Hồi 10
Phận rủi còn đeo người nghĩa khí
Trời già vẫn tựa kẻ gian hùng

Trương-Siêu-Trọng xuống ngựa, tuốt bảo kiếm ra tiến tới. Bỗng nhiên đàng sau lưng có tiếng người nói lớn:
-Trương đại nhân cứ để nó cho tôi!
Thì ra đó là Châu-Tổ-Âm. Trương-Siêu-Trọng lui về một bước nói:
-Châu huynh phải cẩn thận, chớ nên khinh địch.
Châu-Tổ-Âm cầm đao bước tới hét lớn:
-Tên cuồng nô lớn mật kia! Mi dám cả gan cướp khâm khạm hả? Hãy xem bản lãnh của ta đây!
Dứt lời Châu-Tổ-Âm xông tới phía Trần-Gia-Cách bổ xuống một đao ngay đầu. Trần-Gia-Cách bình tĩnh đưa tấm thuẫn bài lên đỡ. Ngọn đao của Châu-Tổ-Âm như bị dính chặt vào tấm thuẫn bài kia. Hắn cố thâu đao về nhưng không làm sao rút binh khí của mình ra được. Châu-Tổ-Âm kinh hãi, hắn chưa bao giờ được nhìn thấy một món binh khí nào lạ lùng như vậy. Lúc đó hắn mới nhìn thấy trên tấm thuẫn bài có chín ngọn đáo câu vô cùng lợi hại.
Chín ngọn đáo câu lóe lên một cái, Châu-Tổ-Âm sợ quá buông tay để rớt ngọn đao xuống đất, lùi ra sau hai bước. Trần-Gia-Cách lại giơ tấm thuẫn bài lên một cái, năm sợi thằn sách bung ra đánh ngay vào mặt Châu-Tổ-Âm. Mỗi sợi thằn sách có một khúc cương cầu.
Châu-Tổ-Âm định tung mình lên tránh né nhưng không còn kịp nữa, cương câu đã điểm trúng vào huyệt ‘chỉ đương’ ở hậu tâm làm cho hắn nhói lên một cái. Chưa kịp la lên một tiếng thì sợi thằn sách lại quật trúng ngay nhượng chân ngã qụy xuống đất.
Trần-Gia-Cách bước tới xách ngang hông Châu-Tổ-Âm quăng lên tảng đá. Trương-Siêu-Trọng thấy vậy liền bước tới đỡ Châu-Tổ-Âm dậy, móc trong người ra một viên thuốc màu đỏ nhét vào miệng, sau đó khai giải huyệt đạo cho hắn. Một lát sau Châu-Tổ-Âm mới tỉnh dậy được, thấy toàn thân như lạnh run, không mở miệng ra nói năng được một lời.
Trương-Siêu-Trọng sai người săn sóc Châu-Tổ-Âm rồi rút thanh Ngân-Bích-Kiếm ra khỏi vỏ nhìn Trần-Gia-Cách nói:
-Võ nghệ của ngươi cũng thuộc hạng khá lắm đó! Sư phụ ngươi là ai?
Trần-Gia-Cách chưa kịp trả lời thì Tâm-Nghiện đứng một bên đã lên tiếng:
-Ngươi là cái thá gì mà đòi lên giọng hách dịch? Vậy chứ sư phụ ngươi là ai?
Trương-Siêu-Trọng mặt đỏ tía tai nói:
-Mi là đứa con nít miệng còn hôi sữa chỉ biết nói xàm, ta không thèm chất nhặt!
Tâm-Nghiệm cả cười nói:
-Mi tự phụ là bậc võ lâm tiền bối cao thủ mà tại sao nhìn binh khí của công tử ta lại không biết, còn hỏi một câu ngu xuẩn như vậy? Hãy vập đầu xuống lạy ta ba lạy ta sẽ nói cho biết!
Trương-Siêu-Trọng cả giận nhưng không thèm tranh luận nữa, vung kiếm nhắm vào bả vai Trần-Gia-Cách chém tới. Trần-Gia-Cách tay phải vụt sợi thằn sách lên đỡ mũi kiếm còn tay trái giơ tấm thuẫn bài nhắm Trương-Siêu-Trọng phang một cái.
Biết là gặp phải cao thủ, Trương-Siêu-Trọng không dám coi thường, vội thi triển Nhu-Vân Kiếm-Thuật mà đỡ lấy tấm thuẫn bài, rồi sau đó giở hết các ngón tuyệt kỹ ra giao đấu. Hai bên đánh qua đỡ lại hơn mấy chục hiệp mà vẫn chưa phân thắng bại.
Đang lúc hai người tranh phong kịch liệt thì hai người lái đò đã đến gần đám xạ thủ Thanh-Binh. Đám xạ thủ liền buông tên bắn như mưa nhưng đều bị hai người dùng binh khí gạt hết xuống đất.
Hai người lái đò kia, một người cầm cây thiết tương chính là Tưởng-Tứ-Căn, còn người kia cầm song đao, chính là Uyên-Ương-Đao Lạc-Băng. Cả hai xông tới mặc sức đánh giết đám Thanh-binh như vào chỗ không người.
Tưởng-Tứ-Căn vung cây thiết tương múa như bay khiến không ai dám lại gần. Lạc-Băng chạy lại chỗ hai chiếc tù xa, vén màn một chiếc lên gọi lớn:
-Tứ ca! Anh có ở trong xe không?
Chẳng ngờ người trong xe không phải là Văn-Thái-Lai mà lại là Dư-Ngư-Đồng. Bị trọng thương nằm mơ mơ màng màng lại nghe giọng nói và nhìn được khuôn mặt của Lạc-Băng, Dư-Ngư-Đồng tưởng đây là chốn âm ty nên mừng rỡ hỏi ngơ ngẩn:
-Ủa! Chị xuống mãi tận nơi này mà tìm em đó sao?
Nghe giọng nói quen quen nhưng thấy không phải là Văn-Thái-Lai nên Lạc-Băng làm như không quan tâm tới, tức tốc chạy đến tù xa thứ nhì. Nàng vừa định vén màn lên bỗng chợt nghe hơi gió của một ngọn đao từ đàng sau chém tới.
Lạc-Băng quay lại vung đao lên đỡ, đồng thời móc trong người ra hai ngọn phi đao phóng liên tiếp vào kẻ đánh lén mình. Một phi đao ghim ngay vào bả vai, còn phi đao kia ghim vào ngay chân khiến cho hắn gục hẳn xuống.
Rồi một người khác rút ra ngọn ‘Cú-xỉ đao’ xông tới tấn công Lạc-Băng. Nhận ra người nay là Đoàn-Đại-Lân, một những tên thị vệ có nhúng tay vào việc bắt sống Văn-Thái-Lai ở Túc-Châu, máu hận thù của nàng bỗng sôi lên sùng sục, liền dùng ‘Hàn-Vương đao pháp’ (#1) do thân phụ đích thân truyền thụ cho mà phản kích dữ dội. Đánh nhau được vài hiệp, bọn thị vệ kéo đám Thanh-binh tới đông như kiến vây chặt hai người Tưởng-Tứ-Căn cùng Lạc-Băng lại. Rồi hai tên thị vệ xông tới hợp sức với Đoàn-Đại-Lân cùng đánh Lạc-Băng.
Vừa lúc ấy ở hướng Đông-Bắc có bốn kỵ mã phi tới như giông. Người đi đầu là Vệ-Xuân-Hoa, ba người đi sau là Dương-Thanh-Hiệp, Chương-Tấn và Châu-Ỷ. Vệ-Xuân-Hoa múa song câu đánh dẹp bọn Thanh-binh đang cản đường cho nhóm người tiến tới. Chàng vừa dùng một thế ‘Bàn xà nhập huyệt’ đánh vỡ sọ hai tên Thanh-binh thì ba người kia cũng vừa đến nơi.
Bốn người sau đó xông vào giữa đám quân chém giết không ngừng tay. Đám Thanh-binh hoảng sợ, loạn hết cả tinh thần,a vẫn cháy bùng, tiếng nổ lốp bốp làm ngói đổ gạch tan tưởng chừng như không bao giờ chấm dứt.
Trương-Siêu-Trọng sai Đoàn-Đại-Lân và Châu-Tổ-Âm lên trên nóc để xem thử động tịnh bốn phía ra sao. Y cương quyết không bước ra khỏi cửa một bước ngoại trừ cường địch tấn công và tận nơi.
Giữa những tiếng la hét bên ngoài chợt đâu vang lên tiếng ngựa, dường như mỗi lúc mỗi gần lại. Đoàn-Đại-Lân và Châu-Tổ-Âm cho biết rằng đoàn kỵ mã nhắm về hướng Đông mà chạy. Tào-Năng bỗng từ nơi khói lửa chạy ra đến gặp Trương-Siêu-Trọng nói:
-Bọn thổ phỉ bị tôi đánh lui cả rồi!
Trương-Siêu-Trọng hỏi:
-Trận này bên ta bị tổn thất nhiều ít?
Tào-Năng cứng họng, đứng im không sao trả lời được. Mãi một lúc sau hắn mới ú ớ:
-Thưa ngài, bên ta chẳng có một người nào bị thương cả.
Trương-Siêu-Trọng cười ruồi, nói một cách mỉa mai:
-Vậy sao!
Thấy mặt Trương-Siêu-Trọng cười bí hiểm mà chẳng hỏi thêm lời nào, Tào-Năng nói:
-Bọn thổ phỉ này rất là hùng hổ. Tên nào cũng có võ công trác tuyệt cả. Chỉ có một điều quái lạ là chúng không cướp của giết người mà cứ tìm bọn ta mà chém giết không nương tay. Lúc rút lui, chúng còn móc ra 500 lượng bạc đưa cho chủ khách sạn bảo là bồi thường thiệt hại.
Trương-Siêu-Trọng nói:
-Bọn ấy mà Tào tướng quân gọi là thổ phỉ sao? Thôi! Ông hãy cho tất cả mọi người đi nghỉ đi đẻ mai còn lên đường sớm.
Tào-Năng vâng lệnh lui ra. Hắn tìm đến người chủ lữ quán là lão Mân, buộc tội là cấu kết với thổ phỉ để giết hại quan binh để làm tiền. Lão Mân sợ hãi, lạy lục van xin thế nào cũng không được, phải đút lót cho hắn ta 500 lượng bạc mới được êm chuyện.
Sáng hôm sau, phải đến gần giờ Ngọ đám quan binh gần như mới hoàn hồn, tập trung lại được. Trông cả đám chẳng khác gì một nhóm tàn quân sau một trận giao tranh. Trương-Siêu-Trọng không dám chậm trễ, liền ra lệnh khởi hành. Đi được hai tiếng thì đường đi mỗi lúc mỗi hẹp lại, địa thế hiểm trở kỳ khu (#4). Hai bên đường như hai vách đá cao đứng sừng sững giữa sườn non. Trương-Siêu-Trọng lại khiến Tham-tướng Bình-Vượng cỡi ngựa đi tiên phong hướng đạo.
