Mụ Ngan

     ự chết chóc ghê rợn trong họ nhà Gà không ảnh hưởng đến các chú Ngan, thím Ngan cũng cùng ngụ một sân. Loài Ngan khỏe mạnh, ít khi trở trời mà bị trái gió.

 

Xóm Gà Vịt này có hai con Ngan trắng.
Độ nọ cũng còn có thêm một đàn Ngan nhỏ. Nhưng bây giờ đã tan tác mất cả. Chẳng phải vì bệnh dây, mà là vì nhiều sự không may khác. Đời sống lăn dài vào thời gian rộng lớn và cao cả, triền miên đã bao nhiêu năm, trong khối óc tí hon của muôn loài. Với chúng - nhất là những con vật luẩn quẩn xung quanh thì trái lại. Ngày tháng vụn vặt, chỉ có những đau thương nhỏ bé, những xa cách ít đáng để ý. Ấy là cuộc sống tủn mủn, bèo nhèo. Chúng chẳng làm hại ai, chẳng hít hớt mất của ai ít khí trời, dù chúng cũng thở ra, thở vào cẩn thận. Như những con giun, cái kiến làm sao mà được nhòm ngó tới.
Đếm đàn Ngan con có được sáu cái đầu cả thảy. Sáu cái đầu xinh xinh, sáu cặp mắt tròn xoe, đen láy và ngơ ngác. Chúng luẩn quẩn líp nhíp xung quanh hai bàn chân tõe ngón rất thô kệch của bà mẹ. Mà tâm tính của mẹ chúng thì cũng “thô kệch” như hai bàn chân nọ. Mụ đần độn đến phát ghét lên được. Thực là một thứ đàn bà đoảng. Mặt mũi lúc nào cũng ngẩn ngơ, lúc nào cũng lắc lư như một bà nhiêu ra chợ mà bị kẻ cắp xén mất túi. Mỗi khi cất bước, đôi chân khụng khiêng đi vòng kiềng lại đu đưa tất cả mình lên. Nom đến chậm.
Cũng bởi cái tối dạ, chậm chạp ấy mà vô tình, mụ đã giết một đứa con của mụ.
Một hôm, cu Lặc đem ngô ra sân cho Ngan ăn. Mụ Ngan xô đến. Đàn con cũng tất tả chạy theo. Chúng len, đun, tranh nhau trèo vào chậu ngô. Mẹ chúng đứng ngoài xốc cành cạch từng hột một.
Nhưng lũ trẻ leo vào đầy chậu, khiến cho mụ bị vướng, không xoi được hột nào nữa. Tức mình mụ cũng thò chân vào cái chậu sành. Rồi mụ bước nốt cả chân kia vào. Thành ra mụ đứng phè phè giữa chậu, cứ cúi xuống mà xốc, tranh ăn của cả các con. Một bàn chân mụ - cái bàn chân có ba ngón trước tõe ra, mạng liền với nhau - giẫm lên lưng một con nhỏ. Con Ngan nhỏ kêu thảm thiết. Nhưng mụ mẹ vẫn chưa biết, vẫn dí chặt chân lên lưng nó mà đớp ngô như thường. Đến khi mụ dịch chân đi để thò mỏ ăn chỗ khác thì con Ngan khốn nạn kia không thể đứng dậy được nữa. Nó gãy xương lưng.
Ăn no rồi, mụ vỗ hai cánh dẫn năm trẻ xuống ao lội chơi. Mặc thây một con bị trọng thương, cứ việc nằm rụi, kêu khắc khoải. Mụ lờ tít hay là không biết. Đến chiều, con nhỏ ấy chết. Mụ như không biết có một đứa con mình vừa mới chết. Thế thì cố nhiên không phải lỗi ở mụ. Bởi vì mụ vẫn thò ra thụt vào cái cổ, vẫn lúc lắc bộ đuôi. Những tiếng kíu kíu thốt ra, như vẫn biểu lộ một nỗi vui sướng vu vơ, ngây ngô.
Thế là một Ngan con chết. Mươi hôm sau, hai mống nữa cũng chết theo. Chúng bơi dưới ao, rúc đầu mò vào ven bờ. Hai con lập tức bị lươn rút vào tổ. Lũ trẻ con trong nhà đi tìm chỉ thấy hai cái đuôi chổng vọc lên. Cái đầu kẹt trong lỗ, bị lươn cắn thủng một vết sâu hoắm.
Còn lại có ba nhách lơ láo.
Lại một hôm nữa, mụ dẫn ba trẻ ấy ra ngoài ruộng chơi. Mấy bữa trời đổi gió, cả đàn Diều Hâu ở miền xa đâu trên núi bay về. Chúng dang cánh ra liệng vòng tròn trên đồng lúa. Chúng lửng lơ trong không, lẫn vào từng khoảng mây xanh. Những tiếng kêu rin rít nổi lên như tiếng sáo đẩu. Không phải là chúng cứ liệng chơi “xây giếng cho tròn” mãi ở trên trời cao thăm thẳm ấy. Chúng liệng đi, liệng lại thỉnh thoảng sà xuống ở một chỗ quạnh quẽ, hoặc để tìm một cái ngòi nước vào mà tắm, hoặc để kiếm mồi. Hôm ấy, có một con Diều Hâu liệng vòng tròn rất cao. Bỗng nghiêng cánh, đâm bổ xuống. Nó vừa trông thấy mấy cái mồi. Đó là ba con Ngan nhỏ cùng với mẹ ra nhởn nhơ ngoài đồng. Diều hâu sà xuống tận nơi, thò dài hai cái chân sắt, quắp lấy một con Ngan, rồi bay bổng lên, vụt đi. Nó tìm đến một nơi thanh vắng, thả Ngan xuống, mổ cho chết rồi ăn thịt. Một lát sau, có một gã Diều Hâu nữa sà đến cũng quắp một con Ngan. Văng vẳng tiếng Ngan kêu thảm thiết trên cao.
