cây Thiết-Đảm gạt phi đao kia xuống đất cứu Đổng-Triệu-Hòa thoát chết, nhưng không cứu được cho hắn khỏi mang thương tích...
Thấy Châu-Trọng-Anh bỗng nhiên thi triển bản lãnh mà cứu mạnh kẻ thù của mình, Lạc-Băng giận dữ vô cùng, quát lớn lên:
-Lão tặc khốn kiếp kia! Mi đã xúi người nhà hại chồng ta rồi bây giờ còn ngăn cản ta trả thù tên gian ác này nữa! Ta thề phải giết mi!
Lạc-Băng nhảy bổ lại, tuốt Uyên-Ương Đao xông tới chém nhầu vào Châu-Trọng-Anh. Cây Thiết-đảm khi nãy dùng để phóng cản phi đao cứu mạng cho Đổng-Triệu-Hòa nên vẫn còn nằm dưới đất chịp thâu hồi. Không có binh khí trong tay, Châu-Trọng-Anh liền chụp vội chiếc ghế đẩu dùng để đương cự cặp đao của Lạc-Băng. Ông ta vừa đỡ vừa nói:
-Việc đâu rồi còn đó. Xin cô nương hãy dừng tay lại, nói cho rõ đầu đuôi rồi muốn sao cũng được, cớ sao lại gặp đâu đánh đó mà không chịu phân biệt phải trái là nghĩa làm sao?
Lạc-Băng đang đau khổ vì chồng bị bắt, lại tìm ra Đổng-Triệu-Hòa là tên đầu xỏ thủ phạm mọi chuyện nên muốn giết hắn chết ngay cho hả giận. Chẳng may bị Châu-Trọng-Anh phóng cây Thiết-đảm cứu kẻ thù thoát chết thành ra bao nhiêu cơn giận nàng bỗng trút hết vào Châu-Trọng-Anh. Vì vậy, Lạc-Băng không cần suy nghĩ mà phân biệt phải trái, quyết tâm thi triển hết tuyệt kỹ của Lạc-Gia Đao Pháp mà tấn công Châu-Trọng-Anh tới tấp không ngừng.
Châu-Trọng-Anh cũng hiểu rõ và biết được tâm trạng của Lạc-Băng nên không vì thế mà giận để kết thêm thù oán hay để phải đi đến tình trạng quyết đấu ‘một mất một còn’. Ông ta có ý nhường nhịn nên từ đầu đến cuối chỉ đỡ đòn mà không hề đánh trả lại chiêu nào.
Vì thủ mãi không công nên chẳng mấy chốc, Châu-Trọng-Anh đã bị Lạc-Băng dồn vào sát vách tường. Hết đường lui, Châu-Trọng-Anh phải nhanh nhẹn chống đỡ luôn tay trước những đường đao vô cùng hiểm ác của Lạc-Băng. Thế nhưng ông ta vẫn không hề phản công lại, chỉ cố mà tiếp tục đỡ đòn.
Không biết có hiểu được sự nhường nhịn của trang-chủ Thiết-Đảm-Trang hay không, Lạc-Băng càng lúc càng tấn công kịch liệt như quyết tâm phải hạ Châu-Trọng-Anh cho bằng được mới thôi.
Thình lình Lạc-Băng nghe hơi gió như có tiếng binh khí đang tập kích mình ở đàng sau nên vội nằm phục xuống đất để tránh né. Chỉ thấy một mũi đao sau đó ghim vào tường như lưỡi phi đao của nàng lúc nãy ghim vào bả vai Đổng-Triệu-Hòa. Lạc-Băng nằm dưới đất chém quặt đao ra phí sau một vòng, buộc người nào đó đánh lén nàng phải lui lại một bước. Nhân cơ hội đó, Lạc-Băng búng mình đứng thẳng dậy thủ thế thì nhìn thấy rõ được người tập kích mình chẳng phải ai xa lạ mà chính là Châu-Ỷ, con gái của Châu-Trọng-Anh, và cũng là ân nhân cứu sống tánh mạng của nàng.
Châu-Ỷ trợn mắt nhìn Lạc-Băng với vẻ căm hờn mắng:
-Đồ cái thứ vô ân bội nghĩa háo sát! Ta đã cứu sống tánh mạng của mi đem về, nếu thật lòng muốn giết mi thì liệu giờ này mi còn đứng đây được để tác oai tác quái chăng? Đã không biết ơn thì chớ, còn giở thói đạo tặc đòi giết cả cha ta nữa! Phải chăng đó là lối trả ơn của Hồng Hoa Hội các người?