Bình-Vượng nhìn đường đi chẳng khác nào như một con mãng xà nằm ngang giữa núi thì lo sợ nếu có mai phục thì thật là nguy cho cả đám. Dù vậy, hắn cũng không dám cãi lệnh phải dấn thân đi trước mở đường.
Đi được một đoạn, nhìn thấy đầu kia như có người đang phi ngựa chạy như bay tới, Bình-Vượng bèn một mình vượt lên trên đón đầu kỵ mã lại hỏi:
-Ai đó mà đi đâu có vẻ gấp gáp vậy?
Người kỵ-mã vẻ mặt như hốt hoảng nói:
-Trời ơi! Các ngài không xem địa thế vùng này ra sao mà dám đi ngang qua đây? Tôi vừa trông thấy một đám ác quỷ đón đường nên vội vã đi lui trở lại. Nếu các ngài muốn sống thì nên quay trở lại mà tìm ngõ sinh lộ mà đi. Có thể đi về hướng Đông thì may ra thoát khỏi. Nếu không chịu nghe lời tôi mà cứ đi tới e rằng sẽ chết hết không còn một người đó!
Ai nấy nhìn xem thì thấy người ấy mặc áo vải thô sơ, buộc sợi dây lưng gai kịch cợm, sắc mặt vàng khè, hai vai thì co rụt, trông hình thù như kẻ đói rét bơ vơ. Hắn vừa dứt lời thì vội quất ngựa chạy thẳng đi như bay. Quân sĩ hai bên phải vẹt ra để cho người ấy qua khỏi rồi mới tiếp tục cuộc hành trình theo lệnh tấn binh của Bình-Vượng.
Đi được mới nửa dặm đường thình lình nghe phía sau có tiếng kêu “Chết rồi!”, rồi một tên Thanh-binh ngã chúi đầu xuống ngựa chết không kịp trăn trối, chẳng hiểu vì đâu. Lạ hơn nữa là tìm khắp châu thân tên lính chẳng thấy một vết tích khả nghi nào.
Quan binh hết hồn hết vía, lại thêm một phen hoang mang đến cực độ, xúm lại bàn tán xôn xao. Sau khi sai hai tên lính mai táng người chết xong, đoàn người ngựa lại tiếp tục lên đường.
Đi được một quãng, đoàn người lại thấy có một kỵ mã từ xa cỡ ngựa phi như bay đến. Tham-tướng Bình-Vượng lại phóng ngựa ra đón đường thì nhận ra là người lúc ban nãy. Sau đó y lại lập lại lời cảnh cáo mọi người y như lúc ban nãy nói với tất cả. Dứt lời y lại giục ngựa phi như bay chẳng gì hồi nãy, và quân sĩ lại vẹt ra hai bên cho y chạy.
Chợt Bình-Vượng nghĩ ra một điều gì vô lý không thể tưởng được. Rõ ràng người ấy đã phi xuống chân núi rồi! Mà rõ ràng đây là con đường duy nhất để đi mà thôi! Chẳng lẽ người ấy xuống phi ngựa xuống chân núi rồi phi lên lại, vượt qua và bỏ xa tất cả, không ai trông thấy được, rồi lại quay ngựa phi ngược trở lại như lúc ban đầu? Nếu đem những chuyện cổ tích hoang đường mà kể lại thì chắc cũng chỉ đến thế này là cùng!
Châu-Tổ-Âm chờ cho người ấy đến gần mình thì giơ đao chặn lại nói:
-Bằng hữu đi đâu mà vội thế? Mau đứng lại cho ta hỏi đã!
Người ấy như chẳng nghe thấy, chỉ đưa tay vỗ nhẹ lên vai Châu-Tổ-Âm. Cây đơn đao sau đó không hiểu sao rớt xuống đất. Hắn cũng chẳng thèm quay lại, cứ thẳng đường mà phi như bay xuống chân núi. Và rồi lại y như lúc nãy, một tên quân ngã lăn xuống chết mà không hiểu lý do gì, mà trên người cũng không có một vết tích gì.
Đám Thanh-binh mặt ngơ ngơ ngáo ngáo, lại bàn tán xầm xì. Nét kinh khiếp hiện rõ ra trên mặt chúng.
Trương-Siêu-Trọng nghe báo cáo lấy làm lạ vô cùng. Ông ta giao cho đám thị vệ canh giữ Văn-Thái-Lai và Dư-Ngư-Đồng, còn ông ta thì đích thân tới tận nơi xem xét.
Lúc ấy, Châu-Tổ-Âm bỗng kinh hãi la lên:
-Trương đại nhân! Không hiểu kẻ ấy là người hay quỷ mà sao có hành động quái gở đến thế này!
Dứt lời, hắn vạch bả vai ra cho Trương-Siêu-Trọng xem mà mặt mày trắng bạch, tưởng chừng như không còn lấy được giọt máu.
Trương-Siêu-Trọng thấy vai Châu-Tổ-Âm nổ lên một cục bầm đen như qả ô mai, hình dáng trông như một cục bướu nhỏ. Y cau mày, thò tay vào túi lấy ra một gói thuốc bột đưa cho Châu-Tổ-Âm bảo nuốt hết vào miệng. Sau đó Hỏa-Thủ Phán-Quan lại sai cởi áo tên Thanh-binh mới chết ra xem. Quả nhiên, trên lưng hắn cũng có một vết bầm đen như quả ô mai đàng sau lưng.
Đám binh sĩ rùng mình thét lên:
-Quỷ cắn! Quỷ cắn!
Tham-tướng Bình-Vượng chọn hai tên lính lo trách nhiệm mai táng tên quân vừa mới chết nhưng không một người nào dám nhận lời hết cả. Rốt cuộc, đích thân Trương-Siêu-Trọng phải đứng ra tự tay chôn cất hắn rồi mới tiếp tục cuộc hành trình.
Đoàn-Đại-Lân nói:
-Trương đại nhân này? Tôi không hiểu cái người đó vì sao đã xuống chân núi rồi mà còn trở lại phía trước được như vậy?
Trong lòng Trương-Siêu-Trọng đang nảy ra bao nhiêu mối nghi hoặc. Bất chợt nghe hỏi vậy thì cũng đành phải miễn cưỡng mà trả lời:
-Châu-Tổ-Âm và hai tên lính kia trúng phải Hắc-Sa-Chưởng. Sở dĩ Châu-Tổ-Âm sống sót là vì tôi kịp thời phát hiện nên cứu được. Còn hai tên lính kia sở dĩ phải chết vì tôi không biết kịp để mà cứu!
Đoàn-Đại-Lân hỏi tiếp:
-Hắc-Sa-Chưởng là gì mà nguy hiểm quá vậy?
Trương-Siêu-Trọng thở dài đáp:
-Trên giang hồ rất ít người biết được môn công phu hiểm ác này. Chính tôi đây cũng chỉ được nghe thoáng qua chứ không được biết rõ lắm. Vì vậy mà chính lúc đầu tôi cũng chưa nhận ra được.
Đoàn-Đạo-Lân lại hỏi:
-Thưa Trương đại nhân! Hắc-Sa-Chưởng thuộc môn phái nào vậy?
Trương-Siêu-Trọng đáp:
-Lúc sinh tiền, tôi có được sư phụ nói cho nghe Hắc-Sa-Chưởn vốn thuộc của môn phái Thanh Thành ở Tứ-Xuyên do Huệ-Lữ Đạo-Nhân sáng chế ra, và chỉ có một mình ông ta biết được mà thôi.
Rồi như sực nhớ ra điều gì, Trương-Siêu-Trọng lùi ra sau mấy bước la lớn:
-Ừ phải rồi! Phải rồi! Tôi nhớ ra rồi! Sư huynh đồng môn Mã-Chân của tôi có một lần cho tôi biết rằng Huệ-Lữ Đạo-Nhân có dạy được hai người đệ tử rất đắc ý là Hắc-Vô-Thường và Bạch-Vô-Thường. Họ là hai anh em song sinh, giống nhau như hai giọt nước, cùng xấu xí như quỷ hiện hình vậy. Hễ ai trông thấy họ mà nhát gan thì chỉ có hồn phi phách tán mà thôi. Hai người đó được giang hồ đặt cho ngoại hiệu là Tây-Xuyên Song-Hiệp.
Bọn thị vệ đã từng nghe đại danh của Tây-Xuyên Song-Hiệp từ lâu, không ngờ hôm nay tình cờ đụng phải thì trong lòng hết sức lo lắng. Nhưng chúng vẫn phải làm thinh tỉnh bơ vì sợ bị cho là nhát gan.
Đêm ấy, Trương-Siêu-Trọng đành nghỉ ngơi tại Hắc-Tông-Bảo. Tào-Năng cắt đặt một số quân lính canh phòng ngoài trấn để dọ thám tin tức. Sáng ra, đến lúc chuẩn bị lên đường mà Tào-Năng vẫn chưa thấy một tên nào về để báo tin cả.
Sau Tào-Năng mới tra xét ra được là đêm trước đám lính được phái đi dọ thám không có tên nào dám ra khỏi trấn cả. Bọn chúng ngủ lại trong trấn mà sáng dậy thấy ở trên đầu mình có một tờ giấy tiên nên sợ hãi quá. Nhiều tên yếu bóng vía nên khi nhận được lệnh đi dọ thám đã tự ý đào ngũ.
Theo lộ trình hoạch định hôm ấy thì đoàn người sẽ phải vượt qua Ô-Tiêu-Lãnh, là nơi khét tiếng là vùng hiểm trở trên con đường Cam-Lượng xưa nay. Tào-Năng bèn cho binh sĩ ăn trước thật no để lấy sức mà cố vượt qua Ô-Tiêu-Lãnh cho lẹ. Tào-Năng hứa với quân sĩ rằng khi vượt qua được Ô-Tiêu-Lãnh thì sẽ được nghỉ ngơi thong thả.
Đi được nửa ngày, càng lên cao, khí hậu càng lạnh chẳng khác nào như đi lên núi tuyết. Đường càng đi mỗi lúc càng thêm hiểm trở. Trời tháng 9 ở đồng bằng nắng gắt nóng vô cùng, mà ở đây bông tuyết lại bay trắng xóa. Quan binh đều run rẩy, bước không muốn vững. Mặc cho Tào-Năng mặc sức mà đốc thúc, quân sĩ vẫn không thể đi mau hơn được; phần vì lạnh, phần vì sợ khiến ai nấy mất hết cả tinh thần...
Một bên thì núi cao ngút ngàn như đụng tới mây xanh. Một bên thì vực sâu thăm thẳm như tìm hoài mà chẳng thấy đáy. Bọn quân sĩ phải nắm tay nhau mà đi từ từ, cẩn thận nhìn xuống đôi chân. Đường đã hẹp, tuyết lại trơn. Nếu chẳng may trượt chân mà rơi xuống vực thì thân xác phải nát ra như cám mà thôi.
