THE STRUCTURE OF SCIENTIFIC REVOLUTIONS
Người dịch: Nguyễn Quang A
Chương 8
Sự Đáp lại Khủng hoảng

Hãy giả sử rằng các cuộc khủng hoảng là một tiền đề cần thiết  cho sự nổi lên của các lí thuyết mới và ngay sau đó hỏi các nhà  khoa học đáp lại thế nào đối với sự tồn tại của chúng. Một phần  của câu trả lời, cũng hiển nhiên như quan trọng, có thể được phát  hiện ra bằng lưu ý đầu tiên đến cái các nhà khoa học chẳng bao  giờ làm khi đối mặt với ngay cả các dị thường trầm trọng và kéo  dài. Mặc dù họ có thể bắt đầu mất niềm tin và sau đó xem xét các  lựa chọn khả dĩ khác, họ không từ bỏ khung mẫu đã dẫn họ đến  khủng hoảng. Tức là, họ không coi các dị thường như các phản  thí dụ, mặc dù trong từ vựng của triết học khoa học đó là cái  chúng là. Một phần sự khái quát hoá này đơn giản là một tuyên  bố từ sự thực lịch sử, dựa trên các thí dụ như các thí dụ cho trước  ở trên và, bao quát hơn, ở dưới. Những điều này ám chỉ cái mà  sự khảo sát muộn hơn của chúng ta về sự từ chối khung mẫu sẽ tiết lộ đầy đủ hơn: một khi đã đạt địa vị khung mẫu, một lí thuyết  khoa học được tuyên bố là không hợp lệ chỉ nếu sẵn có một ứng  viên khả dĩ khác để chiếm chỗ của nó. Chưa có quá trình nào  được tiết lộ bởi nghiên cứu lịch sử về sự phát triển khoa học lại  giống chút nào mẫu rập khuôn phương pháp luận về chứng minh  là sai bằng so sánh trực tiếp với tự nhiên. Nhận xét đó không có  nghĩa là các nhà khoa học không từ chối các lí thuyết khoa học,  hoặc kinh nghiệm và thí nghiệm là không thiết yếu cho quá trình  trong đó họ làm vậy. Nhưng nó có nghĩa –cái cuối cùng sẽ là một  điểm chính- rằng hành động phán xử dẫn các nhà khoa học đến  từ chối một lí thuyết được chấp nhận trước kia luôn luôn dựa vào  nhiều hơn một so sánh lí thuyết đó với thế giới. Quyết định để loại bỏ một khung mẫu luôn luôn đồng thời là quyết định để chấp  nhận một khung mẫu khác, và sự phán xử dẫn đến quyết định đó  dính đến sự so sánh cả hai khung mẫu với tự nhiên và với nhau.
Ngoài ra, có một lí do thứ hai để nghi ngờ rằng các nhà khoa  học từ bỏ một khung mẫu vì đối mặt với các dị thường hay với  các phản thí dụ. Trong trình bày nó, bản thân lí lẽ của tôi sẽ báo  trước một luận đề khác của các luận đề chính của tiểu luận này.  Các lí do cho sự nghi ngờ được phác hoạ ở trên là thuần tuý căn  cứ theo sự thực; tức là, bản thân chúng là các phản thí dụ đối với  một lí thuyết nhận thức luận thịnh hành. Với tư cách như vậy,  nếu điểm hiện thời của tôi là đúng, chúng giỏi nhất có thể giúp tạo ra một khủng hoảng hay, chính xác hơn, tăng cường một  khủng hoảng đã tồn tại rồi. Bản thân chúng không thể và sẽ không chứng minh lí thuyết triết học đó là sai, vì những người  bảo vệ nó sẽ làm cái mà ta đã thấy các nhà khoa học làm khi đối  mặt với dị thường. Họ sẽ nghĩ ra nhiều trình bày rõ hơn khác và  các sửa đổi ad hoc của lí thuyết của họ nhằm loại bỏ bất cứ mâu  thuẫn bề ngoài nào. Nhiều sửa đổi thích hợp và các hạn chế, thực  ra, đã có rồi trong văn khoa học. Vì thế, nếu các phản thí dụ nhận  thức luận này có tạo thành nhiều hơn một sự gây bứt rứt khó chịu  nhỏ, là vì chúng giúp cho phép sự nổi lên của một phân tích mới  và khác về khoa học trong đó chúng không còn là một nguồn rắc  rối nữa. Vả lại, nếu một hình mẫu điển hình có thể được áp dụng  ở đây, mà ta sẽ quan sát thấy muộn hơn ở các cuộc cách mạng  khoa học, thì các dị thường này sẽ dường như không còn chỉ là  các sự thực. Từ bên trong một lí thuyết mới về tri thức khoa học,  thay vào đó chúng có vẻ rất giống các tautology, các tuyên bố về những trạng thái không thể tượng tượng nổi theo cách khác.