Giá là bất cứ người nào khác dám nhục mạ đến Hồng Hoa Hội như thế ắt Lạc-Băng không bao giờ để yên. Nhưng vì người đó là Châu-Ỷ, ân nhân của nàng nên Lạc-Băng cũng phải bớt lại đôi ba phần nộ khí, mặc dầu tức giận vô cùng. Nàng nhìn Châu-Ỷ lớn tiếng nói:
-Bọn Thiết-Đảm-Trang các ngươi toàn là thứ giả nhân giả nghĩa chứ có phải là anh hùng hảo hán chi đâu mà bảo rằng ta phải mang ơn với chịu nghĩa! Cha mi đã xúi người trong Thiết-Đảm-Trang này hại chồng ta, thù ấy ta không bao giờ bỏ qua đâu. Còn mi thì vị tình một lần cứu mạng, ta không muốn gây sự mà cũng chẳng muốn giết. Nếu biết điều thì mau đi đi!
Dứt lời, Lạc-Băng bất thình lình quay lại phía Châu-Trọng-Anh chém sả xuống một đao. Châu-Trọng-Anh lại đưa cái ghế đẩu lên đỡ. Lạc-Băng lại dùng ‘Liên Hoàn Đao’ chém liên tiếp ba nhát vô cùng lợi hại. Châu-Trọng-Anh né bên tả, tránh bên hữu, miệng gọi mãi không ngớt:
-Hãy dừng tay lại! Hãy dừng tay lại đã!
Thấy cha một mực nhẫn nhịn không đánh trả trong khi Lạc-Băng cứ làm tới đánh mãi, Châu-Ỷ cả giận cầm đao nhảy tới đứng trước mặt Châu-Trọng-Anh rồi xông tới tấn công Lạc-Băng như mưa, dùng toàn những chiêu liều mạng mà đánh.
Kể ra thì võ nghệ của Lạc-Băng còn cao hơn Châu-Ỷ một bậc, và kinh nghiệm giao đấu dĩ nhiên hơn xa cô con gái của Châu-Trọng-Anh. Nhưng vì các vết thương chưa lành hẳn, gót chân vẫn còn đau nên chiêu thức và nội lực của nàng vì thế mà bị giới hạn. Đã thế còn phải trải qua nhiều cơn bi thương sầu thảm nên trong người luôn bị phiền não, lo lắng vạn điều. Đó là một trong những ‘đại kỵ’ của con nhà võ. Thêm vào đó, Châu-Ỷ đang ở vào thời kỳ thể lực phát triển mạnh, lại mang ý định che chở bảo vệ cứu thân phụ nên chiến đấu bạt mạng không chút sợ hãi, mà cũng chẳng kể gì đến mạng sống của mình nữa. Càng đánh, Châu-Ỷ càng hăng, trong khi Lạc-Băng càng bị lép vế. Dần dần, Châu-Ỷ đã nắm được thế chủ động trong trận đấu.
Châu-Trọng-Anh đứng ngoài thầm kêu khổ vì hai người đã đi đến một trận sinh tử, mà kết quả sẽ hết sức thảm khốc. Ông chẳng muốn người nào phải gục xuống cả. Một đàng sẽ đem lại đau thương, còn một đàng đem lại phiền não, oán thù thêm chồng chất. Miệng ông ta không ngớt kêu lên như van hai người:
-Mau dừng tay lại! Đừng đánh nhau nữa!
Đang hồi hăng máu, cả Lạc-Băng lẫn Châu-Ỷ như chẳng còn để ý đến tiếng gọi của Châu-Trọng-Anh nữa mà vẫn tiếp tục tranh phong.
Mặc dù thấy Châu-Ỷ chiếm được thế thượng phong, Châu-Trọng-Anh không vì thế mà mừng, trái lại ông cảm thấy lo ngại cho Lạc-Băng. Chỉ vì ông ta không muốn cùng Hồng Hoa Hội đào sâu thêm hố sâu chia rẽ nên đời ông không muốn Châu-Ỷ làm thương tổn đến tánh mạnh của Lạc-Băng.
Châu-Trọng-Anh càng gân cổ kêu gọi ngừng tay thì hai người lại càng đánh nhau khốc liệt bấy nhiêu. Trong lúc ông ta chưa biết phải dùng biện pháp nào để ngăn ngừa thì thừa lúc lộn xộn ấy, Vạn-Khánh-Nhuận đã đỡ Đổng-Triệu-Hòa dậy được, rút phi đao ra, xé vạt áo băng đỡ lại cho. Máu ở vai Đổng-Triệu-Hòa tuôn ra như suối. Biết dù muốn thoát thân cũng không được vì Châu-Trọng-Anh đã ra lệnh cho Mạnh-Kiện-Hùng cùng An-Kiện-Cường bọc kín hết các ngõ chung quanh nên Vạn-Khánh-Nhuận đành đứng mà xem cuộc ác đấu giữa hai ‘nữ hiệp’ với nhau, chờ cơ hội tốt.