Đột nhiên phía trước như có tiếng gió kêu vi vu. Đám Thanh-binh đột nhiên la hoảng lên vì sợ hãi làm cho đại quân trở nên náo động. Tào-Năng phải lên tiếng vừa cổ võ vừa hăm dọa, chúng mới cố gắng mà tiến thêm được một đoạn nữa.
Những tiếng vi vu giờ đây trở thành những tiếng than vắn thở dài hết sức thê lương ảm đạm như những tiếng khóc của oan hồn khiến cho ai nghe thấy cũng phải rùng mình rởn óc. Lúc đó lời nói của người kỵ mã hôm trước chợt như vang lại trong trí của mọi người. Rồi có tiếng từ đâu vọng lại nghe rất ghê rợn nhưng rõ mồn một bên tai mọi người:
-Đi tới thì gặp Diêm-Vương... Trở lui thì được sống sót! Đi tới thì gặp Diêm-Vương... Trở lui thì được sống sót!..
Nghe xong những lời đó, ai cũng muốn đi lùi trở lại chứ chẳng muốn tiến thêm một bước. Tham-tướng Bìng-Vượng phải nhờ mấy tên thị vệ đi trước làm gương. Một tên thị vệ đi chưa được mấy bước thì một lằn tên từ đâu bay đến cắm ngay vào bụng hắn. Tên thị vệ thét lên một tiếng thảm thiết rồi rơi ngay xuống vựa sâu.
Bình-Vượng sai đánh trống ầm ĩ để thúc giục tinh thần mọi người hăng hái lên. Rồi không hiển tên từ phía nào bắn tới mà chỉ thấy ba, bốn tên thị vệ nữa lần lượt đua nhau ngã xuống vựa thẳm. Đám Thanh-binh không làm sao dám đi tiếp nữa. Tất cả còn đang trù trừ chưa biết phải làm gì thì bên triền núi có một người đi lại. Khi gần đến nơi, người ấy hét to lên rằng:
-Đi qua thì gặp Diêm-Vương! Trở lại thì còn ngã sống!
Bọn quân sĩ nhận ra đó là ‘quỷ Vô-Thường’ gặp hôm qua. Bọn chúng kinh hãi quá hét lên một tiếng rùng rợn rồi cắm đầu cắm cổ đi lùi trở lại. Tào-Năng cố ớn mạnh, triều-đình tưởng là không thể nào diệt trừ nổi. Sau thời Ung-Chính đến thời Càn-Long. Nhờ thi-hành chính-sách đàn áp thẳng tay gọi là “Thiết Uyển Trấn Yểm”, đảng Đồ-Long dần dần tan rã.
Các nhân-vật lãnh-tụ đầu não của đảng thì lớp chết, lớp bị bắt, lớp chạy trốn lánh nạn tản mác đi khắp nơi. Lục-Phỉ-Thanh may mắn chạy thoát được cạm bẫy của vua Càn-Long bủa giăng chặt chẽ ra tận ngoài biên cương.
Quan binh Mãn-Thanh biết họ Lục là một thủ-lãnh nguy hiểm không thể bỏ lơ được nên phái người truy-nã Lục-Phỉ-Thanh gắt gao cùng nơi khắp chốn. Lục-Phỉ-Thanh là người hết sức cẩn thận lại nhiều cơ mưu, và thêm vào đó lại có võ công tuyệt đỉnh nên mới tránh được đại nạn. Tuy vậy, triều-đình Mãn-Thanh chẳng lúc nào không lưu tâm đến con người này. Lục-Phỉ-Thanh cho rằng người đi lánh nạn có ba chỗ tạm gọi là an thân hơn cả.
Chỗ an thân hơn hết là trốn trong triều. Chỗ an thân kế đến là trốn trong chợ. Và sau cùng, chỗ an thân thứ ba là trốn trong làng mạc, đồng quê. (#1)
Với ý định như vậy, Lục-Phỉ-Thanh lần hồi trở về nộ địa tìm đến dinh Lý-Khả-Tú là một vị quan có uy tín, có thế lực vào bậc nhất của triều đình đẻ giả làm một vị đồ-nho dạy thi-văn từ-phú cho ái-nữ của Lý tướng-quân là Lý-Mộng-Ngọc, lại ăn ở ngay trong công-phủ, tư dinh của một vị đại tướng-quân nên chẳng sợ ai nghi ngờ dọ dẫm chi cả.
Những người của triểu-đình phái đi truy tầm tróc nã Lục-Phỉ-Thanh luôn luôn chia nhau tìm kiếm ông ta trong những đám lục-lâm, trong các chùa chiền, trong các tiêu-cục, trong các võ-trường và luôn cả trong chốn võ-lâm.
Chẳng ai ngờ rằng con người lợi hại ấy lại là một cụ đồ-nho áo dài, khăn đen, móng tay lượt-thượt, đôi mắt leo heo, miệng ngâm vẽ nhịp, có vẻ yếu ớt như trói gà không chặt, đang sống một cuộc đời bình thản trong phủ của một vị tướng-quân được triều-đình sủng-ái!
Người khâm-phạm có một bản-lãnh võ-nghệ trác-tuyệt như thế chẳng cần trốn lánh đâu xa, hàng ngay ra vào ngay trước mặt quan quyền, và suốt mấy năm nay qua mặt hết được bọn tay sai đắc lực của vua Càn-Long.
Lục-Phỉ-Thanh còn hai người anh em đồng-môn là đại sư-huynh Mã-Chân và tam sư-đệ Trương-Siêu-Trọng. Lục-Phỉ-Thanh đứng hàng thứ hai.
Mã-Chân là chưởng-môn nhân phái Võ-Đang, thích cảnh thiên-nhiên mây ngàn hạc nội nên không mấy chú ý đến thế sự, luôn cả việc của môn phái.
Trương-Siêu-Trọng tuổi trẻ, đầy nghị-lực nên lúc thọ-giáo được sư-phụ tâng tiu, mến chuộng hơn cả hai sư-huynh. Bao nhiêu tuyệt-kỹ của phái Võ-Đang, sư-phụ đều đem truyền hết lại cho người đệ-tử thứ ba này.
Còn Lục-Phỉ-Thanh thì chẳng những học được tất cả những thế võ bí truyền của môn phái để trở thành một nhân vật siêu-quần, lại còn là một tay văn-chương xuất chúng, ngâm thơ Liễu-Như, vịnh phú Đào-Yêu, học-lực và kiến-thức uyên-bác vô cùng. Ngoài ra, con người của ông ta còn hết sức lịch-lãm về mọi mặt. Có lẽ đó là nhờ vào kinh-nghiệm xông xáo trên giang-hồ suốt mấy chục năm trời.
Trong thời-gian hành-hiệp, Lục-Phỉ-Thanh còn thâu thập được không biết bao nhiêu là tuyệt-kỹ võ-công của những môn phái khác: “Vô Cực Huyền Công Quyền”, “Phù Dung Châm Pháp” và “Nhu Vân Kiếm”. Ba môn này khét tiếng, được gọi là “Giang Hồ Tam Tuyệt Kỹ” (#2).
Còn nói bề ba cao-đồ của phái Võ-Đang thì chí hướng họ khác hẳn nhau. Mã-Chân chỉ thích tiêu dao mây nước, kết bạn hạt tùng. Lục-Phỉ-Thanh thích hành hiệp trượng nghĩa, đem tài sức giúp đời, giúp người cô thế chống lại bạo tàn. Còn Trương-Siêu-Trọng thì nặng nợ công-danh, ràng buộc phú-quý, đành đem ‘tấm thân bảy thước ngang tàng’ luồn cúi quyền uy, được phong quan tam-phẩm.
Năm trước, Lục-Phỉ-Thanh với Trương-Siêu-Trọng đã dùng gươm vạch đất tuyệt giao với nhau. Hai người ân nghĩa đều cắt đứt hết, chẳng ai nhìn ai nữa, trái lại còn xem nhau như thù địch, không đội trời chung...
Nhắc lại Lý-Mộng-Ngọc, hôm ấy được Lục lão sư hứa dạy cho ‘trò chơi’ ấy thì rất hân hoan, kín miệng không nói cho ai biết cả.
Sáng hôm sau, Lý-mộng-Ngọc thức dậy thật sớm đến thư phòng của sư-phụ. Đẩy cửa vào trong thì thấy vắng tênh, không có một ai, chỉ thấy trên bàn viết của thầy có dán một tờ giấy. Đó là một bức thư. Mộng-Ngọc cầm lên đọc:
Mộng Ngọc con,
Thầy vẫn biết con là một đứa học trò giỏi sử đao gươm, bút múa như phụng, nghe tiếng đàn hiểu được đường tơ. Tâm con thật ‘linh’, tánh con thật ‘mẫn’, thật là người hiếm có vậy. Thầy có được một đứa học trò như con tưởng không có gì vui mừng và hãnh-diện hơn. Chỉ tiếc là con có chí lớn mà thầy thì tài mọn nên suốt ba năm lãnh nhận trách-nhiệm dạy dỗ con, thầy rất lấy làm xấu hổ vì không đem đến được cho con những điều học nào hữu ích được cả.
Tình thầy trò chúng ta đến đây đã hết. Mong rằng sau này còn có cơ hội tái ngộ. Trước khi từ giã con, thầy lấy tình sư-đệ bấy lâu nay có mấy lời khuyên, và mong con ghi nhớ lấy. Theo sự nhận xét của thầy thì về mặt võ-nghệ con có thừa, nhưng còn về phần đoan-nghi thì con chưa đủ. Lời xưa có nói: “Sự thông-minh không đủ đem đến hạnh-phúc cho mình. Người được ‘thân an mạng toàn’ phải trau giồi đức hạnh. Thôi, thầy chỉ có bấy nhiêu hàng đó muốn nói.
Thầy,
Lục-Cao-Chỉ
Lục-Cao-Chỉ là tên giả mà Lục-Phỉ-Thanh dùng để ẩn tích mai danh. Đang lúc Lý-Mộng-Ngọc bùi ngùi đọc mấy hàng chữ của sư-phụ để lại, còn phân-vân chưa hiểu thế nào thì thình-lình nghe có tiếng cửa phòng mở một cái ‘rột’. Một người hớt ha hớt hãi chạy vào. Mà người ấy chẳng phải ai xa lạ khác hơn mà chính là Lục-Phỉ-Thanh, thầy đồ dạy học nàng.
Lý-Mộng-Ngọc nhìn thấy sư phụ mình mặt mày xanh lét, máu nhuộm đầy mình vừa chạy vào đã sụm chân ngã xỉu xuống đất.
Mộng-Ngọc vội vàng chạy đến dìu Lục-Phỉ-Thanh ngồi lên ghế.
