Viên phấn phù thủy

Có một họa sĩ nghèo tên Argon sống bên cạnh nhà xí trong một căn nhà thuê ở ngoại ô, xọp xẹp vì hơi nước nấu nướng và mưa dột.
Phòng nhỏ vuông vức mỗi bề chỉ có ba thước, nhưng lại rộng rãi không ngờ vì không có đồ đạc gì trừ một chiếc ghế kê ở sát tường. Bàn viết, kệ sách, hộp thuốc màu, kể cả khung họa đều đã bán sạch để đổi lấy bánh mì. Bây giờ chỉ còn lại một chiếc ghế và thằng Argon, hai cái đó thôi. Nhưng cả hai cái này, không biết còn lại đến chừng nào đây?
Sắp đến giờ ăn tối. Argon nghĩ: “Sao cái lỗ mũi nó nhạy cảm quá chừng”. Argon có thể chia những mùi vị hỗn hợp phức tạp thành ra xa gần, sắc thái khác nhau để ngửi. Ôi, màu vàng như hoàng thổ của miếng thịt heo nhúng dầu ở tiệm thịt bên đường xe điện. Ngọn gió phương nam màu xanh như ngọc bích thổi qua trước tiệm trái cây. Màu vàng crôm đầy ấn tượng từ tiệm bánh mì đưa đến. Bà cô phía dưới đang nướng một con cá, có lẽ đó là con cá thu có màu xanh cây tần buồn bã.
Ờ, từ sáng đến giờ Argon chưa ăn gì hết.
Mặt mày xanh, trán nhăn nheo, cục yết hầu lên lên xuống xuống, lưng khòm, bụng thóp, đầu gối run run.
Argon đút hai tay vô túi, liên tiếp ngáp ba lần thối hoăng.
Có cái gì giống như một miếng cây gãy đụng đầu ngón tay. Hả, cái gì đây. À, một viên phấn đỏ. Không nhớ ra được đấy. Hắn bóp nhẹ viên phấn giữa những ngón tay, rồi lại ngáp to một lần nữa. Ôi trời ơi, đói bụng quá.
Vô tình, Argon lơ đãng lấy viên phấn ra bắt đầu vẽ bậy bạ lên tường. Trước hết vẽ hình trái táo. Lớn lắm, ăn một trái cũng đủ no. Cạnh đó là một con dao nhỏ để có thể gọt táo ăn liền. Nuốt nước miếng đánh ực, tiếp theo liền vẽ hình bánh mì theo cảm hứng từ mùi ở cửa sổ và hành lang thoảng vào. Bánh nhân mứt giống cái găng bóng chày, bánh mì cuốn trộn bơ, rồi bánh mì Mỹ lớn cỡ đầu người. Vỏ bánh hơi khét, bóng láng hiện ra trước mắt. Những lằn nứt ngon lành, bụng bánh căng phồng vỡ ra, mùi men bánh dậy lên say sưa. Tiện thể vẽ luôn kế bên một cục bơ lớn cỡ viên ngói. Thôi vẽ luôn cốc cà phê cho rồi. Vừa mới lọc, còn bốc khói nóng ấm. Một cái cốc to như cái bình. Đĩa lót đựng ba cục đường lớn cỡ hộp diêm.
Ối, trời ơi, hắn nghiến răng rồi lấy hai tay bụm mặt. Sao mà đói bụng làm vậy!
Lần lần ý thức của hắn đi sâu vào trong vùng âm u, hắn chạy lòng vòng trong cánh rừng bánh mì bên kia tấm gương, qua ngọn núi đồ hộp, đến vùng biển đầy sữa, trên bãi cát toàn bằng đường, vào vườn cây trái đầy thịt bò và pho mát… hắn mệt, lim dim buồn ngủ.