Lạc-Băng không chịu nghe lời Châu-Trọng-Anh đã đành, nhưng thấy cả con gái cũng không xem lời ông ta vào đâu mà cứ tiếp tục đánh như ngây như dại thì bỗng nổi giận lên, biết mình không thể nào đứng ngoài vòng mà gọi mãi được.
Nghĩ vậy, Châu-Trọng-Anh liền cầm cái ghế đẩu nhảy tới phang một cái thật vào giữa hai đường đao, tách cả Lạc-Băng lẫn Châu-Ỷ ra hai nơi. Cùng lúc ấy, một bóng đen từ vườn sau xông vào như mũi tên bắn thật lẹ. Nhìn ra thì đó là một người lùn và mập, hai tay cầm song phủ (#6), vận toàn lực nhắm đầu Châu-Ỷ bổ xuống.
Châu-Ỷ lanh mắt, biết không thể dùng đơn đao mà chống trả được liền lách mình sang một bên để tránh hai nhát búa giết người ấy. Tránh được hai nhát búa, Châu-Ỷ liền dùng thế ‘Thần Long Đẩu Giáp’ chém vào phía sau vai của người đó.
Người ấy chẳng thèm né tránh, tay trái xoay cán búa ra đỡ. Đao và búa chạm nhau tóe lửa, tạo thành một thứ âm thanh ghê rợn khiến người nghe phải đến đinh tai nhức óc. Châu-Ỷ bị kình lực quá mạnh loạng choạng ra sau mấy bước, cánh tay tê chồn lại, đánh rơi thanh đao đao xuống đất lúc nào không hay. Nàng hốt hoảng, nhưng với bản năng sinh tồn mạnh mẽ nên khẽ tháo lui ra sau hai bước và định tâm đứng vững lại như thường.
Dưới ánh sáng chưng của đèn đuốc trong nhà, Châu-Ỷ trông rõ người ấy hình dung rất cổ quái, lại bị tật, mang một cái bướu đàng sau lưng.
Người gù ấy không tấn công Châu-Ỷ nữa mà lại xoay mặt nhìn về phía Lạc-Băng ra vẻ quan tâm. Lạc-Băng chợt reo lên vì vui mừng:
-Ủa, Thập ca đấy à?
Chỉ nói được có bấy nhiêu tiếng, Lạc-Băng quá xúc động, nghẹn ngào, lệ tuôn đầm đề...
Chú-thích:
(1-) Một sơn trang như Thiết-Đảm-Trang không phải chỉ là một căn nhà lớn mà còn bao gồm nhiều dãy khác ở bốn phía chung quanh, thậm chí có cả sông hồ, suối lạch là đàng khác. Diện tích một sơn trang như thế có khi bằng cả một thôn xóm là chuyện thường. Vì vậy, muốn thiêu hủy toàn bộ một “sơn trang” có lẽ huy động tới một đoàn quân khá đông người chuyên về hỏa công.
(2-) Bao biện: lãnh tất cả mà làm; hay nói một cách khác là “thầu”.
(3-) Vị quốc vong gia: vì nước quên nhà (gia đình).
(4-) Một câu khác, nghĩa tương tự là “đem trứng giao cho ác”.
(5-) Nguyên bản: bản chính.
(6-) Song phủ: hai cái búa (rìu).

Truyện Thư Kiếm Ân Cừu Lục Thay Lời Phi Lộ Hồi 1 Hồi 2 Hồi 3 Hồi 4 Hồi 5a Hồi 5b Hồi 5c Hồi 5d Hồi 5e Hồi 6a Hồi 6b m nuôi đáng thương hại.
Trên đường đi, gió mát hai bên thoảng vào người. Lạc-Băng cảm thấy hết sức thoải mái trong lòng.
Về phía Dư-Ngư-Đồng, sau khi được Lạc-Băng tha thứ cho nên cũng bớt đi được bao nỗi buồn đau tủi nhục.
Ngựa của Lạc-Băng phi đàng trước, Dư-Ngư-Đồng ghìm ngựa theo sát phía sau. Tuy rằng lời ngay lẽ phải của Lạc-Băng đã làm cho Dư-Ngư-Đồng hối lỗi; tấm lòng vị tha của Lạc-Băng đã làm cho chàng cảm động, nhưng hình ảnh kiều diễm của nàng trên yên con tuấn mã vẫn làm cho trái tim của Dư-Ngư-Đồng cảm thấy nôn nao!