Thường quan sát thấy, thí dụ, rằng định luật Newton thứ hai về chuyển động, mặc dù cần đến hàng thế kỉ nghiên cứu sự thực và  lí thuyết để đạt được, cư xử đối với những người tận tâm với lí  thuyết Newton rất giống một tuyên bố logic thuần tuý mà không  lượng quan sát nào có thể bẻ lại.1 Trong mục X chúng ta sẽ thấy  rằng định luật hoá học về tỉ lệ cố định, mà trước Dalton đã chỉ là  một phát hiện thực nghiệm hi hữu có tính tổng quát rất đáng ngờ,  sau công trình của Dalton đã trở thành một thành phần của định  nghĩa về hợp chất hoá học mà không bản thân công việc thực  nghiệm nào đã có thể lật đổ. Cái gì đó rất giống thế sẽ cũng xảy  ra với khái quát hoá mà các nhà khoa học không đi bác bỏ các  khung mẫu khi đối mặt với các dị thường hay phản thí dụ. Họ không thể làm vậy mà vẫn là các nhà khoa học.
Mặc dù lịch sử không chắc có ghi tên của họ, một số người rõ  ràng đã bị dồn phải bỏ trốn khoa học bởi vì họ không có khả năng chịu khủng hoảng. Giống các nghệ sĩ, các nhà khoa học  sáng tạo đôi khi phải có khả năng sống trong một thế giới trật  khớp, trục trặc - ở nơi khác tôi đã mô tả điều tất yếu đó như “sự căng thẳng thiết yếu” ngầm trong nghiên cứu khoa học.2 Nhưng  sự loại bỏ khoa học để ủng hộ nghề khác, tôi nghĩ, là loại duy  nhất của sự loại bỏ khung mẫu mà bản thân các phản thí dụ có  thể dẫn tới. Một khi đã tìm thấy một khung mẫu đầu tiên qua đó  để quan sát tự nhiên, thì không có cái với tư cách là sự nghiên  cứu mà không có một khung mẫu nào. Loại bỏ một khung mẫu  mà không đồng thời thay nó bằng một khung mẫu khác là đi loại  bỏ bản thân khoa học. Hành động đó gây tai tiếng không chỉ cho  khung mẫu mà cả cho con người. Chắc hẳn anh ta sẽ bị các đồng  nghiệp cho là “người thợ mộc đi đổ lỗi cho công cụ của mình.”
Có thể nêu ngược cùng điểm ấy chí ít hữu hiệu ngang nhau:  không có cái với tư cách là sự nghiên cứu mà không có các phản  thí dụ. Vì cái gì là cái phân biệt khoa học thông thường với khoa  học ở trạng thái khủng hoảng? Chắc chắn, không phải khoa học  thông thường không đối mặt với các phản thí dụ. Ngược lại, cái  mà trước đây ta gọi là các câu đố tạo thành khoa học thông  thường chỉ tồn tại vì không khung mẫu nào tạo cơ sở cho nghiên  cứu khoa học lại có bao giờ giải quyết hoàn toàn mọi vấn đề của  nó. Một số rất ít từng có vẻ làm vậy (thí dụ, quang học hình học)  không lâu đã ngừng tạo ra các vấn đề nghiên cứu và thay vào đó  trở thành công cụ cho kĩ thuật. Trừ các vấn đề chỉ mang tính  công cụ, mỗi vấn đề mà khoa học thông thường coi như câu đố,  nhìn từ quan điểm khác, có thể được xem như một phản thí dụ và  như thế như một nguồn khủng hoảng. Copernicus đã xem như các phản thí dụ cái mà hầu hết những người kế nghiệp khác của  Ptolemy đã coi như các câu đố về sự phù hợp giữa quan sát và lí  thuyết. Lavoisier đã xem như các phản thí dụ cái mà Priesley đã  coi là một câu đố được giải quyết thành công trong trình bày rõ lí  thuyết nhiên tố. Và Einstein đã xem như các phản thí dụ cái mà  Lorentz, Fitzgerald, và những người khác đã coi như các câu đố về trình bày rõ thêm các lí thuyết của Newton và Maxwell. Vả lại, ngay cả bản thân sự tồn tại của khủng hoảng không biến một câu đố thành một phản thí dụ. Không có đường phân chia sắc nét  như vậy. Thay vào đó, bằng làm tăng nhanh các phiên bản của  khung mẫu, khủng hoảng nới lỏng các qui tắc của giải-câu đố thông thường theo cách cuối cùng cho phép một khung mẫu mới  nổi lên. Tôi nghĩ, chỉ có hai lựa chọn khả dĩ: hoặc không lí thuyết  khoa học nào từng đối diện với một phản thí dụ, hoặc tất cả các lí  thuyết như vậy lúc nào cũng đối mặt với các phản thí dụ.