Mụ Ngan mẹ cũng nghe được rõ ràng những tiếng kêu cứu ấy. Bởi vì mụ có nghển cổ, có liếc mắt lên trời. Nhưng rồi mụ lại cúi xuống mổ cỏ và lúc lắc cái đuôi của mụ. Còn có mỗi một con Ngan nhỏ khiếp sợ, chúi vào bụng mẹ. Song mẹ nó cũng vô tâm, không để ý chi. Thế là hai con Ngan nhỏ bị Diều Hâu bắt ăn thịt. Phải tay một mụ Gà thì không bao giờ mụ chịu im như vậy. Sống chết mụ cũng xù lông ra, nhảy lên đánh nhau ngay với quân thù. Đằng này, có thể như không bao giờ mụ Ngan nghĩ đến cái điều phiền nhiễu đó. Mụ đủng đỉnh dẫn một con lõng chõng về, mỏ và mắt thản nhiên như lúc đi ra.
Cả đàn sáu con Ngan, chỉ còn vỏn vẹn có một. Cái sân Gà Vịt vừa bị một trận chết dây kinh khủng, bây giờ lại càng vắng vẻ thêm. Các cổng chuồng bị bỏ trống, không cài then. Những lối bùn đã mọc rêu xanh. Chẳng có mấy vết chân ba ngón qua lại.
Tối đến, nhà Ngan ngủ dưới gậm chuồng gà. Con Ngan nhỏ nằm bên cạnh, mỏ rúc xuống cánh. Bao giờ chúng cũng ngủ đây. Cái giống Ngan luộm thuộm yên trí rằng ngủ ở đấy đã là sạch sẽ.
Một đêm kia, có một con rắn mai gầm từ dưới ao bò lên. Thân nó trườn bằng một cái đòn gánh và vằn những khúc vàng, khúc đen. Bởi vậy, rắn ấy còn có tên là rắn cạp nong cạp nia. Nó luồn men bờ ao, đánh hơi thấy mùi tanh ở chuồng gà thì bò vào. Và nó bắt gặp ba con Ngan, liền rướn bạnh cổ ra, phun phè phè. Hai Ngan lớn lật đật chạy. Bởi rắn ấy là ông Ba Mươi, đối với các loài vật trong nhà. Cũng chẳng biết có phải vì sợ mà vợ chồng nhà Ngan chạy, có khi chẳng biết sợ cũng nên. Chú Ngan nhỏ chậm chân, bị rắn tiêm một nhát vào lưng. Tội nghiệp, chú nằm quay lơ, giẫy giụa một lát thì gục xuống chết. Con rắn lừ đừ trườn đi mất.
Sáng hôm sau, Lặc thấy xác con Ngan nằm chết rũ. Nhìn một vệt dài lằn nhẵn trong rãnh bùn ướt từ dưới ao lên trên gậm chuồng, Lặc biết ngay là con Ngan kia bị rắn phun. Nó chạy vào nhà, hô hoán ầm lên. Lũ trẻ thập thò ra xem, níu nhau, rón rén bước từng bước một, như sợ con rắn nguy hiểm hãy còn luẩn quẩn đâu quanh ở đấy.
Lặc xách cẳng con Ngan lên. Nó ngắm nghía và nói:
- Hoài của. Thế lày mà rắn cắn chết. Thịt ăn đương mềm nắm. Chốc nữa tôi vào xin ông mang về...
- Ăn?
- Chứ nỵ gì! Hôm lọ, con gà chọi tôi cũng mang về ăn đây. Chỉ phải bỏ cái diều đựng cơm thôi. Ngon đáo để. Tôi gì, thịt ăn chẳng có, có thịt vứt đi.
- Nhưng đằng này rắn phun độc lắm.
- Độc xộc vào mồm. Tôi đếch sợ.
Lũ trẻ xanh mắt lại. Chúng chắc rằng ăn thịt Ngan rắn cắn, thể nào nhà Lặc cũng chết ngay đuôi ra. Lặc mang con Ngan về.
Nhưng sáng hôm sau, Lặc vẫn đến như thường. Mặt mũi vẫn hồng hào và cái bụng vẫn như chiếc trống cái. Cả bọn trẻ xúm lại.
- Ăn hết thịt Ngan chưa?
- Mấy con lữa cũng hết bay.
- Thế thực anh không sợ nọc rắn độc hử?
Lặc nói nhỏ, ra lối bí mật:
- Sợ quái gì. Núc nuộc gà thì bỏ một cái đinh lăm phân vào lồi. Sắt kỵ nhau với rắn, thế nọc rắn tan ra lước. Chỉ phải bỏ đi có lước suýt, còn thì nhắm được tuốt!
Lũ trẻ ngẩn ngơ nhìn nhau. Ra lối phục cái mẹo ấy là đúng.