Tình yêu của Dư-Ngư-Đồng đối với Lạc-Băng đã chất chứa bao nhiêu lâu dĩ nhiên không dễ gì trong một phút giây có thể dứt liền đi được. Chàng cũng hiểu yêu như thế là trái lý, là vô nghi nhưng nào phải vì chàng có tà tâm! Nó là định mệnh khắt khe do oan trái từ kiếp nào cột chặt khiến chàng không bứt rời ra được!...
Hai con ngựa ra khỏi cánh đồng hoang vu cô tịch được chừng vài dặm, Lạc-Băng nhìn lên không gian thanh bạch thấy rõ được chuôi sao Bắc-Đẩu rạng rỡ nơi phương trời...
Vừng đông đã lố dạng. Điều này giúp cho hai người định được phương hướng mà về An-Tây, nơi đám anh-hùng hào kiệt của Hồng Hoa Hội thường tập họp để bàn tính đại sự quốc gia.
Lạc-Băng lưỡng lự không biết phải làm sao. Nàng nghĩ nên về lại An-Tây để chờ xem tin tức. Nếu Thiếu-Đà-Chủ đã huy động toàn lực Hồng Hoa Hội đi cứu Văn-Thái-Lai rồi thì cũng không biết phải chạy theo ngã nào để đón họ mà nhập bọn. Nàng chỉ hy vọng là khi về An-Tây thì Văn-Thái-Lai đã được giải thoát cho vợ chồng được xum họp để thỏa lòng mong ước. Còn nếu chưa giải thoát được, nàng quyết sẽ đi tìm đến cùng, nếu hợp sức được với anh em Hồng Hoa Hội thì tốt, nhưng rủi nếu phải một mình đi tìm nàng cũng chẳng từ nan, cho dù là phải đến chốn nào.
Điều Lạc-Băng lo nhất là Văn-Thái-Lai bị Trương-Siêu-Trọng giải về Bắc-Kinh mà nạp cho vua Càn-Long trước khi Hồng Hoa Hội theo được dấu. Trường hợp nếu xảy ra như vậy thì nàng không mong gì còn được tái hội cùng Văn-Thái-Lai...
Trong khi đó, Dư-Ngư-Đồng cố xua đuổi những tư tưởng mông lung về tình yêu đang ám ảnh chàng. Nhưng lạ thay, chàng càng muốn xua đuổi bao nhiêu thì tình yêu lại càng mê hoặc tâm trí chàng bấy nhiêu.
Dư-Ngư-Đồng tự bảo thầm:
-“Tại sao ta không quên được mối tình tuyệt vọng của ta với Lạc-Băng? Tại sao hình ảnh Lạc-Băng cứ hiện ra mãi trong trí ta? Ta không phải ngu si ám chướng, cũng không phải mê muội vô lương, thế tại sao ta vẫn không bỏ được những ý nghĩ tà dâm để gần với chánh đạo? Phải chăng hóa công muốn thử thách ý chí của ta? Có lẽ con người phải gặp nghịch cảnh thì mới gan lì thêm được, cũng giống như muốn biết rõ là vàng thật hay không thì phải thử bằng lửa. Ta đường đường là một đấng nam tử đầu đội trời, chân đạp đất, nhất định phải chế ngự được dục vọng ngoại thân, và phải thắng được những tư tưởng bất chánh bên trong nội tâm! Ta yêu Lạc-Băng nghĩa là ta phải quý trọng thanh danh của ta! Lý tưởng của ta lúc này là làm cách nào cứu dân tộc ra khỏi ách ngoại xâm. Hiện nay ta còn chưa làm tròn nhiệm vụ Hồng Hoa Hội giao phó. Bổn phận trước mắt hiện giờ là làm cách nào giúp Lạc-Băng cứu được Văn-Thái-Lai.”
Nghĩ vậy, trong lòng của Dư-Ngư-Đồng bỗng phấn chấn lên, không còn điều gì nghi ngại nữa...
Đứng trước ngã rẽ, lòng Lạc-Băng chợt đau như cắt. Một đường đi về Bắc-Kinh, còn đường kia đi về An-Tây. Nhìn đường xa hai phía thăm thẳm, Lạc-Băng lại nhớ đến Văn-Thái-Lai, không biết chàng hiện tại sống chết ra sao. Con đường trước mắt chia làm hai ngã cũng như sợi dây tình ái của nàng bị cắt đứt làm hai vậy. Nếu biết rõ ràng chắc chắn chồng đang ở đâu, nàng lập tức tìm đường tới ngay. Nếu cứu không được chàng thì chẳng thà chết chung với chàng. Tử biệt vẫn hơn sanh ly. Nếu không được cùng nhau chung sống trên cõi trần gian thì đành cùng đi với nhau về ‘chín suối’!