Tình hình có thể ra sao nếu khác đi? Câu hỏi đó nhất thiết dẫn  đến sự làm sáng tỏ mang tính lịch sử và phê phán về triết học, và  các đề tài đó bị chặn ở đây. Song ta chí ít có thể lưu ý hai lí do vì  sao khoa học dường như cung cấp một minh hoạ thích hợp đến  vậy về sự khái quát hoá rằng sự đúng đắn và sự sai lầm được xác  định duy nhất và rõ ràng bởi sự đối chất tuyên bố với sự thực.  Khoa học thông thường có và phải tiếp tục phấn đấu để đưa lí  thuyết và sự thực hợp sát hơn với nhau, và hoạt động đó có thể dễ dàng được xem như kiểm nghiệm hay tìm kiếm sự xác nhận  hay sự chứng minh là sai. Thay vào đó, mục tiêu của nó là đi giải  một câu đố mà chính sự tồn tại của nó phải được tính hợp pháp  của khung mẫu giả sử. Thất bại để đạt một lời giải làm mất uy tín  chỉ nhà khoa học chứ không phải lí thuyết. Ở đây, thậm chí nhiều  hơn ở trên, câu tục ngữ được áp dụng: “Thợ mộc tồi mới là  người đổ lỗi cho đồ nghề của mình”. Ngoài ra, cách trong đó sư phạm khoa học làm cho thảo luận về một lí thuyết vướng vào  bình luận về các ứng dụng mẫu mực đã giúp tăng cường một sự xác nhận-lí thuyết rút ra chủ yếu từ các nguồn khác. Cho trước lí  do mỏng manh nhất để làm vậy, người đọc sách giáo khoa khoa  học có thể dễ dàng coi các ứng dụng là bằng chứng cho lí thuyết,  các lí do vì sao nên tin nó. Song các sinh viên khoa học chấp  nhận các lí thuyết căn cứ vào uy quyền của thầy giáo và sách  giáo khoa, không vì bằng chứng. Họ có các lựa chọn khả dĩ nào,  hay năng lực nào? Các ứng dụng ở các sách giáo khoa không  phải như bằng chứng mà vì học chúng là một phần của học  khung mẫu về cơ sở của thực tiễn hiện hành. Nếu các ứng dụng  được nêu ra như bằng chứng, thì chính sự thất bại của các sách  giáo khoa để gợi ý các diễn giải khả dĩ khác hay để thảo luận các  vấn đề mà các nhà khoa học đã không tạo ra được các lời giải  khung mẫu sẽ kết án các tác giả của chúng là có thiên kiến cực đoan. Không có lí do mỏng manh nhất cho một sự kết án như vậy.
Vậy thì, quay lại câu hỏi ban đầu, các nhà khoa học phản ứng  thế nào với nhận thức về một dị thường trong sự phù hợp giữa lí  thuyết và tự nhiên? Cái vừa được nói ngụ ý rằng ngay cả một sự khác biệt không thể giải thích được, lớn hơn sự khác biệt được  trải nghiệm ở các ứng dụng khác của lí thuyết, không nhất thiết  kéo theo bất cứ phản ứng sâu rộng nào. Luôn có một số khác  biệt. Ngay cả các khác biệt ương ngạnh nhất thường rốt cuộc  cũng đáp lại thực tiễn thông thường. Các nhà khoa học rất  thường muốn chờ, đặc biệt nếu sẵn có nhiều vấn đề ở các phần  khác của lĩnh vực. Chúng ta đã lưu ý rồi, thí dụ, trong sáu mươi  năm sau tính toán ban đầu của Newton, chuyển động dự đoán  của điểm gần trái đất của mặt trăng chỉ là một nửa của chuyển  động quan sát được. Vì các nhà vật lí toán học giỏi nhất châu Âu  đã tiếp tục đánh vật không thành công với sự khác biệt được  nhiều người biết đến, đôi khi đã có các đề xuất sửa đổi định luật  nghịch bình phương của Newton. Nhưng chẳng ai coi các đề xuất  này rất nghiêm túc, và trên thực tiễn sự kiên nhẫn này với một dị thường lớn tỏ ra được biện minh. Năm 1750 Clairaut đã có khả năng chứng tỏ rằng chỉ có phần toán học của ứng dụng đã sai và  lí thuyết Newton có thể đứng vững như trước.3 Ngay cả trong các  trường hợp nơi không chỉ sai lầm có vẻ hoàn toàn có thể xảy ra  (có lẽ toán học bị dính dáng là đơn giản hơn hay thuộc loại quen  biết và thành công ở nơi khác), dị thường dai dẳng và được thừa  nhận không luôn gây ra khủng hoảng. Không ai nghi ngờ nghiêm  trọng lí thuyết Newton bởi vì sự khác biệt được thừa nhận từ lâu  giữ các tiên đoán của lí thuyết đó và cả tốc độ âm thanh lẫn  chuyển động của sao Thuỷ. Sự khác biệt đầu cuối cùng và hoàn  toàn bất ngờ được giải quyết bằng các thí nghiệm về nhiệt được  tiến hành cho một mục đích rất khác; sự khác biệt thứ hai biến  mất với lí thuyết tương đối tổng quát sau một khủng hoảng mà  nó đã không có vai trò gì để tạo ra.4 Hình như cả hai đã có vẻ không có đủ cơ sở để gây ra tình trạng bất ổn đi cùng với khủng  hoảng. Chúng được nhận ra như các phản thí dụ và vẫn được xếp  sang một bên cho công trình muộn hơn.