-Thầy ơi thầy! Sao vậy thầy?
Lục-Phỉ-Thanh ngưng thần định trí một hồi lâu rồi mới thều thào:
-Con đừng làm kinh động. Đừng nói chi hết, cứ để yên cho thầy.
Dứt lời, Lục-Phỉ-Thanh nhắm nghiền đôi mắt lại, không nói thêm nửa lời. Lý-Mộng-Ngọc tuy là con nhà võ quen múa đao múa kiếm thế mà trước cảnh tượng này cũng không khỏi kinh hãi. Nành tuân theo lời thầy đóng kín cửa phòng, im lặng đứng bên Lục-Phỉ-Thanh mà không dám gọi. Được một lúc khá lâu, Lục-Phỉ-Thanh lên tiếng nói với Lý-Mộng-Ngọc:
-Mộng-Ngọc! Ta với con tình nghĩa sư-đồ trong ba năm thật là thâm-trọng. Hôm nay, thầy nghĩ duyên phần đã hết nên định từ biệt con để ra đi. Không ngờ sự cớ đưa đẩy làm thầy phải quay về đây lại. Thầy có một vấn-đề nguy-hiểm đến tánh mạng. Chẳng hay con có thể vì thầy mà dấu kín đừng cho ai biết việc này không?
Nói xong, Lục-Phỉ-Thanh mở to đôi mắt sáng quắc ra nhìn thẳng vào mặt Lý-Mộng-Ngọc như có ý dò hỏi. Lý-Mộng-Ngọc khảng khái đáp:
-Thưa thầy, có việc gì xin thầy cứ bảo. Con xin hứa chắc chắn là không trái ý thầy.
Lục-Phỉ-Thanh nói:
-Con thưa với lệnh trên là thầy đang có bệnh, cho thầy được tĩnh dưỡng trong vòng nửa tháng.
Mộng-Ngọc bằng lòng ngay.
Ngưng một giây lát, Lục-Phỉ-Thanh giục nàng:
-Thôi, con đi đi!
Chờ Mộng-Ngọc đi rồi, Lục-Phỉ-Thanh mới thò tay vào lưng móc gói thuốc ra rịt lên vết thương nơi cánh tay trái mình rồi dùng vải trắng băng lại. Ông ta khạc một cái, nhổ ra một cục máu bầm.
Số là chiều hôm trước khi bị Lý-Mộng-Ngọc nhìn trộm ông ta dùng ‘Phù Dung Kim Châm’ bắt ruồi và yêu cầu được học phép ấy, Lục-Phỉ-Thanh thấy tung tích đã bại lộ nên cảm thấy không thể nấn ná ở địa-phương này được nữa. Vì vậy, ông ta bèn viết thư cáo biệt để lại cho Mộng-Ngọc trước khi đi. Lục-Phỉ-Thanh là người lịch duyệt nhiều, thấy trong dinh Lý-Khả-Tú đông người mà đứa nữ đệ-tử lại là một kẻ thông-minh tuyệt đỉnh. Mà xưa nay, những người thông-minh lại hay bị chính cái thông-minh đó làm hỏng nhiều việc. Do đó, trong thư ông mới dặn dò Mông-Ngọc nên rèn đức hạnh mà đừng ỷ y quá vào sự thông-minh. Lục-Phỉ-Thanh chẳng có gì quý báu ngoài mấy bộ quần áo và một thanh Bach-Long kiếm dấu bên hông cùng với một gói hành lý mang trên vai, chuẩn bị đến canh hai thì lẻn đi thẳng một nước. Dù sau đó ai có biết ông ta là ai đi nữa bóng chim tăm cá, mây nước mịt mù, biết đâu mà tìm cho ra.
Sắp đặt xong xuôi, ông ngồi bằng trên ghế mắt nhắm nghiền lại dưỡng thần. Xa xa, tiếng trống điểm canh khoan nhạt đưa lọt vào tai. Lục-Phỉ-Thanh biết thời khắc đã qua giờ Tỵ liền khêu sáng ngọn đền lên thì thình lình ngoài cửa sổ một giọng cười quái gở vang lên, theo gió bay vào.
Đề-phòng bất trắc, Lục-Phỉ-Thanh đưa tay quạt tắt ngọn đèn, mang khăn gói lên vai, rút Bạch-Long kiếm ra cầm sẵn.
Bên ngoài cửa sổ, một giọng nói rổn rảng phá tan bầu không khí yên lặng của đêm khuya:
-Lão già họ Lục ơi! Lão đừng tưởng trốn vào cửa tướng đóng tuồng gõ đầu trẻ mà không ai biết đâu nhé! Thôi, đừng hòng trốn tránh nữa! Nếu khôn hồn thì hãy đưa tay chịu trói để ta giải về kinh mà chịu tội với triều-đình!
Lục-Phỉ-Thanh biết đã gặp cường địch, chỉ còn cách tìm đường đối phó thôi chứ không mong gì được hắn bỏ qua. Kẻ đó dĩ-nhiên không phải kẻ võ-nghệ tầm thường, mà cũng không phải chỉ có một mình hắn thôi. Chắc chắn kẻ đó cùng mấy tên đồng đảng đang phục sẵn bên ngoài, lấy khỏi đợi mệt, lấy đông lấn ít. Nếu ở mãi trong phòng thì mười phần nguy cả mười. Nếu cứ xông bừa ra mà quyết chiến thì khó lòng thoát thân được. Phải đợi lúc xuất kỳ bất ý vọt ra ngoài cửa sổ đánh trí mạng một mất một còn thì may ra còn thủ thắng được.
Cố dè dặt hết sức không gây nên một tiếng động nho nhỏ nào, Lục-Phỉ-Thanh bất thình lình dùng thế ‘Bích Hổ Du Tường’ đánh vào song cửa sổ thật mạnh. Chỉ nghe ‘rắc rắ’ mấy tiếng, song cửa sổ bị gẫy tiện, Lục-Phỉ-Thanh vận khí tung mình ră khỏi cửa sổ, bay bổng lên nóc nhà như một con chim én.
Kẻ địch ẩn núp bên ngoài như đang chờ sẵn nên từ đâu phi thân lại tung một quyền đánh vào mặt Lục-Phỉ-Thanh, miệng quát lớn:
-Tài thật! Giỏi thật!
Lục-Phỉ-Thanh nghiêng mình tránh khỏi, nói lớn:
-Người anh em đừng vội! Để ta xuống cho mà đánh.
Lục-Phỉ-Thanh lại dùng khinh công nhắm hướng ngoài thành vụt bay như tên. Phía sau, ba cái bóng đen vùn vụt đuổi theo. Lục-Phỉ-Thanh chạy một hơi thật xa, có đến sáu, bảy dặm đường. Ba cái bóng đen đuổi theo thục mạng, miệng không ngớt kêu la:
-Lão già họ Lục sao hèn nhát đến thế? Một người có tên tuổi trên giang-hồ mà phải tháo thân chạy trối chết thế hả?
Lục-Phỉ-Thanh biết ba bóng đen đó toàn là những nhân-vật hữn danh trên giang-hồ nên chẳng dám khinh thường. Nhưng thật ra, ông ta cũng không đến độ phải khiếp sợ mà chạy dài. Ông ta biết dù chạy đến đâu, cường địch cũng không chịu bỏ qua. Trước sau cũng phải giải quyết một cách sống chết mà thôi. Chẳng qua là thấy giải quyết trong thành thật bất tiện vì nơi đây quan quân triều-đình rất đông, và chắc chắn ba người này cùng phe với họ. Cho nên Lục-Phỉ-Thanh mới cố dẫn dụ địch ra khỏi thành đến một chỗ hoang vắng để phân cao hạ thì tiện bề hơn nhiều.
Dẫn dụ đám người ấy đuổi theo có ba điều lợi cho Lục-Phỉ-Thanh. Thứ nhất là đến một điểm lạ thì địch-nhân khó lòng mà có được viện-binh đến kịp thời. Thứ hai, nếu đường đường chính chính đương đầu thì mới có thể rõ được võ-nghệ của họ đến trình-độ nào; nếu nhắm đánh thắng được thì quyết chiến, bằng không sẽ tìm cách trốn thoát. Thứ ba, nếu phe đối nghịch có bao nhiêu vây cánh ở chung quanh đây tất nhiên sẽ xuất đầu lộ diện ra tất cả thì càng tiện cho mình lo liệu mà tính kế.
Hơn nữa, ra một chỗ vằng vẻ rộng rãi thmà rượt theo giết chết hai anh em ‘quỷ Vô-Thường’ đó. Trương-Siêu-Trọng vẫn làm thinh không nói một lời nào. Y lại chỗ phiến đá ngồi xuống như vận công.
Đoàn-Đại-Lân thấy vậy đến hỏi:
-Thế ra Trương đại nhân bị thương hả? Có làm sao không?
Trương-Siêu-Trọng vẫn ngồi trầm ngâm không đáp. Ông ngước mặt lên nhìn trời, hả lớn miệng ra dùng phương pháp hô hấp mà thở rồi hít thanh khí vào trong người. Phải một lúc khá lâu Trương-Siêu-Trọng ngừng lại, sắc mặt tươi tỉnh hơn lúc nãy trả lời:
-Chẳng sao hết.
Nói xong, Trương-Siêu-Trọng vén tay áo lên cho mọi người nhìn. Năm vết bầm tím sưng lên như năm quả ô mai, và rõ ràng còn in rõ năm dấu tay. Không những Trương-Siêu-Trọng kinh sợ mà người nào xem cũng phải rợn tóc gáy.
Sau đó, Tào-Năng lại cố đốc thúc đoàn quân tiến hành. Thấy nguy hiểm đã qua rồi nên đoàn quân hăng hái đi tiếp mà không phải sợ sệt gì nữa. Nhờ vậy mà vượt qua khỏi được Ô-Tiêu-Lãnh. Nhưng đêm hôm ấy có đến gần 50 tên quân lại bỏ trốn, đào ngũ.
Trương-Siêu-Trọng bàn với đám thị vệ rằng:
-Nếu cứ theo lộ trình này mà đi ắt đến tỉnh Cao-Lang. Nhưng với địa thế hiểm trở thế này mà lại bị kẻ thù phục kích thì thật khó mà trở tay kịp. Chi bằng chúng ta cứ theo tiểu lộ mà điến Hồng-Thành rồi qua sông Hoàng-Hà để đánh lạc hướng bọn Hồng Hoa Hội, đồng thời không phải lo lắng đến những màn phục kích bất ngờ.
Đám thị vệ ai nấy đều tán thành. Chỉ có Tào-Năng là có vẻ không được vui. Hắn chỉ muốn hộ tống đám người Trương-Siêu-Trọng đến Cao-Lang để bàn giao cho quan binh địa phương nơi ấy là kể như xong phận sự. Tuy không bằng lòng nhưng Tào-Năng cũng đành phải tuân theo chứ không dám cãi lệnh.