 

Con Ngan nhỏ cuối cùng chết đi, hết dấu vết của đàn Ngan. Không ai nhớ nữa. Cả mẹ và cả đến cha chúng. Tàn mùa hè thì hoa xoan rụng.
Hai vợ chồng nhà Ngan lại quanh quẩn. Chồng là một chàng Ngan bạch. Thằng cha to gấp đôi vợ. Loài này, bao giờ đực cũng lớn hơn mái. Toàn thân trắng muốt. Nhưng ở cuối mỏ, sùi lên những mụn đỏ. Nếu nó in ít, có thể tưởng đấy là trứng cá của loài Ngan, nhưng đây nó dầy bì bì, đỏ tía như màu hoa mào gà và ngay ở trên trán, mụn đỏ cũng mọc cao lên như một cái nấm. Những cái mụn đỏ ấy làm xấu dáng của Ngan, dù là một con Ngan trắng muốt. Vì còn có những thứ Ngan khác, hoặc đen biếc, hoặc trắng đốm đen, bẩn như những bà già trong làng đi chợ mùa lạnh mà mặc váy rách vá chùm vá đụp.
Nhưng vẫn chỉ vì tính nết của Ngan làm cho người ta ít ưa chúng.
Chàng Ngan kia bướng bỉnh lạ. Nếu bị người đuổi, chàng chỉ rảo từng bước thủng thỉnh. Và lại còn thò cổ lại “hỏi han” người ta. Nếu chỉ bị đuổi xoàng, chàng còn mổ lại người ta là đằng khác nữa. Chàng không nhát như mấy anh Vịt, lúc nào cũng chỉ đứng ngẩn tò te ra nghe ngóng để rình chạy. Song chắc là vốn bẩm sinh ra thế, chứ thực Ngan ta chẳng có tâm tính chi. Đã một lần, có một đứa trẻ ngắt hai chiếc lá khoai san hà. Nó vật hai con Ngan xuống và lấy lá khoai chùm kín cả đôi bên mắt của chúng. Đôi Ngan bừng mắt ra, thấy màu xanh xanh của lá phủ trên mặt thì quên hết cả trước sau. Chúng cho rằng chúng đương được lơ mơ ở trong bụi cỏ. Bụi cỏ non xanh và mát. Thế là chúng cứ nằm chỏng chân lên, im lặng không nhúc nhích, cho mãi tới lúc hai chiếc lá khô cong, hé nhìn lên thấy trời, mới lóp ngóp bò dậy. Lại thủng thỉnh bước một, gieo những bước nặng lạch bạch xuống nền sân.
Một hôm chàng Ngan lừ đừ ra đầu ngõ. Hắn đi ngơ ngác lờ phờ, lắc lư cái mình, lắc lư cái chân, mà lắc lư cả đến chiếc đuôi ngắn củn. Bất đồ gặp một đứa trẻ độ ba bốn tuổi, chập chững đi vào trong ngõ. Ngõ hẹp và sâu, có những cây xoan cao, thân mốc trắng, cành nặng trĩu những chùm quả chín khô, vàng thẫm. Thằng bé cũng trông thấy con Ngan. Nó cởi trần, cởi truồng nhưng nó không sợ Ngan chút nào. Nó thò tay ra vớ lấy đầu con vật. Chàng Ngan cũng chẳng sợ thằng bé, chàng liền rúc một mỏ vào rốn nó. Thấy buồn buồn, nó lấy tay gạt đi. Chàng Ngan lại rúc nữa. Lần này chàng rúc xuống phía dưới. Đúng. Thế là chàng cứ bặp bặp hai cái mỏ, vừa lôi vừa nhay thằng bé.
Thằng bé giãy giụa, gào “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” ầm lên. Mọi người chạy ra thì bé đã cố dứt được cái mỏ Ngan tai quái ra rồi. Chẳng ai ngờ là gã Ngan đờ đẫn nọ lại vừa đánh nhau với thằng bé. Bởi thằng bé chưa biết nói sõi. Nó chỉ khóc. Mà gã Ngan thì vẫn đứng cạnh đấy, thò dài cổ ra “hỏi han” mọi người, với một điệu ngẩn ngơ.
Người ta tưởng có một ổ kiến lửa chi đó ở quanh đấy.