Tiếng một vật gì đó nằng nặng rớt xuống sàn nhà, tiếng đồ sành vỡ tan làm hắn mở mắt ra. Trời đã tối, tối om om. Việc gì vậy? Hắn nén thở đưa mắt nhìn về phía có tiếng động. Cái cốc to bị vỡ. Chỗ đó có nước đổ, còn đang bốc hơi, đúng là cà phê. Ngoài ra xung quanh đó còn có táo, bánh mì, bơ, đường thỏi, thìa, dao, đĩa lót, may quá chưa vỡ. Và như thế, hình phấn vẽ trên tường đã biến mất.
Thật sao,... máu huyết trong toàn thân bỗng thức dậy, kêu lên, Argon nhẹ bước đến gần. Làm gì có chuyện đó, làm gì có chuyện đó, chuyện như thế này làm gì có được. Nhưng, đây này, thật đấy phải không? Mùi cà phê sực mũi này có chỗ nào là giả đâu. Đây, cái cảm giác của ngón tay trượt trên vỏ bánh mì đây. Liều thử đi, ôi, cái cảm giác ngon miệng này. Argon ơi, vậy mà mày cũng nói là không tin nổi à.
- Ờ, chuyện thực mà. Tin chớ. Nhưng sợ quá, sợ điều mình tin.
Dẫu có sợ đi nữa, đây cũng là chuyện thực kia mà. Ăn được đấy chớ.
Táo có vị táo (táo ở vùng có tuyết). Bánh mì có vị của bánh mì (bột mì của Mỹ). Bơ có vị bơ (đúng với nhãn hiệu trên giấy gói, không phải là margarin). Đường có vị đường (ngọt lắm). Ư... ừ. Toàn là vị thật. Con dao sáng choang, soi thấy mặt.
Lúc để ý thì đã ăn xong hồi nào không biết, Argon thở phào. Nhưng tại sao lại nhẹ nhõm được như vậy, nghĩ đến điều ấy, bỗng nhiên Argon cuống quít lên. Hắn cầm cục phấn đỏ lúc nãy lên tay, ngó đi ngó lại. Dẫu có nhìn bao nhiêu lần đi nữa, chuyện không biết cũng vẫn là không biết. Nếu muốn xác định thì cứ làm thử một lần nữa xem sao. Làm lại lần thứ hai nếu thành công, thì phải nói đó là sự thực. Muốn vẽ thử một cái gì khác hơn, nhưng vì cuống quít nên Argon lại quen tay vẽ trái táo một lần nữa... Vừa vẽ xong, trái táo đã vọt khỏi bức tường, lăn xuống đất. Đúng rồi. Đây là sự thực có thể lặp đi lặp lại.
Sự mừng rỡ đến đột ngột làm Argon cứng toàn thân. Những đầu thần kinh phá vỡ làn da, rơi đầy trong không gian, kêu lên xào xạc như tiếng lá rơi. Rồi mọi sự bỗng chùng lại, Argon ngồi bẹp xuống sàn nhà, ngoác miệng ra cười như cá cảnh bị thiếu hơi. Những nguyên lý của vũ trụ đã thay đổi. Số mệnh đổi dời, những điều bất hạnh đã qua. Ờ... ờ, thời đại của no ấm, thế giới của mong muốn trở thành hiện thực. Trời Phật ơi, con lại buồn ngủ rồi đây.
Thế thì vẽ cái giường đi. Bây giờ viên phấn là vật quý trọng ngang với sinh mệnh, cái gọi là giường - bụng no thì nhất định cần nó - và vì có hao tốn gì đâu nên cần gì phải hà tiện. Ô... ôi, không thể nào tả xiết giấc ngủ hạnh phúc đầu tiên trong đời. Một bên mắt đã ngủ liền, nhưng bên kia không dễ dàng ngủ được. Vì cứ so với sự thỏa mãn của ngày hôm nay, thì ngày mai chưa biết có được như vậy nữa không. Nhưng con mắt bên kia đó, cuối cùng cũng ngủ mất. Trọn đêm Argon thấy toàn những giấc mơ màu mè lộn xộn qua hai con mắt không ăn khớp này.