Trương-Siêu-Trọng hình như hiểu được tâm trạng của Tào-Năng nên an ủi:
-Để tôi viết mấy hàng nói rõ mọi tổn thất là không phải lỗi ở Tào tướng quân để quan trên khỏi phải thắc mắc mà khiển trách.
Tào-Năng nghe Trương-Siêu-Trọng nói như vậy thì mừng rỡ vô cùng, vui vẻ mà tiếp tục cuộc hành trình.
Khi tất cả đến bờ sông Hoàng-Hà thì xa xa đã nghe tiếng sóng ầm ầm như muôn quân reo hò. Đi được hơn nửa ngày thì tới bến đò Hồng-Thành. Trời đã về chiều. Sóng cuồn cuộc như thác đổ chảy về hướng Đông. Cả một giòng sông Hoàng-Hà chẳng khác gì thiên binh vạn mã biểu dương uy thế.
Trương-Siêu-Trọng đứng nhìn sông mà lo lắng, nghĩ thầm:
-“Đêm nay cần phải qua sông mà sóng như thế này thì làm sao mà đi được!”
Tự nhiên trông ra xa có hai điểm đen như đang tiến tới mỗ lúc mỗi gần thêm. Khi gần đến nơi, Trương-Siêu-Trọng mới nhận ra là hai chiếc tàu lớn trống rỗng không người. Có lẽ là của ngư dân định ra khơi nhưng vì sóng quá lớn đánh không được cá nên phải quay trở về.
Tham-tướng Bình-Vượng mừng quá gọi hai người lái đò nói:
-Này hai anh! Nếu cố gắng làm sao mà đưa được chúng ta sang bờ bên kia thì ta sẽ trọng thưởng cho nhiều vàng bạc để xứng đáng với công của hai người.
Một người cập thuyền vào bờ, leo xuống đến trước mặt Bình-Vượng nói:
-Đại nhân cứ xuống đây cho mau.
Nói dứt lời, người lái đò dắt tay Bình-Vượng đi.
Bình-Vượng ngạc nhiên hỏi:
-Mà anh là ai mới được?
Người ấy cười, nói bằng tiếng Quảng-Đông:
-Đại nhân còn hỏi làm gì? Nếu muốn tôi đưa qua sông thì tôi đưa ngay. Miễn sang đến bờ bên kia đừng quên trọng thưởng cho tôi là được rồi.
Bình-Vượng nghe vậy thì không hỏi nữa. Hắn bàn Trương-Siêu-Trọng và bọn thị vệ nên đem hai chiếc tù xa xuống thuyền mà đi trước. Trương-Siêu-Trọng là người cẩn thận, đến gặp mặt người lái đò để xem mặt kỹ lưỡng. Đôi tay người ấy thật to lớn, bắp thịt rắn chắc, chứng tỏ là một người có sức mạnh vô cùng. Nhìn cái mái chèo trên tay người ấy cũng đủ thấy nặng nề thế mà y lại cầm chẳng chút phí sức. Trời khá tối nên Trương-Siêu-Trọng không trông rõ lắm, nhưng tin tưởng rằng chiếc mái chèo kia làm bằng sắt chứ không phải bằng gỗ. Người lái đò kia vì không đến gần nên Trương-Siêu-Trọng không làm sao trông rõ mặt được.
Tự nhiên, Trương-Siêu-Trọng sinh ra nghi ngờ, nói với Bình-Vượng rằng:
-Bình tham-tướng à! Theo tôi thì ông nên dẫn đám quân lính sang trước đi, và chờ chúng tôi ở bên đó.
Bình-Vượng nghe lời liền xuống thuyền và sắp xếp cho mỗi thuyền chừng 30 tên lính đi qua trước.
Hai người lái đò dường như rất thông thạo nghề nên chẳng mấy chốc đã đưa Bình-Vượng qua được bờ bên kia, rồi lại trở về đón khách. Lần này đến phiên Tào-Năng lãnh binh xuống thuyền qua sông. Thuyền vừa rời khỏi bến chưa được bao lâu thì đột nhiên một tiếng tiêu trổi lên và sau đó bao nhiêu tiếng tiêu khác từ đâu cùng trổi lên một lượt...
Trương-Siêu-Trọng bối rối tâm thần, ra lệnh cho quan binh tản mát ra và đích thân y đứng canh phòng, gìn giữ hai tù xa. Đám xạ thủ lãnh trách nhiệm yểm trợ hai chiếc tù xa đều lắp tên, giương cung sẵn sàng để chuẩn bị đối phó.
Lúc ấy, trăng cũng vừa lên. Nhìn ra ba phía Đông, Tây, Bắc có mười mấy kỵ mã đang phóng ngựa như bay. Trương-Siêu-Trọng phi ngựa ra trước đón những kỵ mã kia lại hỏi:
-Đám người kia! Đến đây có việc gì mà đi đông đúc như thế?
Phía bên kia, cách kỵ mã dàn trận thành hình chữ nhất từ từ tiến đến. Rồi một người trong đám phi ngựa ra đến gần, đối diện với Trương-Siêu-Trọng. Người này không mang theo binh khí nào cả, chỉ phe phẩy một chiếc quạt lông Bạch-Ngà, dáng điệu rất khoan thai.
Nhìn thẳng vào mặt Trương-Siêu-Trọng, người ấy lên tiếng:
-Người trước mặt ta có phải là Hỏa-Thủ Phán-Quan Trương-Siêu-Trọng đó không?
Trương-Siêu-Trọng gật đầu đáp:
<ều có trách-nhiệm thi-hành bản án ấy. Đêm nay gặp ngài ở đây, ba anh em chúng tôi có bổ phận mời ngài đến dinh quan Tổng-Đốc Hiệp-Cam. Nếu ngài không đi, chúng tôi buộc lòng phải bắt sống hoặc giết chết chứ không thể để cho ngài thoát thân. Đó là việc công.
Những lời trên đây tôi thành thật thưa để Lục lão anh-hùng biết đặng tự liệu.
Lục-Phỉ-Thanh cũng đã biết trước là đêm nay chỉ còn cách dùng võ lực quyết sống chết để giải quyết chứ không còn đường nào hơn.
Tiêu-Văn-Kỳ tự phụ tài nghệ hắn giờ cao siêu đủ sức hạ được Lục-Phỉ-Thanh lại còn thêm hai cao thủ ủng hộ hắn nữa nên câu nói của hắn bề ngoài nghe có vẻ khiêm tốn lễ phép mà bên trong lại khiêu khích bắt buộc Lục-Phỉ-Thanh phải giao thủ với hắn chớ không cho tẩu thoát.
Suốt mười năm qua, Lục-Phỉ-Thanh chỉ dành thì giờ vào việc dưỡng khí luyện thần nên tâm đã tịnh, và bản tính háo thắng cũng không còn như lúc còn thanh-niên. Vì vậy, Lục-Phỉ-Thanh hướng về phía Tiêu-Văn-Kỳ vòng tay nói:
-Thưa Tiêu tam gia. Tôi với các-hạ không còn ở cái tuổi tranh đua hơn kém như hồi trẻ nữa. Ngày ấy, tôi quả có đắc tội với tam gia ở Trực-Lệ. Vậy hôm nay ở đây tôi xin quỳ gối nhận tội với các-hạ. Nếu được tam gia bỏ qua thì thật là hân hạnh cho già này lắm.
Dứt lời, Lục-Phỉ-Thanh vòng tay vái dài Tiêu-Văn-Kỳ một cái. Chẳng dè gã cao lểnh khểnh Ngọc-Phán-Quan Hạ-Nhân-Long thét lên một tiếng mắng xối xả vào mặt Lục-Phỉ-Thanh rằng:
-Đừng mong khỏi chết mà hòng toan hạ mình làm chuyện hèn hạ như thế! Thế mà cũng tự nhận là khách giang-hồ!
Lục-Phỉ-Thanh không ngờ củ-chỉ hòa giải của mình lại bị Hạ-Nhân-Long hiểu lầm, cho là ông sợ chết lạy lục xin xỏ. Lục-Phỉ-Thanh nhảy dội ra sau nghiêm nét mặt chỉ vào Hạ-Nhân-Long quát lớn:
-Ta là Lục-Phỉ-Thanh! Tên tuổi của ta trong giới giang-hồ chẳng mấy ai không biết! Suốt mấy mươi năm hành hiệp ta đã gặp không biết bao nhiêu là cao thủ có bản lãnh cao cường mà nào đã chịu thua ai, và chưa hề bị ai khinh khi nửa tiếng. Thế mà hôm nay ta không tưởng có kẻ dám chạm đến danh-dự của ta.
Day qua Tiêu-Văn-Kỳ, Lục-Phỉ-Thanh vẫn giữ thái độ ôn hòa nói:
-Tiêu tam gia! Vừa rồi các-hạ đem việc ‘tư’ của các-hạ và việc công của triều-đình ra nói rõ cho tôi nghe, dạy tôi lo liệu lấy. Tôi sẵn sàng theo ý ngài mà nói rõ ra đây. Chuyện mười mấy năm trước sở dĩ xảy ra như thế là do ở cái tuổi thanh-niên háo thắng mà ra. Giờ các-hạ nhắc lại tôi không khỏi cười thầm, hổ thẹn. Nhưng nếu các-hạ muốn nhắc lại chuyện con nít để trả cái mà các-hạ cho là ‘nhục’, là ‘thù’ thì tôi cũng sẵn sàng đáp lễ chứ chẳng dám khước từ. Còn cái việc mà ngài gọi là ‘công’ đó thì tôi đây Lục-Phỉ-Thanh chẳng thể vâng theo lời dạy của ngài được. Tôi làm thủ-lãnh một đảng phái chống lại triều-đình Mãn-Thanh là vì tôi không thể ngồi im nhìn thấy giang-san Trung-Quốc bị dày đạp dưới gót giày của kẻ xâm lăng, giống nòi Hán tộc bị làm tôi đòi lầm than trong bàn tay ác nghiệt của kẻ thống trị. Việc của chúng tôi làm, nhân dân Trung-Quốc đều cho là chính nghĩa. Chỉ trừ những tên chim mồi chó săn cho triều-đình Mã-Thanh mới gọi tôi là khâm-phạm, mới âm mưu tìm bắt tôi mà dâng nạp cho kẻ thù chung ấy thôi. Các-hạ và hai tên tháp tùng đó nếu giỏi thì cứ bắt sống hay giết chết tôi đi đặng đem nộp cho quan trên mà lãnh thưởng nhưng đừng mong tôi tự ý đến nạp mình hay đưa tay chịu trói!
Lời nói như búa bổ vài đầu của Lục-Phỉ-Thanh làm cho bọn Tiêu-Văn-Kỳ đang tự đắc cũng phải chột dạ. Cách đây không lâu, ba người bọn họ cứ tưởng Lục-Phỉ-Thanh kinh khiếp trước bản lãnh của ba người.