 

Sau nhà, có một vườn cải. Đấy là một khoảng đất tận góc vườn đằng kia, giáp bờ ao, vun xới bón tưới do công trình của Lặc. Cũng là ở trong vườn, nhưng Lặc rào kín bốn phía. Để đề phòng sự tàn phá của bọn Gà Vịt nghịch ngợm. Chỉ hở mỗi một cái cửa nhỏ. Mỗi ngày hai buổi, Lặc xách vò nước vào tưới.
Bốn luống cải chạy đều một hàng. Màu xanh tươi tắn trải lên trên màu đất vàng sẫm. Có luống vừa bén chân, mới trổ được đôi ba tờ lá bé. Những mảnh lá xanh rờn, có khía răng cưa xung quanh, khum xuống sát đất. Cải này trồng để ăn vào tết Nguyên Đán. Cũng có luống những tầu lá cải đã vồng cao. Khía lá rách mảnh vào chiều sâu. Ở giữa chòm lá lòe xòe, vươn lên một cái thân dài mụ mẫm và phấn trắng. Đầu thân, lơ thơ có những chùm hoa nhỏ, những chùm hoa của những đóa hoa nhỏ xíu ấy, nở ra những cánh vàng li ti. Đó là những luống cải đã già rồi để làm dưa. Nhưng vườn chỉ đẹp, khi những cây cải già nở hoa vàng. Có không biết bao nhiêu bướm trắng từ xứ mô tê nào rủ nhau đến chơi vườn cải. Chúng họp thành đàn, bay rập rờn trên từng cánh lá. Chỉ bay thôi mà không đậu. Những cánh trăng trắng phấp phới trên nền cải xanh lốm đốm hoa vàng. Lại thêm mưa xuân về sớm. Mưa không ra mưa, mà là trời đổ bụi mưa xuống. Trước gió hiu hiu, những bụi trắng bay loăng quăng, vẩn vơ.
Căn vườn xinh xinh là thế, mà một bữa kia, có kẻ phàm phu nào vào bới tung hết cả lên. Chỉ vì hôm ấy, Lặc tưới vườn nhưng lúc ra quên cài then cửa. Một lúc sau, nghe có tiếng khịt khịt thở mũi. Rồi lại tiếng chân lạch bạch. Rồi thì một cái mỏ vàng to bè bè, hai con mắt lơ láo và cả cái đầu đỏ khé, thò vào trong phên. Thấy phên ngỏ rộng, hai cái chân thấp lũn chũn cũng rún lên nữa: à, chàng Ngan đực đương ỳ ạch leo vào vườn. Chàng vừa leo vào xong, còn đứng nhởn nhơ nhìn khu vườn man mác một màu xanh ngợp mắt, thì ở ngoài lại có tiếng thở, lại có tiếng chân đi, lại có cái đầu đỏ nữa thò vào. Con mụ! Mụ Ngan cũng nhảy vào vườn nốt.
Ôi chao! Thực là hả hê, thực là phê pha. Mấy khi có được những lá xanh non và mềm thế kia để cho mát ruột. Vợ chồng nhà Ngan cắm cúi vặt mổ lá cải. Chúng tỉa từng lá, xốc ngoem ngoẻm. Chúng ăn những cây lá cải non.
Chúng nằm xệp cả xuống giữa luống mà xốc xoàn xoạt. Vừa ăn, vừa giày vò, vừa ngoe nguẩy cái đuôi lý thú. Chẳng bao lâu quang đãng hết một góc hai luống cải. Còn trơ lại mặt đất những cái gốc trụi. Ăn mệt ư? Không, chỉ vỗ cánh đành đạch, đứng nghỉ ngơi một lát rồi lại tiếp tục. Chúng ăn vô hồi kỳ trận. Vườn cải nát hết. Đàn bướm trắng lờn vờn trong bụi mưa. Bụi mưa vẫn phơi phới xuống. Hai cái mỏ, hai cái chân, giẫm và nuốt tan hoang cả.
Cuộc tàn phá đương dữ dội thì có một đứa trẻ đi ra vườn, nghé qua khe nứa, trông thấy, nó hoảng hốt chạy vào trong nhà.
Cu Lặc hớt hơ hớt hải chạy ra. Môi nó mắm lại. Những bước chân giận dữ vang thình thịch, có thể dẫm chết cả chó. Có đứa cướp vườn cải! Có đứa cướp vườn cải! Làng nước ơi, hại cu Lặc chưa!
Lặc giương to đôi mắt mà nhìn vào vườn, hai con Ngan mải ăn, không biết. Đến lúc Lặc bước vào thì chúng mới nghếch mắt lên nhìn, nhưng lại cúi xuống ngay, lại xốc lá cải liền liền. Lặc thì Lặc, nhà Ngan ít cần, mà nói rằng chúng chẳng cần mới đúng. Cửa ngỏ thì đi vào. Có lá non đấy, tha hồ xơi tự nhiên. Giản dị lắm. Nhưng người ta lại không thể nghĩ giản dị như vậy.
Lặc co cẳng đá phốc anh Ngan đực một cái. Thằng nỡm bắn bổng lên, chúi vào khe giậu. Con mụ cũng được ăn một đá tương tự. Chúng lóp ngóp bò dậy, và trong lúc thảng thốt, không hiểu thế nào ra thế nào cả. Chúng vươn cái cổ chĩa là là xuống, trợn mắt lên, đồng thanh cất tiếng kêu kíu kíu. Cái gì thế? Cái gì thế hử?
Lặc đá liền liền. Lũ trẻ reo à à. Mỗi lần bị ngã mà lóp ngóp bò dậy, hai con Ngan lại càng vươn thưỡn cổ ra, đôi mỏ đánh vào nhau cặp cặp. Như cố ý hỏi rồi kháng cự lại. Chúng quay cổ nghênh địch, không chịu chạy. Lặc đá tới tấp. Loài Ngan khỏe thực. Người đá lắm chỉ nghe tiếng bồm bộp. Sau, Lặc xách cổ cả đôi Ngan, đem nhốt vào chuồng. Nó cài kỹ lưỡng cả hai cái chốt lại.
Vợ chồng nhà Ngan bị bỏ tù. Cho đến lúc ấy, chúng vẫn không hiểu chi, cứ vung cổ ra kêu kít kít, rất bướng.
Ba hôm sau, đôi Ngan được thả ra. Chúng vỗ cánh, rướn chân, bay vè vè trong sân. Nhưng bỗng nhiên, chàng Ngan đực vù lên cao. Chị vợ cũng nối cánh. Hai con Ngan trắng phau phau bay bổng lên không trung, thấp thoáng trong nền mây trắng. Chúng bay cả ra cánh đồng. Thực là một sự bất ngờ kỳ khôi. Loài Ngan có bay biếc trên trời bao giờ đâu. Kỳ tình Ngan cũng biết và có thể bay cao lắm. Nhưng ít khi chúng trổ tài cho thiên hạ rõ. Chắc là mấy bữa nay cậu mợ quẩn chân lắm, bây giờ đã được tự do thì xê dịch lên trên trời một tí cho sướng cái thân.
Lặc co cẳng chạy đuổi theo. Hai con Ngan hạ cánh xuống giữa cánh đồng. Lặc túm được và lại xách cổ cả hai, bôông bêêng lôi chúng về nhà.