Lạc-Băng rong ngựa sang ngã đường đi Bắc-Kinh đứng tần ngần suy nghĩ. Từ lúc Văn-Thái-Lai bị bắt cho đến giờ đã quá một đêm. Một đêm phi ngựa thì chậm lắm cũng phải được mấy trăm dặm rồi. Nếu cố sức mà rượt cũng không sao kịp được, sao cho bằng về An-Tây mà suy tính kế khác.
Đắn đo một hồi, Lạc-Băng nhìn đường đi Bắc-Kinh thêm một lần cuối rồi quay đầu ngựa trở lại qua hướng đi về An-Tây. Mắt ‘ngó Đông’ mà ngựa lại ‘đi Tây’, Lạc-Băng buồn dàu dàu như cành hoa ủ dột, mà chẳng nói một lời nào với Dư-Ngư-Đồng đang đứng yên chờ quyết định của nàng.
Lạc-Băng ra roi giục ngựa. Dư-Ngư-Đồng cũng phi ngựa chạy theo sau. Nhưng đi được một lúc, Lạc-Băng bỗng không còn nghe được tiếng ngựa của Dư-Ngư-Đồng ở đàng sau nữa bèn thắng ngựa lại, nhìn ra phía sau thì không thấy bóng dáng của Dư-Ngư-Đồng đâu nữa. Lạc-Băng lấy làm lạ tự hỏi:
-“Quái lạ! Mới đây mà Dư-Ngư-Đồng đã biến đi đâu vậy không biết? Có lẽ tại hắn bị rớt lại phía sau cũng nên! Hay là ngựa của hắn gặp bị vấn đề gì chăng mà cả người lẫn ngựa đều không thấy bóng hình?”
Lạc-Băng dừng hẳn ngựa lại. Nàng chủ ý chờ cho Dư-Ngư-Đồng bắt kịp. Nhưng chờ một lúc khá lâu mà chàng ta vẫn tăm hơi, chẳng thấy đâu.
-“Chắc Dư-Ngư-Đồng cảm thấy xấu hổ với ta một khi về Đại-Hương-Đường gặp mặt anh em trong hội. Hay là hắn sợ ta đem tội lỗi của hắn mách với Văn tứ ca nên sợ hãi mà lánh trước? Nhưng không có lý nào! Ta đã hứa giữ kín việc này, lẽ nào lại làm hắn bẽ mặt trước đám đông? Với Văn tứ ca thì ta lại càng không nên hở môi vì biết rõ một khi nộ khí chàng dâng lên thì quyết chẳng dung tha cho kẻ can danh phạm nghĩa được! Lúc đó thì chuyện còn gì là vui sướng? Ta muốn Dư-Ngư-Đồng thành người tốt, có cơ hội sửa đổi lại thói hư tật xấu nên mới dung tha cho hắn một phen. Vậy mà thừa lúc ta đang đau khổ lo nghĩ mà bỏ ta, trốn lánh thì chẳng hóa ra hắn dại dội lắm hay sao?”
Nhung rồi Lạc-Băng lại nghĩ:
-“Có lẽ không phải ng biết đó là âm mưu của Vạn-Khánh-Nhuận.
Châu-Trọng-Anh đã suy nghĩ rất kỹ. Nếu cứ để Vạn-Khánh-Nhuận tiếp tục ra ra tay phá hoại thì trận chiến với Hồng Hoa Hội sẽ còn kéo dài mãi mà không biết bao giờ mới kết thúc được.
Lần đến Thiết-Đảm-Trang này, Vạn-Khánh-Nhuận và Đổng-Triệu-Hòa định hạch sách Châu-Trọng-Anh một số tiền lớn. Nhưng Châu-Trọng-Anh ghét hai người đến tận xương tủy nên ông một mực không chịu, như thách thức chúng cứ việc báo cáo với chính quyền địa phương là ông ‘tạo phản’.
Châu-Trọng-Anh không thần phục triều đình nhưng không bao giờ phản kháng ra mặt. Suốt mấy chục năm nay, ông đã tạo dựng được một sự nghiệp đồ sộ, nếu để mất đương nhiên là không thể không đau! Ngoài ra, ông cũng chẳng khác gì là ‘vua một cõi’, ngoài danh tiếng anh-hùng hào kiệt. Ngày nay, họa phút chốc đến mình do hai tên Vạn-Khánh-Nhuận và Đổng-Triệư-Hòa kia mang đến, bảo sao ông không hận cho được!