Suy ra là nếu một dị thường gây ra khủng hoảng, thì nó thường  phải nhiều hơn chỉ một dị thường. Luôn có những khó khăn ở đâu đó trong sự phù hợp khung mẫu-tự nhiên; hầu hết chúng sớm  muộn được sắp đặt lại chỉnh tề, thường bằng các quá trình không  thể dự kiến trước. Nhà khoa học tạm ngừng khảo sát mọi dị thường mà anh ta nhận thấy sẽ hiếm khi làm được công việc gì  đáng kể. Vì thế ta phải hỏi cái gì là cái làm cho một dị thường có  vẻ đáng khảo sát kĩ lưỡng có phối hợp, và đối với câu hỏi đó có  lẽ không có câu trả lời hoàn toàn tổng quát nào. Các trường hợp  mà ta đã khảo sát rồi là đặc trưng nhưng hầu như không là qui  tắc. Đôi khi một dị thường sẽ rõ ràng đặt các khái quát hoá tường  minh và cơ bản của khung mẫu thành vấn đề nghi ngờ, như vấn  đề kéo lê ether đã làm đối với những người chấp nhận lí thuyết  Maxwell. Hoặc, như trong cách mạng Copernican, một dị thường  không có tầm quan trọng cơ bản rõ ràng có thể gây khủng hoảng  nếu các ứng dụng mà nó ngăn cấm có một tầm quan trọng thực  tiễn đặc biệt, ở trường hợp này là làm lịch và thuật tử vi. Hoặc,  như trong hoá học thế kỉ mười tám, sự phát triển của khoa học  thông thường có thể biến một dị thường trước kia chỉ là một sự khó chịu thành một nguồn khủng hoảng: vấn đề về tỉ lệ trọng  lượng đã có địa vị rất khác sau tiến triển của các kĩ thuật hoá học  khí nén. Có lẽ vẫn có các hoàn cảnh khác có thể làm cho một dị thường đặc biệt cấp bách, và thông thường nhiều cái thế này sẽ kết hợp. Chúng ta đã lưu ý rồi, thí dụ, rằng một nguồn khủng  hoảng đối mặt với Copernicus đã chỉ là độ dài thời gian trong đó  các nhà thiên văn học đã đánh vật không thành công với việc làm  giảm bớt những khác biệt còn lại trong hệ thống của Ptolemy.
Khi, vì các lí do này hay lí do khác giống chúng, một dị thường  hoá ra có vẻ là nhiều hơn chỉ một câu đố khác của khoa học  thông thường, sự chuyển tiếp sang khủng hoảng và sang khoa  học khác thường đã bắt đầu. Bây giờ bản thân dị thường được  giới chuyên môn nhận ra là như vậy một cách phổ biến hơn.
Ngày càng có nhiều trong số những người xuất sắc nhất của lĩnh  vực chú ý ngày càng nhiều đến nó. Nếu nó vẫn tiếp tục kháng cự,  do nó thường không, nhiều trong số họ có thể đi đến coi việc giải  quyết nó là chủ đề của môn học của họ. Với họ lĩnh vực sẽ không còn giống hệt như trước kia nữa. Một phần diện mạo khác  của nó đơn giản là kết quả của điểm chú tâm mới của sự khảo sát  khoa học kĩ lưỡng. Một nguồn thậm chí quan trọng hơn của sự thay đổi là bản chất khác nhau của nhiều lời giải từng phần mà  sự chú ý có phối hợp vào vấn đề đã làm cho có sẵn để dùng.  Những tấn công ban đầu lên vấn đề kháng cự theo khá sát các  qui tắc khung mẫu. Nhưng với sự kháng cự tiếp tục, ngày càng  nhiều tấn công lên nó đã kéo theo sự trình bày lại nhỏ hay không  nhỏ nào đó của khung mẫu, không hai cái nào trong số đó giống  nhau, mỗi cái thành công một phần, song chẳng cái nào thành  công đủ đến mức để được nhóm chấp nhận như khung mẫu.  Thông qua sự tăng nhanh này của những trình bày lại khác nhau  (chúng ngày càng thường xuyên được mô tả như các điều chỉnh  ad hoc), các qui tắc của khoa học thông thường ngày càng trở nên bị mờ đi. Tuy vẫn có một khung mẫu, ít người thực hành tỏ ra hoàn toàn đồng ý về nó là cái gì. Ngay cả các lời giải chuẩn  của các vấn đề đã được giải quyết bị đặt thành vấn đề nghi ngờ.