 

Chàng Ngan đực bị xử tội chết ngay ngày hôm sau.
Người ta bày ra một cái bát chiết yêu. Một đứa trẻ túm hai cánh Ngan, giơ cao lên. Một đứa khác cầm hai chân, Lặc tóm cổ Ngan, vặt nhẵn một tụm lông ở phía mỏ dưới. Nó kề lưỡi dao vào đấy, khía mạnh một cái. Máu đỏ tươi chảy xuống bát. Con Ngan giương mắt ra thở khò khè. Nhưng cái màng trắng ở một bên mi kéo lên, khép kín đôi mắt ấy lại. Nó giẫy mấy cái mạnh, rồi nhuôi ra.
Mụ Ngan đứng cạnh, nhìn vớ vẩn. Mụ nghĩ ngợi chi? Vẫn thò ra thụt vào cái cổ, như là thản nhiên. Thực mụ cũng chẳng biết người ta đương xúm lại để làm gì chồng mụ. Giống này có nhớ chi biết chi. Một việc qua rồi, được coi tựa như việc chưa có lần nào đã tới. Mụ chỉ nhớ khi có hạt ngô đo đỏ, hạt thóc vàng vàng, tàu lá xanh xanh thì xô đến khởi sự ăn.
Mụ chưa bị chết. Mụ chỉ phải xén cụt hai đầu cánh, để từ giờ cụt hứng bay. Nhưng án của mụ cũng đã được tuyên. Ông ngoại tôi nói:
- Còn con Ngan này thì đến hăm ba, cho nó về chầu ông Công.