Tiêu-Văn-Kỳ chưa biết trả lời thế nào thì Lục-Phỉ-Thanh lạu nói tiếp:
-Có khó gì đâu mà phải do dự cho mất hết ngày giờ? Muốn giải quyết bằng vũ-lực thì cứ việc bắt đầu đi thôi. Một trong ba người ra đây đấu với tôi, hoặc cả ba hợp sức cùng xông ra một lượt cũng được vậy! Có lẽ người hăng hái nhất trong ba vị là Hạ-Nhân-Long. Tôi rất muốn được thấy rõ tài nghệ và đảm lược của Ngọc-Phán-Quan.
Gã lùn mập là La-Tín thấy vậy nói lớn:
-Đừng cậy tài làm phách! Bộ ngươi tưởng ai cũng sợ ngươi sao?
Rồi xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị, y từ phía sau lưng Tiêu-Văn-Kỳ nhảy bổ tới như một con cóc đánh một quyền chớp nhoáng nghe ‘vù’ một tiếng vào ngay giữa mặt Lục-Phỉ-Thanh.
Trước một đòn hung ác đánh bất ngờ, Lục-Phỉ-Thanh chẳng chút nao núng. Ông chờ cho nắm tay của La-Tín vừa đến ngay giữa mặt liền lách sơ qua làm cho hắn hụt đòn. Sau đó Lục-Phỉ-Thanh lẹ làng như điện xẹt tay trái đánh một cái trúng ngay mạch môn nha của ‘gã lùn mập’ khiến hắn phải lùi ra sau ba bước.
Lục-Phỉ-Thanh không thèm tiến lên, chỉ đứng yên một chỗ. La-Tín định thần lại được liền dùng Ngũ-Hành-Quyền là võ bí truyền của hắn ra để tấn công Lục-Phỉ-Thanh. Đường quyền của La-Tín thật mạnh như vũ bão chứ không phải tầm thường.
Trong khi đó, Tiêu-Văn-Kỳ và Hạ-Nhân-Long đứng lui ra một bên để nhìn xem cuộc tranh phong vô cùng quyết liệt của hai đại cao-thủ. Tiêu-Văn-Kỳ để ý và quan-sát tuyệt kỹ của Lục-Phỉ-Thanh rất tỉ mỉ để rút tỉa ưu-khuyết-điểm, rất có lợi cho hắn một khi cùng Lục-Phỉ-Thanh so tài. Năm xưa, Tiêu-Văn-Kỳ bị trúng phải ‘Vô Cực Huyền Công’ của Lục-Phỉ-Thanh chỉ bản lãnh của hắn chưa luyện đến mức tuyệt diệu công phu.
Giờ đây, bản lãnh của Tiêu-Văn-Kỳ đã khác hẳn. Nếu so với ngày trước thì thật là khác nhau quá xa. Thêm vào đó, ngón diệu thủ Thiết Cầm Sát của hắn cũng đã luyện đến mức tột đỉnh chứ không còn tập tễnh như thuở trước.
Tiêu-Văn-Kỳ tính toán rất sâu xa. Y định bụng dùng La-Tín và Hạ-Nhân Long để tiêu hao bớt công-lực của Lục-Phỉ-Thanh rồi sau cùng hắn sẽ dùng tuyệt kỹ công phu của môn Thiết Cầm Sát ra chấm dứt trận đấu bằng cái chết của kẻ thù hoặc làm cho kẻ thù bị trọng thương theo ý của hắn. Còn hạ-Nhân-Long thì nghĩ rằng Lục-Phỉ-Thanh là một tên khâm-phạm triều-đình. Nếu bắt sống được hay giết chết cắt lấy thủ cấp đem về nạp lên quan Tổng-Đốc Hiệp-Cam thì đường công danh sẽ mở ra cho hắn nhiều bước tiến đến đường tham vọng.
Trong khi Lục-Phỉ-Thanh và La-Tín giao phong với nhau vô cùng sôi nổi, thì Tiêu-Văn-Kỳ cùng Hạ-Nhân-Long vẫn tụ thế bàng quang đứng nhìn. Mỗi người ôm một hoài bão riêng tư trong lòng.
La-Tín dùng Ngũ-Hành-Quyền đánh toàn những thế công, quyền tung ra tới tấp. Một ngón vừa tung ra thì một ngón khác tiếp theo liền, không để một sơ hở nào cho địch thủ khai-thác. La-Tín đánh theo Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, với ngũ hành ‘tương sinh tương khắc’ đâu đó chặt chẽ vững vàng.
Ngũ-Hành-Quyền là một môn võ rất lợi hại của ngoại-gia công-phu, nếu đối-phương bị đánh trúng thì vô phương bảo toàn tánh mạng.
Nhưng mặc cho La-Tín muốn đánh cách nào thì đánh, Lục-Phỉ-Thanh vẫn giữ vững được thế thủ. Không quyền nào của La-Tín chạm được vào người ông ta. La-Tín hết sức nóng ruột bèn dùng đường quyền lợi hại nhất trong Ngũ-Hành-Quyền là ‘Tý Quyền’, thuộc mạn Kim, quyết hạ cho bằng được Lục-Phỉ-Thanh. Tý Quyền vừa buông ra, La-Tín lại bồi tiếp thêm một ngọn Tỏa Quyền. Tỏa Quyền thuộc mạng Thủy, còn gọi là Trường Quyền hay Xung-Thiên-Bào, tức là đánh lên đỉnh đầu địch thủ. Lục-Phỉ-Thanh vẫn bình tĩnh chống đỡ chứ chưa phản công. Trong nháy mắt, hai bên đã trao đổi hơn 10 hiệp.
La-Tín bỗng cố nhử dùng ngón Bàng Quyền làm hư chiêu đánh sang bên trái, nhưng chuẩn bị chiêu Hoành Quyền đánh bên mặt, nhưng bóng Lục-Phỉ-Thanh chợt như biến mất ở nơi đâu! La-Tín vừa xoay người lại thì vửa vặn một quyền trong tay Lục-Phỉ-Thanh đang đánh tới. La Tín toan bắt lấy cườm tay của Lục-Phỉ-Thanh vì hắn tin tưởng vào sức mạnh của hắn dư sức áp đảo được ‘sức già’ của đối phương. Nhưng Lục-Phỉ-Thanh chỉ hươi tay áo, khẽ phất một cái, nắm tay của La-Tín bị đẩy lùi ra sau.
Trong lúc gấp rút, La-Tín liền dùng cả hai tay chộp tới, nắm cứng lấy tay của Lục-Phỉ-Thanh lại. Lục-Phỉ-Thanh để yên cho La-Tín nắm rồi bất thình lình giựt về một cái khiến y một phen kinh hãi thiếu chút nữa là ‘chúi nhủi’. La Tín sợ quá, buông tay Lục-Phỉ-Thanh ra, nhưng bất ngờ tung ra một quyền từ tay trái đánh thẳng vào người ông ta. La-Tín tin chắc Lục-Phỉ-Thanh sẽ dùng tay mặt để gạt quyền, và sau đó gã sẽ dùng một chiêu ‘Cầm Nã-Thủ’ bóp cứng vai trái Lục-Phỉ-Thanh.
Mọi chuyện xảy ra đúng như sự tiên liệu của La-Tín. Khi Lục-Phỉ-Thanh đưa tay mặt lên gạt hư quyền, La-Tín hí hửng đưa tay chộp ngay lấy bả vai của Lục-Phỉ-Thanh. Chẳng ngờ khi vừa chộp trúng bả vai của Lục-Phỉ-Thanh thì chẳng hiểu sao, cả một khối thịt tròn của La-Tín như bị một sức mạnh phi-thường từ đâu dồn tới. Chỉ nghe ‘bùng’ một tiếng, La-Tín bị văng ra xa ngoài ba trượng, tá hỏa tam tinh nằm hôn mê dưới đất.
Thì ra Lục-Phỉ-Thanh đã luyện được tuyệt-kỹ nội-gia công-phu là ‘Chiêm Y Thập Bát Trật’. Một khi đã luyện được môn này đến mức tinh thông thì cả thân thể gần như được một kình-lực nội công trong người bảo vệ. Địch thủ nếu đụng đến người, hay cho dù là chỉ trạm phớt qua y phục thôi thì cũng sẽ lập tức bị đánh vằng trở lại. Nếu nhẹ thì phải té nhủi xuống bị thương, mà nặng ắt phải lăn xuống mà chết ngay.
Tuyệt-Kỹ này Lục-Phỉ-Thanh được một đại danh cao-thủ trong giới võ-lâm là Thiên-Trật-Trương truyền lại cho. Cái hay của ngón nghề này là mượn sức người để đánh người. Địch thủ nếu dùng sức ít thì chỉ bị thương nhẹ, nhưng nếu dùng sức nhiều thì sẽ bị thương nặng và có thể bị nguy hiểm đến tánh mạng nữa.
La-Tín vì dùng sức nhiều nên bị sức phản-kình dội lại cũng dữ. Cũng may y là một cao-thủ với nội công khá cao nên dù bị ngã nhưng không đến nỗi bị thương nặng. Tuy vậy y cũng tởn thần, và hoang mang không hiểu tại sao. Tiêu-Văn-Kỳ tức quá, lông mày dựng ngược lên, hét lớn:
-La hiền-đệ mau đứng dậy đi!
La-Tín lồm cồm ngồi dậy, vừa đau đớn, vừa xấu hổ. Hạ-Nhân-Long chẳng nói chẳng rằng, dùng thế ‘Song Long Thương Châu’ nhắm Lục-Phỉ-Thanh đánh tới. Nhưng y chợt cảm thấy quyền của y như đánh vào khoảng không, mà bóng Lục-Phỉ-Thanh không thấy đâu cả. Rồi Hạ-Nhân-Long thấy trên cánh tay hắn như bị ai đánh xuống một cái nhẹ và sau lưng có tiếng ai nói:
-Ngươi hãy chịu khó về mà luyện võ-công thêm mười năm nữa!
Hạ-Nhân-Long giật mình quay lại, nhưng vẫn không thấy Lục-Phỉ-Thanh đâu cả. Đang định trở mình thì bỗng nhiên ‘chát chát’ hai tiếng, y cảm thấy hai bên má đau nhức vô cùng, và trước mắt rõ ràng là một bầy đom đóm đang bay ngang qua. Tiếng Lục-Phỉ-Thanh nói như chọc vào ráy tai của t:
-Mày là thằng con nít vô lễ! Hôm nay ta dạy cho một bài học để ráng mà nhớ cho kỹ trong lòng.
Luận về tài-nghệ thì võ-công của Hạ-Nhân-Long còn cao hơn La-Tín một bậc. Nhưng chẳng qua là vì hắn giở thái-độ trịch-thượng, ăn nói ngạo nghễ cho nên Lục-Phỉ-Thanh chẳng chút nhân nhượng, cố tình hạ nhục hắn cho bõ ghét.