Khi gay gắt, đôi khi các nhà khoa học liên can nhận ra tình  hình này. Copernicus đã than phiền là ở thời ông các nhà thiên  văn học đã rất “không nhất quán trong các khảo sát [thiên văn]  này…đến mức họ thậm chí không thể giải thích hay quan sát độ dài không đổi của năm theo mùa.” “Với họ”, ông tiếp tục, “cứ như là một nghệ sĩ phải tập hợp tay, chân, đầu và các chi khác  cho các bức tranh của anh ta từ các người mẫu khác nhau, mỗi  bộ phận được vẽ tuyệt vời, song không liên hệ với một cơ thể duy nhất, và vì chúng chẳng bằng cách nào khớp với nhau, kết  quả sẽ là một quái vật chứ không phải người”.5 Einstein, bị hạn  chế bởi cách dùng hiện hành với ngôn ngữ ít bóng bảy hơn, đã  chỉ viết, “Cứ như là mặt đất bị kéo ra khỏi dưới chân, chẳng thấy  nền móng vững chắc ở bất cứ đâu, mà trên đó người ta có thể xây dựng”.6 Và Wolfgang Pauli, vào các tháng trước bài báo của  Heisenberg về cơ học matrix chỉ đường đến một lí thuyết lượng  tử mới, đã viết cho một người bạn, “Bây giờ vật lí học lại bị lẫn  lộn kinh khủng. Trong mọi trường hợp, nó quá khó với tôi, và tôi  muốn giá như mình đã là một diễn viên phim hài hay cái gì thuộc  loại đó và chẳng bao giờ nghe đến vật lí học.” Lời chứng đó đặc  biệt gây ấn tượng nếu đối sánh với lời của Pauli sau đó ít hơn  năm tháng: “Loại cơ học của Heisenberg đã lại cho tôi hi vọng  và niềm vui trong cuộc sống. Thật ra mà nói nó không cung cấp  lời giải cho câu đố, song tôi tin lại có thể tiến lên phía trước”.7
 Các sự thừa nhận thẳng thừng như vậy về sự suy sụp là cực kì  hiếm, nhưng những ảnh hưởng của khủng hoảng không hoàn  toàn phụ thuộc vào sự thừa nhận có ý thức về nó. Chúng ta có  thể nói gì về những ảnh hưởng này? Chỉ hai trong số chúng có vẻ là phổ quát. Mọi khủng hoảng đều bắt đầu với sự làm mờ đi một  khung mẫu và tiếp đó với sự nới lỏng các qui tắc cho nghiên cứu  thông thường. Về khía cạnh này nghiên cứu trong khủng hoảng  rất giống nghiên cứu trong giai đoạn trước-khung mẫu, trừ việc ở trường hợp trước vị trí của sự khác biệt là cả nhỏ hơn lẫn được  xác định rõ hơn. Và mọi khủng hoảng chấm dứt theo một trong  ba cách. Đôi khi khoa học thông thường cuối cùng tỏ ra có khả năng xử lí vấn đề gây ra khủng hoảng bất chấp những người coi  đó là kết liễu của khung mẫu hiện hành. Trong các dịp khác vấn  đề kháng cự ngay cả các cách tiếp cận mới cấp tiến. Sau đó các  nhà khoa học có thể kết luận rằng sẽ không có lời giải nào cả trong trạng thái hiện thời của lĩnh vực của họ. Vấn đề được dán  nhãn và để sang bên cho thế hệ tương lai với các công cụ phát  triển hơn. Hoặc, cuối cùng, đó là trường hợp chúng ta quan tâm  nhất ở đây, một khủng hoảng có thể kết thúc với sự nổi lên của  một ứng viên mới cho khung mẫu và với cuộc chiến kế tiếp để được chấp nhận. Phương thức chấm dứt cuối cùng này sẽ được  xem xét chi tiết ở các mục muộn hơn, nhưng chúng ta phải dự iến một chút cái sẽ được nói ở đó nhằm hoàn tất các nhận xét  này về sự tiến hoá và giải phẫu của trạng thái khủng hoảng.
Quá độ từ một khung mẫu trong khủng hoảng đến một khung  mẫu mới từ đó một truyền thống mới về khoa học thông thường  có thể nổi lên còn xa mới là một quá trình tích luỹ, đạt được bằng  trình bày rõ thêm hay mở rộng khung mẫu cũ. Đúng hơn nó là sự xây dựng lại lĩnh vực từ các cơ sở mới, một sự tái xây dựng làm  thay đổi một số khái quát hoá lí thuyết cơ bản nhất của lĩnh vực  cũng như của các phương pháp và ứng dụng khung mẫu của nó.  Trong giai đoạn quá độ có sự chồng chéo lớn song không bao  giờ đầy đủ giữa các vấn đề có thể được giải quyết bằng khung  mẫu cũ và mới. Nhưng cũng sẽ có một sự khác biệt quyết định  về các phương thức giải quyết. Khi quá độ hoàn tất, giới chuyên  môn thay đổi cách nhìn của mình về lĩnh vực, các phương pháp,  và các mục đích của của nó. Quan sát một trường hợp cổ điển về sự định hướng lại khoa học do thay đổi khung mẫu, một sử gia  am tường mới đây đã mô tả nó như “tìm thấy cái đầu khác của  cây gậy,” một quá trình dính đến “việc xử lí cùng đống dữ liệu  như trước, nhưng đặt chúng vào một hệ thống mới của các mối  quan hệ với nhau bằng cách cho chúng một khung khổ khác”.8 Những người khác nhận thấy khía cạnh này của tiến bộ khoa học  đã nhấn mạnh sự tương tự của nó với sự thay đổi về gestalt° thị giác: các dấu hiệu trên giấy mà đầu tiên nhìn như một con chim  bây giờ nhìn như một con linh dương, hay ngược lại.9 Sự tương  tự đó có thể gây lầm lạc. Các nhà khoa học không thấy cái gì đó  như cái gì đó khác; thay vào đó, họ đơn giản thấy nó. Chúng ta  đã khảo sát một vài trong số các vấn đề này rồi, vấn đề sinh ra do  nói rằng Priesley đã thấy oxy như không khí bị phi nhiên tố.  Ngoài ra, nhà khoa học không giữ quyền tự do của đối tượng  gestalt để hoán đổi qua lại giữa các cách thấy. Tuy nghiên, hoán  đổi gestalt, đặc biệt vì ngày nay nó rất quen thuộc, là một nguyên mẫu sơ đẳng cho cái xảy ra trong một dịch chuyển khung mẫu ở qui mô trọn vẹn.