Nhưng có điều nào đau đớn hơn, có ai hiểu được cho ông là dù chưa bao giờ kết giao với Hồng Hoa Hội, ông đã khảng khái xử phạt, giết chết đứa con trai duy nhất chỉ vì nó tiết lộ bí mật của địa huyệt để cho Văn-Thái-Lai bị bắt. Đáng lý ra Hồng Hoa Hội ít nhất phải tìm hiểu lý do trước đã thay vì hễ động một tí là chỉ biết có thù hằn chửi rủa, nhục mạ người khác, đâm chém, đánh giết với đốt phá! Châu-Trọng-Anh vô cùng bất mãn, tức giận và uất ức không biết bao nhiêu mà kể, thế nhưng ông vẫn nhẫn nhịn, dùng thái độ hòa nhã quân tử mà đối lại với những hành động phi lý, cạn nghĩ và hung hăng ngang tàng của đám người Hồng Hoa Hội. Thế nhưng ông càng nhịn nhục, đám người Hồng Hoa Hội kia lại càng ‘làm già’!
Sau khi đắn đo mọi chuyện, Châu-Trọng-Anh quyết định phải hạ sát tên Vạn-Khánh-Nhuận này trước thì mới mong giải quyết được mọi chuyện; mới mong Hồng Hoa Hội chịu lắng tai mà nghe nói một đôi lời...
Nhìn thấy lưỡi đao Châu-Trọng-Anh chém tới, Vạn-Khánh-Nhuận hết hồn hết vía, nhảy ra sau mà né tránh. Lúc đó Dương-Thanh-Hiệp cũng đã đuổi đến nơi. Vạn-Khánh-Nhuận liền nhảy một cái đứng trên mặt bàn nhìn Châu-Trọng-Anh la lớn:
-Bọn ta hết lòng hết sức giúp mi mới bắt được Văn-Thái-Lai! Thế mà giờ đây mi lại đòi giết ta để một mình nuốt trọn số tiền thưởng một vạn lượng bạc của triều đình trọng thưởng chắc?
Vạn-Khánh-Nhuận lòng dạ hết sức là nham hiểm và độc địa. Hắn nghĩ rằng bịa chuyện ra nói như vậy là vĩnh viễn kết chặt mối thù giữa Hồng Hoa Hội và Thiết-Đảm-Trang mà không bao giờ giải được.
Quả nhiên, mấy người Hồng Hoa Hội sau khi nghe Vạn-Khánh-Nhuận nói thì không ai còn nghi ngờ gì nữa, tin chắc rằng Châu-Trọng-Anh định giết hắn để một mình độc hưởng số tiền thưởng của triều đình. Ai nấy đều giận đến xanh mặt, chỉ muốn bằm thây Châu-Trọng-Anh ra mới hả lòng tức tối.
Chương-Tấn hét lớn lên một tiếng, cầm song phủ xông tới đánh nhầu. Cực chẳng đã, Châu-Trọng-Anh lại phải tiếp tục đón đỡ giao tranh, nhưng trong lòng thầm kêu khổ liên miên.
Từ-Thiện-Hoằng là người thông minh nhất trong đám. Sau mấy lần giao tay với Châu-Trọng-Anh, chàng biết ông không lúc nào chịu đánh tận lực hay có ý sát hại anh em Hồng Hoa Hội cả. Nhận thấy có điều gì gian trá trong lời nói của Vạn-Khánh-Nhuận, Từ-Thiện-Hoằng bèn lớn tiếng gọi Chương-Tấn:
-Khoan đã thập đệ! Mau dừng tay lại!
Chương-Tấn vốn là người nóng tính, lại không có chút kiến thức nào cho nên dù nghe rõ Từ-Thiện-Hoằng lên tiếng gọi, y cũng không chịu dừng tay mà cứ lăn xả lại mà đánh.
Người cầm thiết tương cũng nhảy vào hợp lực. Đó là Tưởng-Tứ-Căn, đứng thứ 13 trong Hồng Hoa Hội. Đàng sau, Dương-Thanh-Hiệp cũng vác cây roi đồng vào trợ chiến với hai người kia, cùng tấn công Châu-Trọng-Anh một lượt.
Châu-Trọng-Anh dùng đại đao đánh gạt song phủ của Chương-Tấn cùng thiết tương của Tưởng-Tứ-Căn qua một bên rồi đảo ngược thanh đao lại đỡ roi đồng của Dương-Thanh-Hiệp. Thế là một trận ác chiến nữa lại xảy ra, với ba người Hồng Hoa Hội đánh một mình Châu-Trọng-Anh.