Và như vậy, buổi sáng đầy lo lắng của hôm sau đã đến.
Trong giấc mơ, bị thú dữ đuổi bắt, từ trên cầu rơi xuống. Từ trên giường rơi xuống... không, không phải vậy. Khi mở mắt, không thấy có cái giường nào hết. Vẫn như mọi ngày, vỏn vẹn ở đây chỉ có một chiếc ghế như đã nói. Vậy thì, chuyện đêm qua ra sao? Argon nơm nớp nhìn quanh bức tường, lắc đầu.
Ở đó có một cái cốc (nhưng lại bị vỡ!), có thìa, có dao, lại còn có cùi dìa, vỏ táo và hình giấy bọc bơ vẽ bằng phấn đỏ. Dưới đó là cái giường, hình của cái giường mà Argon vẽ đã rơi từ đó xuống.
Như vậy, trong những thứ đã vẽ ra đêm qua, chỉ những thứ không ăn được là lại trở lại nguyên dạng hình vẽ trên tường. Bất ngờ hắn cảm thấy đau ở lưng và vai. Nếu thật sự bị rơi từ giường xuống thì sẽ có cảm giác đau như thế này. Khi đưa tay nhẹ sờ tấm nệm ngủ phủ nhăn trên giường, hắn cảm thấy nó có độ ấm vừa đủ để phân biệt được với những phần lạnh lẽo ở chỗ khác.
Lấy ngón tay chùi hình lưỡi dao, nó biến mất đi không có một lực cản, chỉ để lại vết dơ, đúng đây chỉ là những nét phấn. Thử vẽ một trái táo mới xem sao. Nhưng nó đã không thành trái táo thật, không lăn xuống đất, cũng không muốn tróc ra như mảnh giấy bị dán. Khi đưa tay xóa, nó chỉ biến mất, để lộ ra mặt tường y như cũ dưới lòng bàn tay đang xóa.
Niềm hân hoan, chẳng qua chỉ là giấc mộng của một đêm. Tất cả đã hết, đã trở lại y như lúc chưa có gì xảy ra. Thật như vậy không? Không, sự đau xót đã trở lại lớn gấp năm lần. Và bụng đói cũng hành hạ gấp năm lần. Chắc có lẽ đồ ăn ở trong bụng đã trở lại thành bột phấn và các thành phần của bức tường rồi.
Đến vòi nước công cộng, Argon lấy tay bụm nước, uống liên tiếp đến cả lít, rồi hắn lê chân đi ra ngoài phố buồn còn chìm trong sương mù, trời chưa sáng hẳn. Hắn khum lưng xuống rãnh nước thải từ nhà bếp của một tiệm ăn cách đó khoảng một trăm thước. Hắn đưa tay thò vô dòng nước đen thui rin rít, kéo lên một cái gì đó. Miếng lưới đã thành ra cái rổ. Đem ra rửa ở dòng sông gần đó, thấy có nhiều thứ còn ăn được. Trong đó, gần phân nửa là những thứ giống như cơm, ăn cũng đỡ đói bụng. Gần đây hắn nghe lão già ở nhà trọ nói, cứ đặt một mảnh lưới ở rãnh nước đó trong một ngày thì sẽ kiếm được cái ăn cho một bữa. Khoảng một tháng trước đó, lão già này đã được thăng tiến lên một vị trí cho phép lão mua xác đậu phụ đủ phần mình nên đã nhường lại rãnh nước thải của tiệm ăn cho hắn.
Nghĩ đến bữa cơm ngon hôm qua, những thức này sao hôi mùi bùn quá, chẳng ngon chút nào. Nhưng nó không phải là đồ phù thủy, trên thực tế, nó cũng làm no bụng, mà làm no bụng là việc quan trọng bậc nhất nên không thể từ chối được. Dẫu đồ ăn dở đến nỗi mỗi một lần nuốt vô họng là mỗi một lần phải ý thức đến nó, nhưng vẫn phải ăn. Cái gọi là hiện thực là như thế này đây.