Truyện O chuột O Chuột Tuổi trẻ Truyện gã Chuột Bạch Đôi Gi Đá Một cuộc bể dâu Mụ Ngan Đực e;i tơ thi nhau dũi đất. Thỉnh thoảng lại rủ cánh phành phạch.
Ấy vậy mà có hai người bạn vàng kia quên cả nắng, quên cả tròi đất nóng nực. Đó là hai trái tim: một anh Gà Chọi và một chị Gà mái nạ dòng. Nếu mà đối Gà Chọi với chàng Từ Hải thì phải kể chị ta vào cái độ cô Kiều gặp người anh hùng đó, sau mười lăm năm luân lạc, trên vai nàng đã đeo nặng hơn ba mươi cái gánh xuân. Mà chàng Từ Hải thì trải bao trận thư hùng, đã tàn tạ rồi mà vẫn có mã, vẫn đỏm dáng như thường.
Cho nên, trời nắng là thế mà thuyền quyên cũng chịu khó đứng ở dưới gốc cây thầu dầu tía, gần bờ ao. Nàng xù bộ lông vàng, phờ phạc, lốm đốm trắng như mớ rơm rửa bát. Vậy mà nàng cũng chớp chóp đôi mắt, rung rung cái mào xám xịt ngả về một bên má.
Nàng nghển cổ lên, nhìn sang phía gốc cam - chỗ có anh Gà Chọi đứng; hơi he hé đôi mỏ, chị cất một giọng oang oác, rất bổng rồi trầm xuống: “Kééééc... kéééc... kééc... k... éc... k... é... é... é... c...”
Ý như làm duyên mấy câu Kiều lẩy.
Cái tiếng éc cuối câu cứ kéo dài, vang động khắp vườn một cách lâm ly và não nuột khiên cho anh Gà Chọi đứng bên kia dường như phải ngơ ngẩn bồi hồi mà nghếch một bên mắt lên nhìn lơ láo. Và chàng vừa kêu cộôc cộôc vừa đi về phía cô ả.
Ấy thế là khách biên đình sang chơi. Kiều nhi bèn ra bộ làm gái, thấy tình nhân thì không hát nữa. Muốn tỏ với nàng rằng ta đây cũng là tay thiệp đời, gà Chọi xõa hai cánh, doạng mấy móng chân để bới đất và cúi mỏ xuống, giả cách vừa mổ vừa kêu cộc cộc, làm điệu gọi mái đến ăn chung. Rất tình tứ. Nhưng mà xác anh ta thì nặng, hai cái cẳng chân to lều nghều, khi anh lấy cái dáng đẹp nhất, cái điệu chân dẻo nhất để bới, trông hóa ra ngây ngô và ngượng nghịu, đến hay.
Chị ả còn làm bộ mãi, không chịu đến. Để cho chàng hết rủ rê, tán tỉnh bằng điệu chân, điệu mỏ, lại xòe cánh ra đập phành phạch. Mà cô nàng cứ còn cao giá làm lơ và lại bắt đầu hát kéc kéc ầm ĩ.
Ôn tồn, dịu ngọt mãi không được thì chột ta tức lắm. Chàng ngẩng đầu lên.
Cái tính hung hăng, nóng nảy cố hữu của chàng ở đâu lại kéo đến ầm ầm. Chàng đỏ mặt tía tai, lộc ngộc chạy đến tận nơi. Chị ả cũng ù té chạy biến phía bờ ao.
Nhưng này, ối ai ơi! Chị ả nõn nường đó chỉ giả cách khệnh khạng một chút đấy thôi. Đến chỗ khuất bóng cây chanh, nàng đã nằm khụy hai chân xuống. Để đợi người yêu.
Sáng nào chị mái nạ dòng ấy cũng lên ổ để đẻ. Mỗi lần đẻ xong, chị nhảy choàng từ trong ổ ra đứng giữa sân mà cục te cục tác rồn rã. Chừng muốn khoe với làng xóm rằng mình vừa mới đẻ được một cái trứng, công phu khó nhọc nhiều lắm đây.