Việc lường trước ở trên có thể giúp chúng ta nhận ra khủng  hoảng như một khúc dạo đầu thích hợp cho sự nổi lên của các lí  thuyết mới, đặc biệt vì chúng ta đã khảo sát rồi một phiên bản  qui mô nhỏ của cùng quá trình trong thảo luận sự nổi lên của các  phát minh. Chính vì sự nổi lên của một lí thuyết mới tuyệt giao  với một truyền thống thực hành khoa học và đưa ra một truyền  thống mới được tiến hành dưới các qui tắc khác và trong khuôn  khổ một vũ trụ đàm luận khác, nó chắc chỉ xảy ra khi truyền  thống đầu tiên cảm thấy đã lạc đường một cách trầm trọng. Nhận  xét đó, tuy vậy, không hơn một khúc dạo đầu cho khảo sát trạng  thái khủng hoảng, và, đáng tiếc, cho các câu hỏi cần đến thậm  chí năng lực của nhà tâm lí học hơn là của nhà sử học. Nghiên  cứu khác thường giống cái gì? Làm sao dị thường trở thành  giống qui luật? Các nhà khoa học tiến hành ra sao khi chỉ biết  rằng cái gì đó đã sai một cách cơ bản ở mức mà sự đào tạo của  họ đã không trang bị cho họ [khả năng] để xử lí? Các câu hỏi  như vậy cần được khảo sát nhiều hơn nhiều, và không phải đều  mang tính lịch sử. Cái sẽ tiếp nhất thiết mang tính thăm dò, chưa  dứt khoát và ít trọn vẹn hơn cái đã được nói ở trước.
Thường một khung mẫu mới nổi lên, chí ít còn trứng nước,  trước khi một khủng hoảng đã phát triển xa hay được nhận ra  một cách rõ rệt. Công việc của Lavoisier tỏ ra là một trường hợp  như vậy. Lời ghi chép được niêm phong của ông được kí thác ở Viện Hàn Lâm Pháp ít hơn một năm sau nghiên cứu tỉ mỉ đầu  tiên về các quan hệ trọng lượng trong lí thuyết nhiên tố và trước  các công bố của Priesley đã tiết lộ đầy đủ qui mô khủng hoảng  trong hoá học khí nén. Hoặc lại lần nữa, các báo cáo của Thomas  Young về lí thuyết sóng ánh sáng đã xuất hiện ở giai đoạn rất  sớm của một cuộc khủng hoảng đang nảy nở trong quang học,  một khủng hoảng hầu như không đáng để ý trừ chuyện, nếu  không có sự giúp đỡ của Young, nó đã dần dần trở thành một vụ tai tiếng khoa học quốc tế trong vòng một thập niên từ lúc ông  viết lần đầu. Trong các trường hợp như thế này ta chỉ có thể nói  rằng một sự đổ vỡ nhỏ của khung mẫu và sự làm mờ ngay đầu  tiên của các qui tắc của nó cho khoa học thông thường đã là đủ để khiến ai đó nhìn lĩnh vực một cách khác đi. Cái xảy ra ở giữa cảm giác đầu tiên về rắc rối và sự thừa nhận một lựa chọn khả dĩ sẵn có hẳn chủ yếu là vô thức.