Thấy Hạ-Nhân-Long bị hạ nhục, Tiêu-Văn-Kỳ vừa kinh hãi vừa tức giận. Y phóng một cái như tên bắn đến trước mặt Lục-Phỉ-Thanh. Thân hắn chưa tới nơi thì hơi gió từ quyền của hắn đã đánh tới trước rồi.
Lục-Phỉ-Thanh thừa hiểu Tiêu-Văn-Kỳ là nhân vật đứng hàng thứ ba trong ‘Quảng-Đông Lục-Ma’, võ-nghệ cao cường, bản lãnh tuyệt vời không phải như La-Tín với Hạ-Nhân-Long nên không dám coi thường, vội dùng ngay thế ‘Vô Cực Huyền Công Quyền’ để ứng phó lại.
Hạ-Nhân-Long trông thấy hai cao-thủ giao đấu với nhau vô cùng ác liệt thì tự lượng sức mình, biết không thể giúp gì cho Tiêu-Văn-Kỳ được đành đứng ngoài xem, chờ có cơ hội tốt mới có thể ra tay được.
Tiêu-Văn-Kỳ bắt đầu đem Thiết Cầm Sát ra sử dụng. Hắn đánh ra rồi thâu vào lẹ như chớp nhoáng, chỉ mong trúng vào được người Lục-Phỉ-Thanh thì dù cho không chết cũng phải biến thành tàn phế.
Ngón Thiết-Cầm-Sát này Tiêu-Văn-Kỳ được chân truyền từ họ Hàn ở Lạc-Dương cho nên tất cả những chiêu thức bí hiểm đều thu thập được hết. Tiêu-Văn-Kỳ phóng ra một chiêu gọi là ‘Mao Huy Ngũ Huyền’ nhắm Lục-Phỉ-Thanh quét ‘vụt’ một cái. Đòn của hắn trông nhẹ hều như một luồn gió không có chút sức mạnh nào, nhưng chính vì đó mới thật là lợi hại, hư hư thật thật, cương ẩn trong nhu. Quyền này là ngón sở trường của hai phái võ ‘Thiết Sa Chưởng’ và ‘Ưng Trảo Công’ hợp lại chế biến ra.
Lục-Phỉ-Thanh thấy công phu của Tiêu-Văn-Kỳ quả đã đến mức cao thâm tuyệt đình thì cũng phải khen thầm, rồi buột miệng kêu lên:
-Hay lắm!
Dứt lời, Lục-Phỉ-Thanh dùng thế ‘Hổ Tung Bộ’, nhẹ nhàng tiến lên một bước đến sát bên cánh tay phải của Tiêu-Văn-Kỳ. Một quyền lợi hại từ tay mặt Lục-Phỉ-Thanh phóng ra, Tiêu-Văn-Kỳ vừa né mình tránh khỏi, vừa dùng Thiết Cầm Sát che chở cho phía trên mặt. Sau đó y dùng hai ngón tay điểm một thế ‘Đao Thương Tề Minh’ vào người Lục-Phỉ-Thanh.
Lục-Phỉ-Thanh rùn mình xuống, dùng ‘Ấn Chưởng Quyền’ đánh mạnh một cái trúng Tiêu-Văn-Kỳ làm rách toẹt vạt áo của hắn trước bụng.
Nhưng Lục-Phỉ-Thanh vốn lòng lành, thấy không nỡ hủy hoại mười mấy năm luyện tập công-phu của hắn, lại càng không nỡ hủy hoại cuộc đời hắn trong một trận đánh nên đòn ấy ông ta chỉ dùng có năm thành công lực mà thôi.
Lục-Phỉ-Thanh tưởng như thế cũng đủ cho Tiêu-Văn-Kỳ tự thẹn mà kéo đồng đảng đi khỏi để ông ta được thong thả tìm nơi yên ổn mai danh ẩn tích. Không ngờ lòng nhân từ của Lục-Phỉ-Thanh lại là cái họa sát thân!
Tiêu-Văn-Kỳ thừa hiểu đối phương tha mạng hắn, nhưng đã không mang ơn thì thôi, hắn còn thừa thế dùng thế đánh thẳng tới trong lúc Lục-Phỉ-Thanh thu quyền về, để hở các chỗ yếu trên thân. Lục-Phỉ-Thanh không ngờ hắn lấy oán trả ân, cả kinh vừa định né tránh thì thình lình, Tiêu-Văn-Kỳ tay kia dùng thế ‘Lưu Truyền Hạ Sơn’, chĩa năm ngón tay như năm lưỡi dao đâm mạnh vào mặt Lục-Phỉ-Thanh.
Vì không kịp đề phòng, Lục-Phỉ-Thanh bị độc thủ của Thiết-Cầm-Sát đánh trúng hai cái vào chỗ nhược. Tuy nhiên, Lục-Phỉ-Thanh là cao thủ bậc nhất của Võ-Đang phái nên dù thất thế nhưng tinh-thần không bấn loạn. Hai tay ông chắp lại, dùng để hộ vệ các huyệt đạo trên người, và tránh được ba chiêu kế tiếp của Tiêu-Văn-Kỳ.
Lục-Phỉ-Thanh thối lui ba bước, không nói một tiếng nào, điều thần vận khí ngầm điều trị. Ông ta biết là khi bị trọng thương thì nếu để hỉ nộ ái ố phát ra ắt nguy đến tánh mạng.
Tiêu-Văn-Kỳ được nước nên thừa thắng xông lên, không để cho Lục-Phỉ-Thanh có cơ-hội nghỉ ngơi dưỡng sức. Hắn giở hết những độc chiêu của Thiết Cầm Sát ra quyết giết cho bằng được đối phương.
Lục-Phỉ-Thanh nín thở, nhịn đau, rút Bạch-Long kiếm ra chém nhầu ba nhát. Tiêu-Văn-Kỳ kinh hãi, lách mình ra sau, miện la lớn:
-Anh em mau xông cả vào! Đừng để chậm trễ, không thì tôi chết mất!
Hạ-Nhân-Long lẳng lặng rút thanh Ngô-Câu kiếm phân ra trên dưới hai đường hươi lên vùn vụt, một nhát đâm ngay yết hầu, còn một nhát móc ngay sườn Lục-Phỉ-Thanh, khí thế mạnh bạo, mười phần hiểm ác.
Tuy gọi là kiếm nhưng kỳ thực Ngô-Câu kiếm là một cặp song-câu, vừa sử dụng được như kiếm, vừa sử dụng được như câu; đâm chém thì theo kiếm-pháp, còn móc, giật, nghéo, mổ thì theo câu-pháp, tiện lợi cả hai bề. Tóm lại, Ngô-Câu kiếm có thể sử dụng được như song kiếm, song câu, hay một kiếm một câu.
Song-câu không được liệt vào hàng 18 món binh-khí chánh-tông. Nhưng nó là một món vũ-khí giết người lọi hại, lại khó luyện nên người làm tướng ít dùng. Chỉ có những tay giang-hồ hành hiệp bản-lãnh cao-siêu mới có thể rèn luyện và sử dụng nó đúng mức mà thôi. Song-câu vừa công được, vừa thủ được. Nhưng người sử dụng nó nếu không luyện đến mức tinh-vi rất có thể bị nó phản lại làm nguy hiểm đến tánh mạng. Lúc luyện tập nếu sơ ý cũng có thể bị thương như không. Khi song câu tung ra thì phải lập tức thu lại ngay, vì nếu chậm tay bị đối thủ phản công lại thì có nước chết không kịp ngáp!
Lục-Phỉ-Thanh thấy Hạ-Nhân-Long hai tay sử dụng song-câu, mà mình lại đang bị trọng thương thì không dám khinh địch liền dùng ngay thế ‘Hạnh Hoa Xuân Vũ’ trong Nhu-Vân-Kiếm-Thuật, là một lối kiếm-pháp có thể vừa công vừa thủ.
Hạ-Nhân-Long vừa đỡ được chiêu ‘Hạnh Hoa Xuân Vũ’ thì Lục-Phỉ-Thanh lại đánh tiếp một đòn ‘Tam Hoàn Âm Nguyệt’ làm cho y rối loạn tâm-thầm. Cặp Ngô-Câu kiếm của hắn bị lép vế hẳn, không còn lợi hại như lúc đầu nữa. Từ thế công, Hạ-Nhân-Long bị dồn vào thế thủ.
La-Tín đứng ngoài biết Hạ-Nhân-Long không phải là đối thủ của Lục-Phỉ-Thanh bèn rút cây ‘Thất Thiết Cương Tiên’ to lớn nhảy vào trợ lực.
Lục-Phỉ-Thanh biết mình trong thế ‘mệt đấu khoẻ’ nên không muốn dùng sức đối chọi với La-Tín. Thay vì dùng Bạch-Long kiếm chọi thẳng với cây roi sắt to lớn, ông ta xoay lưỡi kiếm, nhắm mấy ngón tay của La-Tín mà chém. La-Tín la lên một tiếng “Ối!” rồi buông cây ‘Thất Thiết Cương Tiên’ xuống đất rồi nhảy ra khỏi vòng chiến.
Tiêu-Văn-Kỳ thừa cơ bất ý lanh lẹ đánh ra một đòn mạnh mẽ sau lưng nơi bả vai của Lục-Phỉ-Thanh.
Năm trước, Tiêu-Văn-Kỳ đến Lạc-Dương thụ-giáo với họ Hàn. Ngoài chưởng-pháp, họ Hàn còn dùng một thứ gang rất tinh khiết gọi là tinh-cương chế tại ra một món vũ khí gọi là Thiết Cầm Sát.
Hàn gia vốn nổi tiếng về môn ‘Thiết Cầm Sát’, truyền đến người con gái thứ năm là Hàn-Ngũ-Nương thì không còn ở chốn phồn hoa đô hội nữa mà lên chốn thâm-sơn để cố luyện cho tuyệt-kỹ mình ngày môt thêm tinh-vi.
Thứ vũ-khí này hai đầu thì nhọn, hai bên thì sắc; khi công thì chẳng khác gì cây ‘khai sơn đại phủ’ (#6), khi thủ thì giống như một cái khiên. (#7)
Trong ruột, Thiết Cầm Sát trống rỗng như như lòng một ống đồng chứa được 12 cây đinh nhọn y hệt như mũi tên gõi là ‘Cầm Sát đinh’. Một vũ-khí có đến ba cái lợi hại như vậy thì đủ hiểu nguy cơ thế nào cho người phải đối phó cùng nó.