Được có chín trứng ả đã thôi và bắt đầu nằm ấp. Ả ấp ham lắm. Suốt buổi. Quên cả ăn. Cứ nằm sù sù cả ngày thâu đêm trong ổ. Ai động đậy ở đâu gần đấy là ả đã kêu cục cục, lông cánh xù ra, chực những sự vừa chửi vừa đánh.
Ả nằm ấp vừa đứng cữ hai mươi mốt ngày. Từ đầu tuần trăng lưỡi liềm cho tới những đêm trăng chỉ còn nhô lên lúc gà gáy sáng là tới thời kỳ những cái thai bắt đầu cựa quậy và mổ vỏ ra để tìm ánh sáng.
Nửa tháng sau, xung quanh chuồng gà đã ríu rít những gà con. Bây giờ cái mảnh sân sau ấy vui lắm. Qua một ít bữa, chín con gà nhỏ vỡ lông, vỡ cánh và lần lần trên người chúng, hiện ra những màu sắc của một bộ mã. Mỗi con một mã: hoa mơ, tía, trứng cuốc, mãn trắng. Cũng có những đứa đeo cái màu vàng bềnh bệch như mẹ. Đây là một đàn gà pha.
Có thêm những một đàn chín con gà nhỏ, sân và vườn bây giờ trở nên âu tri viên. Cả ngày, rối lên những tiếng líp nhíp, líu nhíu. Gà con, chúng kêu luôn mỏ. Nếu không chép chép to tướng thì ít ít be bé trong cuống họng. Xô nhau cũng kêu. Mổ hạt tấm, cũng kêu. Đến cả khi mẹ ngồi xuống, xòe cánh ra cho chúng rúc vào bụng, chui vào nách, nhảy lên lưng, cũng kêu í ới.
Còn mẹ chúng nó? Thật là một người đàn bà giỏi giang, đa tình thì nhất mực mà khi phải vào cái bổn phận dạy dỗ, nuôi nấng con trẻ, lại đáng nên bậc mẹ hiền gương mẫu. Luôn đi cạnh các con, mụ không rời chúng lấy nửa bước ngắn. Mụ cong chòm đuôi, xù vành lông cổ lên, làm điệu nghiêm khắc và ác. Thật ra, với các con thì mụ rất ngọt ngào. Bới được một hạt giền đỏ, mụ cũng gọi chúng đến, cho chúng ăn. Vừa nhìn các con ăn, mụ vừa cúc cúc, nói chuyện vui vẻ. Nhưng hễ động một bà ngan đãng trí - những con ngan hay đãng trí, lúc nào cũng bước đi thanh thản, lơ tơ mơ, ngất ngưởng tới bên cạnh là mụ Gà nhảy lên như choi choi, bao nhiêu lông đuôi lông cánh dựng đứng ngay lên, miệng kêu oang oác, khoéc khoéc, chân thì đập, mỏ thì mổ khiến cho mụ kia mở mắt không kịp, chúi đầu xuống đưa vòng kiềng hai chân mà lạch bạch chạy.
Mụ mê mải chăn nuôi con đến quên cả mình. Chả thế mà trong khi săn sóc trẻ, thân hình mụ gầy xác, gầy xơ. Bây giờ thì không thể bảo mụ là cô gái giang hồ gần bạc tóc mà vẫn ưa lá gió cành chim được nữa. Phải gọi mụ là một bà xã trong làng, một bà xã chỉ biết tảo tần nuôi con cho đi thả chim thả diều và nuôi chồng một ngày hai bữa rượu. Những điều nguyệt nọ hoa kia, giờ tịnh câm, mụ không màng tới, mà lại còn ghét là khác. Mỗi khi có cô mái tơ phớn phở đi qua, mụ đuổi đuổi, mổ mổ, túi bụi.
Còn anh Gà Chọi mã ô miến tía? Thôi thôi thôi, nói làm chi đến cái quân lang chạ, phất phơ.