Trước trưa một chút, hắn đi ra phố, ghé qua chỗ người bạn đang đi ra ngân hàng. Người bạn gượng cười, nói: “Hôm nay đến phiên tao mua à”. Argon gật đầu với vẻ mặt lơ ngơ cứng nhắc, hắn nhận nửa phần cơm hộp như mọi lúc, tự động cúi đầu thấp xuống, với nguyên tư thế đó, hắn đi ra ngoài.
Argon suy nghĩ cả nửa ngày trời.
Hắn dựa lưng vô ghế, tay nắm chặt viên phấn, chìm đắm trong không tưởng về chuyện pháp thuật. Dần dần, hy vọng bắt đầu kết tinh xung quanh mong ước mãnh liệt đó, rồi một lần nữa khi gần hoàng hôn, vừa lúc mặt trời lặn, có thể pháp thuật kia lại bắt đầu có hiệu lực cũng chưa biết chừng. Điều phỏng đoán đó hầu như đã biến thành sự tin tưởng.
Tiếng radio ồn ào đâu đó báo hiệu đã đến năm giờ. Hắn đứng dậy vẽ lên tường hình bánh mì, bơ, hộp cá mòi, thêm vào đó là cà phê. Hắn cũng không quên vẽ thêm cái bàn ở dưới đó, để không phải bị rơi vỡ như tối hôm qua. Rồi ngồi chờ.
Chẳng bao lâu, từ góc phòng, màn đêm bắt đầu bò lên dọc bức tường. Hắn bật đèn lên vì muốn nhìn kỹ quá trình pháp thuật diễn ra. Đêm qua hắn đã xác nhận rằng ánh đèn thực ra là không gây hại gì cho pháp thuật.
Mặt trời lặn. Hình vẽ trên bức tường bắt đầu nhạt dần như ảo giác của mắt. Giữa bức tường và mắt hình như có sương mù. Hình vẽ trên bức tường càng lúc càng nhạt ra, sương mù càng lúc càng đậm dần. Cuối cùng sương mù đông đặc lại và chợt biến thành hình dáng của vật thể, (thành công rồi!) bất ngờ thật, nội dung của hình vẽ đang thể hiện ra đây.
Cà phê bốc hơi nóng tròn tròn ngon lành quá. Bánh mì vừa nướng còn nóng hổi. Ối chà, quên dụng cụ mở hộp rồi. Vừa vẽ vừa đưa tay trái ra giữ cho chúng khỏi rơi, những thực thể từ mép hình vẽ hiện ra dần. Đúng là vẽ ra vật.
Bỗng vấp phải một vật gì đó. À, cái giường tối hôm qua, lại thế à. Trên đó có con dao chỉ có cán (vì chỗ lưỡi dao đã bị xóa bằng ngón tay mất rồi), miếng giấy bao bơ và cái cốc vỡ nằm lăn ra đó.
Khi bụng đói đã được tọng đầy, Argon lên giường nằm, hừ, từ rày phải làm sao đây, điều biết được rõ ràng bây giờ là pháp thuật không có hiệu lực trước ánh sáng mặt trời, mai lại phải chịu khổ. Không có cách nào dễ dàng thoát khỏi cái khổ này sao? Bất ngờ hắn nghĩ ra, một cách hay: bịt cửa sổ lại, nhốt tất cả vào bóng tối.
Cần một chút đỉnh tiền để thực hiện kế hoạch này. Cần một vật để che mặt trời, nhưng điều lại không bị biến mất trước ánh sáng mặt trời. Nhưng vẽ đồng tiền thì hơi khó đấy. Được rồi, khôn ra một chút coi, ờ, một cái ví đầy tiền... Mở ra thử coi, ồ sướng quá, hình như giấy bạc đầy ắp trong ví nhiều, nhiều hơn mức cần thiết.