Tuy một chọi ba, nhưng Châu-Trọng-Anh chẳng khác nào một con hổ giữa ba con sói nên ông ta chẳng chút lép vế, trái lại còn đánh cho ba người kia mệt bở hơi tai, không phút nào nghỉ được. Vốn ba người này, Dương-Thanh-Hiệp, Chương-Tấn và Tưởng-Tứ-Căn nổi tiếng là ba ‘đại lực-sĩ’ của Hồng Hoa Hội, có sức mạnh như thần. Nhưng giờ đây trước mặt vị trang chủ Thiết-Đảm-Trang, cả ba chẳng khác nào như ba đứa con nít đòi hành hung một người lớn!
Châu-Trọng-Anh quát lên một tiếng, nhắm ChươngTấn chém một nhát. Chương-Tấn cả kinh dùng cả hai búa mà đón đỡ. Vừa chạm trúng đao của Châu-Trọng-Anh, Chương-Tấn đã thấy bủn rủn cả chân tay. Y không dằn được phải nhảy ra sau vài bước để định thần trở lại. Đẩy lui được Chương-Tấn, Châu-Trọng-Anh thừa thắng xông lên chém xả một đao ngang người Tưởng-Tứ-Căn. Thấy nhát chém quá mạnh, Tưởng-Tứ-Căn không dám khinh thường liền vận toàn lực vào thiết tương mà đỡ. Cũng như Chương-Tấn, vừa chạm đến đao của Châu-Trọng-Anh, Tưởng-Tứ-Căn cảm thấy đôi tay như muốn gãy lìa ra, loạng choạng lùi ra sau mấy bước. Nhưng lần này, Châu-Trọng-Anh sơ ý để đại đao tuột khỏi tay văng lên trời ghim vào thân cây đòn dông dính chặt vào đấy.
Thấy sư phụ bị mất vũ khí, Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường giật mình. Hai người không còn nghĩ gì đến nguy hiểm nữa liền xông vào trợ thủ. Nhưng chưa nhảy được vào vòng chiến, cả hai người đã bị Vệ-Xuân-Hoa dùng song câu cản lại.
Dủ để văng mất đại đao, Châu-Trọng-Anh vẫn bình tĩnh như không, tinh thần chẳng chút bấn loạn. Như một con hải long vượt qua ba đợt sóng lớn, Châu-Trọng-Anh khẽ tung mình lên không, và chỉ trong nháy mắt đã đến sát bên người Dương-Thanh-Hiệp. Nhanh như chớp, tay trái Châu-Trọng-Anh giật phắt lấy cây roi đồng trong tay Dương-Thanh-Hiệp đồng thời tay phải tung ra một quyền vào ngay hông chàng ta.
Hết đường chống đỡ hay né tránh, Dương-Thanh-Hiệp lãnh tr Hồi 19b Hồi 20 Hồi 21a Hồi 21b Hồi 22 Hồi 23 Hồi 24 Hồi 25 Hồi 26 Hồi 27 Hồi 28 Hồi 29 Hồi 30 Hồi 30b Hồi 31a Hồi 31b Hồi 32 Hồi 33
Truyện Cùng Tác Giả Anh Hùng Xạ Điêu Bạch mã khiếu tây phong Bích Huyết Kiếm Cô Gái Đồ Long Hiệp ý nghĩ buồn thảm bỗng xâm chiếm trọn vẹn tâm hồn người thiếu phụ yêu kiều.
Hồi nào còn có Dư-Ngư-Đồng là bạn đồng hành, giờ đây chỉ còn một mình một ngựa, Lạc-Băng bỗng đảo mắt hướng về phương Bắc một lúc cơ hồ vọng tưởng đến Văn-Thái-Lai, rồi sau đó lại rong cương mà nhắm hướng Tây tiếp tục cuộc hành trình phi dặm trường. Đến một rừng dương liễu, Lạc-Băng ngắm những cành tha thướt phủ dài xuống như ủ rũ. Nàng bất giác cảm khái mà khẽ ngâm lên:
Mạch thương dương, mạch thương dương,
Thiếp ý quên tâm thùy đoạn trường?
Dương liễu xanh, dương liễu xanh,
Hỏi rằng ý thiếp, lòng anh, ai buồn?
Ngâm chán lại nghĩ. Nghĩ chán lại buồn. Lạc-Băng tựa như một cái xác không hồn ngồi trên lưng ngựa. Đường về An-Tây còn xa diệu vợi. Trải qua nhiều sương tuyết mưa gió, đi thêm một ngày nữa vì thì bệnh tình của Lạc-Băng trở nên trầm trọng hơn. Những vết thương trên người lại bắt đầu hành. Đã thế Lạc-Băng còn hay suy nghĩ vẩn vơ nên sức khỏe càng lúc càng yếu kém. Lẽ ra một khi trong người còn yếu phải nên nghỉ ngơi nhiều mới có thể lại sức được. Thế nhưng Lạc-Băng nào có được nghỉ ngơi cho đúng mức! Thương tích của nàng bắt nguồn từ An-Viễn khách-sạn, đến nay dồn dập lại mà không có đủ thuốc men để chữa trị.