 

Một ngày cuối tháng năm. Mấy hôm nắng dữ dội như muốn hun héo cả xóm làng. Đến hôm ấy, từ buổi sớm, nắng không loe lên như mọi khi. Trời vần vụ đầy mây trắng. Song không phải là mây trắng đục, báo hiệu cơn mưa. Mây trắng tinh chẳng biết ở đâu trôi lừ đừ đến từng tảng lớn, ngổn ngang cả nền trời xanh ngắt - trời xanh lắm, ở mỗi khoảng không có mây. Mây đến rồi mây đi, mây đến, mây lại đi, mây chuyển vùn vụt. Ấy thế rồi gió nổi lên dạt dào trong các lũy tre. Cái thứ tiếng dạt dào của lá tre rung vào nhau liên miên, tưởng như tiếng heo may cuối thu, mà không bao giờ ngớt, gây nên bởi từng luồng gió rất dài, rập rờn trên sóng lúa, từ ngoài đồng xa về. Người ta gọi gió ấy là gió giải đồng - gió quạt mát cho những người cầy dưới ruộng.
Bữa đó, Gà mái dẫn đàn con lách qua bờ tre, ra ngoài ruộng nhửn nhơ chơi. Bởi vì không có nắng nên cả mẹ, cả con mải bắt nhái, bắt châu chấu, mãi tới xế chiều mới dò về. Về tới chuồng, trời đổ một trận mưa rào. Mưa rào đến đêm thì tạnh. Nhưng còn sập sùi mãi tới lúc sang canh mới dứt hạt.
Sớm hôm sau, khi cửa chuồng đã mở, chỉ thấy chị Gà mái mẹ dẫn có bốn con nhỏ lủi thủi ra. Nhòm vào trong: năm chú gà con kia đã nằm mỗi chú một xó chết còng queo từ bao giờ. Và chỉ từ sáng tới buổi trưa, cả bốn gà còn lại này cũng mỗi con nằm rụi ở một góc vườn. Những cái diều cơm cứng ních lại. Lặc kêu ầm lên rằng:
- Biết ngay mà. Trở gió! Trở gió! Trái gió. Trái gió. Gà bên nhà bác xã Khóm cũng lăn đùng ra thế đấy.
Sẩm tối, ông ngoại tôi sai Lặc hun một đống bồ kếp ở trước cửa chuồng, chỗ thang gà leo lên leo xuống. Trong sự tĩnh mặc âm thầm của vườn sau, đám khói hoàng hôn sực mùi bồ kếp thơm gây gây càng làm cho cái khu gà vịt ở có một không khí ảm đạm như một xóm nhuốm bệnh thời khí. Thế mà sáng hôm sau, lại có ba chị Gà mái tơ nằm chết chỏng hai cẳng lên trời.
Một sự đổi đời ghê gớm. Tai nạn chỉ bởi có một thoáng thay thời tiết. Mụ Gà mái mẹ và anh Gà Ri sợ không dám ở chuồng nữa. Tối đến, chúng ngủ cao trên bụi tre. Còn ở lại chỉ có lũ nhà ngan, họ nhà vịt - cái tụi ngu ngơ lúc nào cũng đờ đẫn mà khỏe - và anh Gà Chọi đứng ngang nhiên trên nóc chuồng. Dáng hẳn thấy cảnh vật phút chốc bỗng trở nên quạnh hiu, anh không hộc mỏ kêu kộôc kộôc như mọi hôm.
Chẳng những chỉ vắng vẻ thế mà thôi!
Một sớm kia, Gà Chọi không cất tiếng gáy. Tay nhà võ đi có dáng lừ đừ, đầu rúc xuống, mà cổ thì hình như nằng nặng. Loài gà không bao giờ ốm bệnh gì, chỉ có bệnh dây. Khi lử khử, tất chàng mắc bệnh ghê gớm đó. Chàng bị truyền nhiễm bởi bọn gà chết hôm qua, hôm kia. Chắc thế. Bởi chàng khỏe cho nên chàng không quỵ ngay. Song cũng khó lòng qua khỏi được. Có sức khỏe, bệnh chỉ kéo dài. Thể nào, một ngày rất gần đây, cũng sẽ đi đời.
Chàng không ăn được nữa. Chỉ uống nước thôi. Mà uống nước luôn luôn. Cái bìu diều cơm rắn lại. Cho đến chiều thì chắc đanh, sờ tay không bóp chuyển được. Đêm, chỉ nghe tiếng quéc quéc, như vướng cái gì trong cuống họng. Cái tiếng quéc sắc rợn và lạnh. Nghe ghê người.
Sang hôm sau, mào, bắp chân và bụng Gà Chọi đã xám lại. Chàng bước đi; cái cần cổ gục xuống, hai vai cánh so lên, xiêu vẹo như lão kiết đã nghiện nặng lại thiếu cả sái hút. Đôi chân hiên ngang nọ như sắp không khiêng nổi cái mình to lớn nữa. Thảm hại quá. Ôi! Con Gà Chọi, ôi! Con Gà Chọi! Con Gà Chọi chỉ còn mở thao láo một mắt ra nhìn. Không còn hục hặc đạp phành phạch. Không còn gáy cồô... cộộ, không kêu cộô... cộ gì cả.
Ngày hôm sau nữa thì đành chẳng thể nào nhấc chân được. Chàng Gà Chọi nằm gục một chỗ, chỏng đuôi lên, đầu lả rụi. Người tọp lại, như một người thân thể to lớn, bây giờ chỉ còn lần da, ôm một bọc xương. Buổi chiều thì Gà Chọi tắt thở.
Lặc được nhận việc xách một bên cẳng nó, đem ném ra ngoài đồng xa.
Hỡi ôi! Ông Từ Hải về với đất.

 

Cậu Gà Ri không dám bén mảng về đến sân nhà. Trông trước, trông sau chẳng có ai, chỉ còn một mình chị mái già, ra lại vào, ngẩn ngơ.
 
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: casau
Nguồn: casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 7 tháng 3 năm 2016

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--