 Tuy vậy, ở các trường hợp khác – thí dụ, trường hợp của  Copernicus, Einstein, và lí thuyết hạt nhân đương thời - thời gian  đáng kể trôi qua giữa nhận thức đầu tiên về suy sụp và sự nổi lên  của một khung mẫu mới. Khi điều đó xảy ra, sử gia có thể chộp  được chí ít vài ám chỉ về khoa học khác thường giống cái gì. Đối  mặt với một dị thường được thừa nhận là cơ bản trong lí thuyết,  nỗ lực đầu tiên của nhà khoa học thường là cô lập nó chính xác  hơn và cho nó cấu trúc. Mặc dù bây giờ biết rằng chúng không  thể hoàn toàn đúng, anh ta sẽ đẩy các qui tắc của khoa học thông  thường ngặt nghèo hơn bao giờ hết để xem chính ở đâu và xa đến  đâu có thể làm cho chúng hoạt động trong lĩnh vực khó khăn.  Đồng thời anh ta sẽ tìm các cách để phóng đại sự đổ vỡ, để làm  cho nó nổi bật hơn và có lẽ cũng gợi mở hơn nó đã là khi được  biểu lộ trong các thí nghiệm mà người ta nghĩ rằng kết quả của  chúng được biết từ trước. Và trong nỗ lực sau, hơn trong bất cứ phần khác nào của sự phát triển khoa học hậu-khung mẫu, anh ta  sẽ trông hầu như giống hình ảnh phổ biến nhất của chúng ta về nhà khoa học. Đầu tiên, anh ta thường có vẻ như một người tìm  kiếm hú hoạ, thử các thí nghiệm chỉ để xem cái gì sẽ xảy ra, tìm  một hiệu ứng mà bản chất của nó anh ta không thể phỏng đoán  hoàn toàn. Đồng thời, vì không thí nghiệm nào có thể được hình  dung mà không có loại lí thuyết nào đó, nhà khoa học trong  khủng hoảng sẽ liên tục thử tạo ra các lí thuyết suy đoán cái mà,  nếu thành công, có thể tiết lộ con đường đến một khung mẫu mới  và, nếu thất bại, có thể bị từ bỏ tương đối thanh thản.
Báo cáo của Kepler về cố gắng kéo dài của ông với chuyển  động của sao Hoả và mô tả của Priesley về phản ứng của ông với  sự tăng nhanh của các khí mới cung cấp các thí dụ cổ điển về loại tìm kiếm ngẫu nhiên hơn do nhận thức về dị thường gây ra.10 Nhưng có lẽ minh hoạ hay nhất trong tất cả các minh hoạ là từ nghiên cứu đương thời trong lí thuyết trường và về các hạt cơ bản. Do thiếu một khủng hoảng cái làm cho cần chỉ để xem các  qui tắc của khoa học thông thường có thể vươn xa tới đâu, nỗ lực  cực kì lớn lao cần đến để khám phá ra neutrino có được biện  minh không? Hay, nếu các qui tắc không sụp đổ ở một điểm  không được tiết lộ nào đó, giả thuyết cấp tiến về sự không bảo  toàn parity (tính chẵn lẻ) đã được hoặc gợi ý hoặc kiểm nghiệm?  Giống phần lớn nghiên cứu khác về vật lí trong thập niên vừa  qua, các thí nghiệm này một phần là các nỗ lực để khoanh vùng  và xác định nguồn của một tập vẫn miên man của các dị thường.
Loại nghiên cứu khác thường này thường, tuy không phải nói  chung, đi kèm loại khác. Tôi nghĩ, đặc biệt ở các giai đoạn của  khủng hoảng được thừa nhận các nhà khoa học quay sang phân  tích triết học như một công cụ cho mở khoá các câu đố của lĩnh  vực của họ. Quả thực, khoa học thông thường thường thường  tránh làm thân với triết học sáng tạo, và có lẽ vì các lí do xác  đáng. Trong chừng mực công việc nghiên cứu thông thường có  thể được tiến hành bằng cách sử dụng khung mẫu như một mô  hình, các qui tắc và các giả thiết không cần phải nêu tường minh.  Ở mục V ta đã nhận thấy rằng tập đầy đủ của các qui tắc do phân  tích triết học tìm thấy thậm chí không cần tồn tại. Nhưng điều đó  không phải là nói rằng tìm kiếm các giả thiết (thậm chí các giả thiết không-tồn tại) không thể là một cách hữu hiệu để làm yếu  sự kìm kẹp của truyền thống lên đầu óc và để gợi ý cơ sở cho  một truyền thống mới. Không ngẫu nhiên rằng các nghiên cứu  triết học cơ bản về truyền thống nghiên cứu đương thời đã đi  trước và đi kèm sự nổi lên của vật lí học Newton ở thế kỉ mười  bảy và của thuyết tương đối và cơ học lượng từ ở thế kỉ hai  mươi.11 Cũng chẳng ngẫu nhiên là trong cả hai giai đoạn này cái  gọi là thí nghiệm tư duy (trong đầu) [thought experiment] đã  đóng một vai trò trọng yếu đến vậy trong sự tiến bộ của nghiên  cứu. Như tôi đã cho thấy ở nơi khác, thí nghiệm tư duy giải tích  chiếm một địa vị rất quan trọng trong các tác phẩm của Galileo,  Einstein, Bohr, và những người khác, được tính toán hoàn hảo để phơi khung mẫu cũ đối với tri thức hiện tại theo những cách để cô lập nguồn gốc của khủng hoảng với một sự trong sáng không  thể đạt được trong phòng thí nghiệm.12