Tiêu-Văn-Kỳ được họ Hàn truyền dạy cho cả chưởng-pháp lẫn Thiết Cầm Sát. Cây Thiết Cầm Sát của hắn là vật mà con gái nhà họ Hàn chỉ dùng để tập luyện nên y thường bị giới giang-hồ chê bai ố ngạo. Tiêu-Văn-Kỳ rất lấy làm khó chịu. Do đó, y mới dùng tinh-cương đập thành một cây thiết bài để cầm tay cho oai. So với Thiết Cầm Sát của họ Hàn thì có khác đôi chút, nhưng cách sử dụng thì không sai biệt tí nào.
Lục-Phỉ-Thanh nghe sau lưng có tiếng gió liền nhảy qua một bên. Thế là Thiết Bài của Tiêu-Văn-Kỳ đã đánh trật. Lục-Phỉ-Thanh kế đến xoay mình hớt cho Tiêu-Văn-Kỳ một nhát kiếm lẹ như sao xẹt.
Tiêu-Văn-Kỳ lấy Thiết-bài ra chống đỡ, nhưng bị Nhu-Vân-Kiếm của Lục-Phỉ-Thanh chém tơi bời như mưa tuôn, lá rụng. Theo định luật thường thì bất luận là sử dụng quyền hay vũ-khí, hễ một khi đánh ra một chiêu thì tay hoặc khí-giới phải thu về rồi mới có thể đánh tiếp chiêu thứ hai được. Nhưng Nhu-Vân-Kiếm là một môn tuyệt kỹ hiếm có. Một khi đã rèn luyện tinh thông thì sau khi xuất chiêu, mặc cho đối phương né tránh hay đón đỡ cách nào, vẫn có thể chém tiếp nhiều nhát kế tiếp nữa. Lối đánh đó thường làm hoa mắt đối phương. Nội lo mà chống đỡ cũng đã mệt rồi chứ đừng nói là phản công.
Hạ-Nhân-Long và La-Tín thấy Tiêu-Văn-Kỳ bị Lục-Phỉ-Thanh dùng Bạch-Long kiếm đàn áp liên miên, tay chân luống cuống hết cả, tình trạng hết sức khốn đốn. Hai người láy mắt bảo nhau rồi chia hai phía tả hữu xông vào trợ chiến, đánh rất hăng.
Một cây Thiết-bài, Một cây Thất Tiết Cương Tiên và một cặp Ngô-câu kiếm vây chặt Lục-Phỉ-Thanh vào giữa.
Lục-Phỉ-Thanh sau khi bất cẩn trúng phải độc thủ của Tiêu-Văn-Kỳ, giờ lại phải luôn tay chống đỡ với ba người nên sức lực có kém đi, và vết thương bắt đầu hành hạ thật khó chịu.
Lục-Phỉ-Thanh biết nội thương đã bắt đầu bộc phát. Nếu kéo dài cuộc đấu thì rất có thể đưa tánh mạng mình đến chỗ hiểm nghèo. Nhu-Vân-Kiếm tuy lợi hại nhưng thật khó một lúc mà hạ được cả ba tên cường địch. Còn như đánh vẹt một mạng để dùng thuật phi hành mà tẩu thoát thì không phải là thượng sách. Ông ta đang bị thương, chân khí suy giảm rất nhiều. Do đó thuật phi hành sẽ chậm đi nhiều. Nếu bị hai tên đuồi theo thì thật khó lòng mà thoát khỏi.
Thật sự lúc này ba người chỉ cần cầm cự ngang ngửa với Lục-Phỉ-Thanh mà thôi vì chúng biết trận đấu càng kéo dài thì phần thắng sẽ về chúng. Lục-Phỉ-Thanh vừa đánh cầm chừng, vừa than thầm:
-Không ngờ Lục-Phỉ-Thanh hôm nay phải chết dưới tay ba con chuột như thế nào, hỡi ôi!
Nhưng rồi ông ta lại nghĩ:
-Quân-tử phục thù, mười năm chưa muộn. Việc gì mà ta phải liều lĩnh với chúng chứ! Hãy tìm kế thoát thân rồi sau này sẽ tìm đám ‘Quảng-Đông Lục Ma’ thanh toán món nợ này sau có hơn không.
Nghĩ đoạn, lòng Lục-Phỉ-Thanh lắng dịu lại, không còn nghĩ đến chuyện đấu trí mạng nữa. Ông ta định thần lại để vết thương không vì xúc động mà phát ra. Thanh Bạch-Long kiếm bỗng từ thế công xoay sang thế thủ, dùng để hộ thân chứ không còn đâm chém loạn xạ nữa.
Thấy thế, bọn Tiêu-Văn-Kỳ mừng thầm vì tưởng lầm là Lục-Phỉ-Thanh đã kiệt sức, chỉ còn sức thủ mà không còn sức công nữa.
La-Tín la lớn:
-Hắn kiệt lực rồi! Tiêu tam ca, đừng cho hắn nghỉ tay. Cứ dồn hắn vào giữa mà đánh thì không giết được hắn cũng có thể bắt sống được.
Tiêu-Văn-Kỳ đáp:
-La hiền-đệ! Anh nhường cái đầu hắn cho em đó. Hãy chặt lấy đem về cho triều-đình mà lập công. Mạng hắn sắp tận rồi!
Ha-Nhân-Long cũng xen lời, nói:
-Kiếm-thuật hắn còn lợi hại lắm, chưa thể giết hắn ngay được. Chúng ta hợp nhau lại làm nhục hắn một phen cho hả giận đã. Kìa, hai tay hắn bủn rủn cả rồi!
Cả ba vui mừng reo hò rồi cùng tiếp tục hợp sức tấn công Lục-Phỉ-Thanh tới tấp, tưởng như cá đã vào rọ, chỉ cần tháo gỡ đem về nhà mà làm thịt thôi.
Lục-Phỉ-Thanh không chút giận dữ trước những lời của bọn Tiêu-Văn-Kỳ. Ông bình tĩnh sử dụng Bạch-Long kiếm, đem những đường gươm tuyệt diệu trong Nhu-Vân kiếm-thuật ra ứng phó. Lục-Phỉ-Thanh quát lên một tiếng, nhắm La-Tín chém liền hai nhát ngang phía cổ. La-Tín hoảng hốt lùi ra sau mấy bước, để hở ra một khoảng trống giữa vòng vây.
Lục-Phỉ-Thanh không bỏ lỡ cơ-hội, liền dùng ngay thế ‘Mãn Thiên Hoa Vũ’. Kiếm quang xẹt qua xẹt lại, tả hữu, trên dưới, trước sau, như bão táp mưa sa. Tiêu-Văn-Kỳ và Hạ-Nhân-Long cả kinh tránh né liên hồi. Lục-Phỉ-Thanh liền tung người một cái đã ra được khỏi vòng vây.
La-Tín thất thanh kêu lên:
-Không xong! Tên giặc già này toan chạy trốn. Đừng cho nó trốn thoát!
Dứt lời, y bèn rượt theo Lục-Phỉ-Thanh. Mé sau, Tiêu-Văn-Kỳ và Hạ-Nhân-Long cũng nhập bọn. Thấy dùng khinh công khó theo kịp nổi Lục-Phỉ-Thanh, Tiêu-Văn-Kỳ liền cầm Thiết-bài nhắm về phía Lục-Phỉ-Thanh bắn ra ba mũi ‘Cầm-sát đinh’.
Lục-Phỉ-Thanh vốn đã đề-phòng ám toán nên chỉ nghe tiếng gió là đã biết ngay. Ông ta dùng kiếm gạt được hai mũi đinh đồng thời tung mình lên để tránh mũi thứ ba. Tiêu-Văn-Kỳ lại phóng thêm ba mũi ‘Cầm-sát đinh’ ra ba phía, mục-đích không để cho Lục-Phỉ-Thanh dùng khinh công tẩu thoát được nữa.
Thấy cả ba mặt đếu có ám-khí phóng tới, Lục-Phỉ-Thanh liền đứng nguyên tại chỗ lấy tay bắt từng cái một.
Lục-Phỉ-Thanh biết ám-khí ‘Cầm-sát đinh’ này của Tiêu-Văn-Kỳ rất lợi hại, không thể để cho nó ghim vào thân thể được. Vì người trúng phải ‘Cầm-sát đinh’ rồi thì có rút được ra thì da thịt mình cũng bị dính vào đó mà theo ra. Nhưng nếu cứ để yên như vậy thì chỉ sau một thời gian ngắn ngủi là phải chết.
Những môn phái chính tông như Thiếu-Lâm và Võ-Đang không bao giờ dùng ám-khí để đánh với bất cứ ai, và gần n
  • Hồi 27
  • Hồi 28
  • Hồi 29
  • Hồi 30
  • Hồi 30b
  • Hồi 31a
  • Hồi 31b
  • Hồi 32
  • Hồi 33
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---
    !!!3643_21.htm!!!v>Xoay qua Thạch-Song-Anh, Trần-Gia-Cách nói:
    -Về phần Thập-nhị đương-gia, tôi muốn nhờ cậy một việc.
    Thạch-Song-Anh khẩn khoản nói:
    -Nếu Tổng-Đà-Chủ đã sai bảo, tôi dám nào không hết lòng hay từ nan.
    Trần-Gia-Cách ngồi thảo một phong thư rồi nói:
    -Anh đem thư này lập tức qua xứ Hồi trao tận tay tù trưởng Mộc-Trác-Luân lão anh hùng.
    Kế đến, Trần-Gia-Cách lại nói với Lạc-Băng:
    -Văn tứ tẩu hãy cho Thập-nhị đương gia mượn thần mã. Việc quá gấp rút, phải tiến hành ngay mới kịp!
    Cắt đặt mọi việc đâu đó xong xuôi, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội lại xuôi theo dòng nước tách xa bờ 20 dặm. Neo thuyền dưới vực hạ lưu Hoàng-Hà, Trần-Gia-Cách bảo Tưởng-Tứ-Căn trói trói Vương-Bổn-Lương trong khoang thuyền rồi cùng nhau lên bờ tìm nơi tạm nghỉ chân...
    Chú thích:
    (1-) “Hàn-Vương đao pháp” là do một danh tướng đời nhà Tống tên Hàn-Thế-Trung nghiên cứu ra. Hàn-Thế-Trung sử dụng song đao, một dài, một ngắn. Đao dài gọi là “Đại-Thanh”, còn đao ngắn gọi là “Tiểu-Thanh”. Nhờ song đao này cộng thêm với đao pháp của mình sáng tạo mà Hàn-Thế-Trung xung trận chém tướng giết được không biết bao nhiêu giặc Kim, lập nên bao chiến công hiển hách và được phong Vương-tước.
    (2-) Ngân xà: rắn bạc.

    Truyện Thư Kiếm Ân Cừu Lục ---~~~cungtacgia~~~---
    --!!tach_noi_dung!!--

    Đả Tự Cao Thủ: Dương Hồng Kỳ
    Nguồn: mây 4 phương
    Được bạn: mọt sách đưa lên
    vào ngày: 15 tháng 8 năm 2004

    --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--