Thấy không kham nổi, Lạc-Băng bèn cột ngựa dưới gốc cây dương liễu rồi nằm xuống dưới đất nghỉ dưỡng sức, đợi khỏe lại chút đỉnh sẽ tiếp tục lên đường ngay. Nghỉ được một lúc, mặc dù chưa khỏe lại chút nào, nhưng vì không muốn trì hoãn thêm cuộc hành trình nữa, Lạc-Băng quyết định phải gượng đau mà đi tiếp. Ngờ đâu, khi vừa chống tay ngồi dậy thì đầu nàng quay cuồng, đau nhức vô cùng, chẳng khác bị ai cầm búa bổ vào đầu mình. Lạc-Băng xay xẩm hết cả mặt mày, ngã nằm liệt trên đống lá khô dưới đất.
Ánh nắng rọi xuống ngay đỉnh đầu Lạc-Băng. Nàng định xê dịch thân hình qua một bên vào bóng cây cho đỡ nắng nhưng có cố gắng cách mấy cũng vẫn không di chuyển được tấm thân một ly nào! Lạc-Băng không còn cách nào hơn là nằm yên một chỗ cho đến khi mặt trời sắp sửa lặn.
Vừa khát nước lại vừa đói bụng, người lại mệt lả không còn chút khí lực nào, Lạc-Băng đành than thầm:
-“Sức yếu thế này thì làm sao mà có thể ngồi trên yên ngựa mà nắm cương được! Chắc thân xác đành phải gửi lại nơi đây thôi! Kiếp này còn mong gì gặp lại được Văn tứ ca! Đành hẹn kiếp lai sinh thôi!”
Trước mắt Lạc-Băng như có một cánh hoa rơi xuống. Mắt nàng cũng hoa lên. Nàng như mê man mà thiếp đi như đi sâu vào cõi mộng...
Chú thích:
(1-) Ba người Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng lúc này cũng chưa được biết chuyện Trần-Gia-Cách đã nhậm chức trở thành Tổng-Đà-Chủ.
(2-) Hồi dương: “hồi” là trở lại, “dương” là dương gian; trở lại dương gian có nghĩa là mạnh khỏe lại, giống như từ cõi chết trở về cõi sống.
(3-) Khi vào đảng
(4-) Khi tuyên thệ
(5-) Tài lực: tiền và sức mạnh.
(6-) Khi tôn diệt trưởng: coi thường người trên.
(7-) Mãi hữu cầu vinh: bán bạn vì danh lợi.
(8-) Bá đao: một trăm đao, ý nói tội đáng chém 100 lần.
(9-) Tiền trảm hậu tấu: giết trước báo sau.
(10-) Người chấp pháp nếu thấy tội của phạm nhân có thể giảm khinh được thì sẽ xin Tổng-Đà-Chủ ân xá. Phạm nhân không có quyền tự xin cho mình.
(11-) Có thể tạm gọi người này là “đao-phủ” của Hồng Hoa Hội.
(12-) Hội tịch: thời gian phục vụ [thâm niên].
(13-) Bây giờ chúng ta mới được biết rõ rằng Thiếu-Đà-Chủ là Phó-Đà-Chủ.
(14-) Thiết diện vô tư: mặt lạnh như sắt, không bao giờ vì chuyện tư; ý nói người lạnh lùng, không bao giờ để tình cảm chi phối công việc.
(15-) Đồng chí: người cùng chung chí hướng với mình. Ở Trung-Hoa từ xưa đến nay, các thành viên của một bang hội nào, nhất là đảng phái chính trị hay cách mạng, vẫn thường gọi nhau như thế. Ngay cả tại nhiều trường học bên Trung-Quốc hiện nay, các học sinh vẫn thường dùng hai chữ “đồng chí” để mà gọi nhau. Tại Việt-Nam, danh từ “đồng chí” lần đầu tiên được xử dụng trong “Việt-Nam Quốc Dân Đảng” do đảng trưởng Nguyễn-Thái-Học sáng lập ra.
--!!tach_noi_dung!!--

Đả Tự Cao Thủ: Dương Hồng Kỳ
Nguồn: mây 4 phương
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 3 tháng 8 năm 2004

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- ---~~~mucluc~~~---
--!!tach_noi_dung!!--

Đả Tự Cao Thủ: Dương Hồng Kỳ
Nguồn: mây 4 phương
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 3 tháng 8 năm 2004

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- ---~~~mucluc~~~---