Giấy bạc này ban ngày biến mất, giống như những tiền đồng bằng lá cây, nhưng nó không để lại dấu vết nào như lá cây cho nên không có gì phải lo. Dẫu vậy, cần phải cẩn thận một chút, hắn cố tình đi ra hàng phố thật xa, mua hai tấm mền dày, năm tấm giấy chỉ len đen, một tấm nỉ, một hộp đinh, bốn cây gỗ vuông năm phân. Lại mua một tập sách “Thực phẩm toàn thư” mà hắn đã để ý ở tiệm sách giữa đường. Hắn uống cà phê với số tiền còn dư lại. Cà phê này cũng chẳng có gì đặc biệt hơn so với cốc cà phê hắn đã vẽ ra từ bức tường. (Chẳng biết sao) điều đó làm hắn nh phủ đã bộc bạch như sau.
- Khi tôi uống nước, nhìn nước trong ly, tôi không thể nghĩ đó là nước được nữa. Nghĩa là đối với tôi, đó chỉ là một khoáng chất ở trạng thái lỏng, đúng là một chất có hại, không tiêu hóa được, nếu đưa vào miệng, chắc chắn tôi sẽ bị bệnh ngay tức khắc. Nghĩ vậy tôi cảm thấy khổ não bi thảm.
Dẫu không bị kinh phong giật cổ họng, nhưng đây rõ ràng là bệnh sợ nước. Những chuyện như bà cụ già ngất xỉu chỉ vì nhìn thấy nước nhan nhản khắp mọi nơi. Nhưng ở đây, vi khuẩn trong thuốc chích ngừa phòng bệnh chó dại không có hiệu quả nào hết.
Từ hang cùng ngõ hẻm trên toàn thế giới, những lời nói vô hình đồn qua đồn lại dự đoán trận đại hồng thủy sẽ đến. Song thoạt tiên, báo chí đã đưa ra những lý do sau đây để phản bác những lời đồn đại đó.
1. Trong cả năm nay, sự phân bổ lượng mưa và tổng lượng mưa ở mọi nơi trên thế giới thấp hơn trung bình của mọi năm.
2. Nói là sông ngòi tăng nước, nhưng tất cả đều không vượt quá phạm vi biến đổi  thời tiết của mọi năm.
3. Ngoài ra không có bất cứ một biến đổi nào về địa chất cũng như về khí tượng được ghi nhận.
Đó là sự thật. Nhưng việc bắt đầu có lụt lội cũng là sự thật. Mâu thuẫn này gây bất an rộng rãi trong xã hội. Đây không phải là kiểu lụt lội bình thường, chuyện đó rõ như ban ngày dưới mắt bất cứ ai. Cuối cùng báo chí cũng phải nhìn nhận sự thật về lụt lội, nhưng vẫn nói đi nói lại với giọng điệu lạc quan, coi đó như là chuyện biến đổi bất thường của thiên thể ở nơi nào đó, và việc này chỉ có tính nhất thời, chẳng bao lâu sẽ tự mất đi. Lụt lội lan rộng từng ngày, một số làng xã, phố phường đã chìm xuống đáy nước, một số đồng bằng và đồi núi bị con người hóa lỏng phủ lên, những người có địa vị và những người giàu có bắt đầu tranh nhau tị nạn đến cao nguyên, lên đồi núi. Dẫu biết rằng đây là chuyện vô ích, vì những người hóa lỏng có thể bò lên ngay cả tường, nhưng ngoài cách đó ra, chẳng còn cách nào khác.
Rốt cuộc những quốc vương và nguyên thủ cũng phải nhìn nhận sự cấp bách của tình thế. Để cứu nhân loại khỏi bị diệt vong vì trận lụt này, họ đã động viên tất cả vật chất và tinh thần, ra tuyên bố rằng phải cấp bách đắp đê to. Vì vậy có mấy chục vạn người lao động đã bị cưỡng bách làm việc đó. Thấy thế, báo chí bỗng thay đổi thái độ, nhấn mạnh đến nghĩa vụ và chính nghĩa theo định hướng tuyên bố. Nhưng thôi, hầu như tất cả mọi người, ngay cả quốc vương và nguyên thủ đều biết rằng đó chỉ là một tuyên bố suông. Con đê đối với những người hóa lỏng chỉ giống như là lực học Newton đối với lực học lượng tử, chẳng những không đem lại hiệu quả nào mà còn ngược lại, vì những người lao động đắp đê cũng đã lần lần hóa lỏng ở bên này bờ đê. Trang 4 của báo chí đầy đặc những ký sự báo cáo sự mất tích của công nhân. Nhưng theo quan điểm báo chí, sự mất tích này không được xem như là nguyên nhân của lụt lội mà chỉ được xem như là hệ quả. Báo chí khăng khăng không đụng tới sự mâu thuẫn của trận lụt này cũng như nguyên nhân căn bản của nó.
Vào lúc đó, một nhà khoa học nói, cần phải dùng năng lượng nguyên tử để làm bốc hơi hết chất lỏng phủ trên trái đất này. Chính phủ liền tán thành và tuyên bố sẽ giúp đỡ toàn diện, không tiếc gì. Nhưng thực tế, khi bắt đầu làm người ta mới thấy khó khăn, không những thế, hầu như ai cũng biết rằng không thể làm được. Vì những người hóa lỏng đã lan rộng ra theo cấp số nhân, nên không kịp bổ sung lao động, không những thế, hiện tượng hóa lỏng này đã bắt đầu xảy ra với chính những nhà khoa học. Vả lại, những xưởng chế tạo thiết bị lần lượt bị hư hỏng và chìm xuống đáy nước nên những nhà khoa học phải bận bịu sửa chữa và đặt xưởng mới, không ai có thể dự đoán được chừng nào mới bắt đầu chế tạo được những thiết bị nguyên tử lực cần thiết.
Lo lắng và đau khổ bao phủ thế giới. Mọi người đã trở thành những xác ướp vì thiếu nước, mỗi lần thở, tiếng khò khè đứt hơi nổi lên.
Trong đó, chỉ có một người là điềm nhiên vui sướng. Đó là thằng Nô-ê lạc quan và xảo quyệt. Thằng Nô-ê từ kinh nghiệm của trận đại hồng thủy ngày xưa, đã không hấp tấp, không bối rối, cứ cần mẫn miệt mài chế tạo chiếc thuyền vuông. Nghĩ đến tương lai nhân loại sẽ lại được giao phó trong tay một gia đình mình, hắn lại đắm mình trong sự ngây ngất thiêng liêng.
Rồi khi nước lụt đến sát bên chỗ hắn ở, Nô-ê đã dắt gia đình và gia súc leo lên chiếc thuyền vuông. Nhưng, liền lúc đó những người hóa lỏng đã tìm cách bò lên mép thuyền. Nô-ê lớn tiếng la rầy.
- Này, chúng mày có biết thuyền này là thuyền của ai không? Tao là Nô-ê đây. Đây là chiếc thuyền vuông của thằng Nô-ê. Không được nhầm lẫn. Mau đi chỗ khác.
Nhưng rõ ràng Nô-ê đã tính nhầm khi cho rằng cái chất lỏng không phải là con người này có thể hiểu được tiếng nói của hắn. Chất lỏng chỉ là chất lỏng. Và thời gian ngắn sau đó, chiếc thuyền vuông đã đầy tràn chất lỏng, tất cả sinh vật đều chết đuối. Chiếc thuyền vuông không người trôi giạt theo con nước.
Và như thế, nhân loại đã bị tiêu diệt trong trận đại hồng thủy thứ hai. Nhưng khi nhìn vào bóng cây hoặc góc đường ở những làng xã hoặc phố xá nằm im lìm dưới đáy nước, sẽ thấy cái gì đó kết tinh lóng lánh. Đấy có lẽ là nơi kết tủa của những trái tim người hóa lỏng mà mắt thường không thấy được.