Với sự triển khai các thủ tục khác thường này, đơn lẻ hay cùng  nhau, một việc khác có thể xảy ra. Bằng tập trung sự chú ý khoa  học vào một khu vực hẹp bị rắc rối và bằng chuẩn bị cho đầu óc  khoa học thừa nhận các dị thường thực nghiệm như chúng là,  khủng hoảng thường làm tăng nhanh các phát minh mới. Chúng  ta đã lưu ý nhận thức về khủng hoảng phân biệt thế nào công  trình của Lavoisier về oxy với công trình của Priesley; và oxy  không phải là khí mới duy nhất mà các nhà hoá học nhận biết dị thường đã có khả năng khám phá ra ở công trình của Priesley.  Hoặc lại nữa, các phát minh quang học mới tích tụ nhanh chóng  đúng trước và trong khi lí thuyết sóng về ánh sáng nổi lên. Một  số, như phân cực do phản xạ, đã là kết quả của những tình cờ mà  công việc tập trung vào khu vực rắc rối làm cho có thể. (Malus,  người phát minh, vừa mới bắt đầu làm việc cho tiểu luận đạt giải  của Viện Hàn lâm về khúc xạ kép, một đề tài được biết rộng rãi  là ở trạng thái không vừa lòng). Các vấn đề khác, như đốm sáng  ở trung tâm của bóng của một đĩa tròn, là các tiên đoán từ các giả thuyết mới, mà thành công của chúng đã giúp biến đổi nó thành  khung mẫu cho công việc muộn hơn. Và các vấn đề khác nữa,  màu của các vết xước và của các tấm dày, là các hiệu ứng thường  thấy và đôi khi được lưu ý trước đây, song, giống oxy của  Priesley, đã được đồng hoá vào các hiệu ứng được nhiều người  biết theo những cách ngăn cản việc nhìn chúng đúng như chúng  là.13 Có thể đưa ra một tường thuật tương tự về nhiều phát minh,  từ khoảng 1895, liên tiếp đi kèm sự nổi lên của cơ học lượng tử.
Nghiên cứu khác thường hẳn có những biểu hiện khác và các  hiệu ứng khác, nhưng trong khu vực này chúng ta chỉ vừa mới  bắt đầu phát hiện ra các câu hỏi cần phải hỏi. Có lẽ, tuy vậy, không cần nhiều hơn ở thời điểm này. Các nhận xét trước phải là  đủ để cho thấy làm thế nào khủng hoảng đồng thời nới lỏng các  mẫu sẵn và cung cấp dữ liệu gia tăng cần cho một sự dịch  chuyển khung mẫu cơ bản. Đôi khi hình thù của khung mẫu mới  được báo hiệu trước trong cấu trúc mà nghiên cứu khác thường  mang lại cho dị thường. Einstein viết rằng trước khi ông có bất  cứ thứ gì thay cho cơ học cổ điển, ông đã có thể thấy mối tương  quan giữa các dị thường được biết của phát xạ vật đen, hiệu ứng  quang điện, và tỉ nhiệt.14 Thường là không có cấu trúc nào như vậy được thấy trước một cách có ý thức. Thay vào đó, khung  mẫu mới, hay một gợi ý đủ cho phép trình bày rõ nó muộn hơn,  xuất hiện đột ngột, đôi khi giữa nửa đêm, trong đầu của một  người chìm sâu trong khủng hoảng. Bản chất của giai đoạn cuối  cùng đó là gì – làm thế nào một cá nhân phát minh (hay thấy  mình đã phát minh) ra cách mới để sắp xếp mọi số liệu được thu  thập hiện nay - ở đây hẳn vẫn là bí hiểm và có thể vĩnh viễn là  như thế. Hãy lưu ý chỉ một việc về nó. Những người đạt được  các phát minh cơ bản này về một khung mẫu mới hầu như luôn  luôn đã hoặc là rất trẻ hoặc là rất mới đối với lĩnh vực mà khung  mẫu của chúng được họ thay đổi.15 Và có lẽ điểm đó không cần  nêu ra một cách tường minh, vì hiển nhiên những người này, ít  dính vào thói quen trước đối với các qui tắc truyền thống của  khoa học thông thường, là những người đặc biệt có thể nhận ra  rằng các qui tắc đó không còn xác định một trò chơi có thể chơi  được nữa và đi nghĩ ra một tập mới có thể thay thế chúng.
Quá độ đó đến một khung mẫu mới là cách mạng khoa học,  một chủ đề mà chúng ta rốt cuộc đã chuẩn bị để tiếp cận một  cách trực tiếp. Đầu tiên, tuy vậy, hãy lưu ý đến khía cạnh cuối và hình như khó nắm mà trong đó nội dung của ba mục vừa qua đã  dọn đường. Cho đến Mục VI, nơi khái niệm về dị thường đầu  tiên được đưa ra, từ ‘cách mạng’ và ‘khoa học khác thường’ có  thể có vẻ tương đương. Quan trọng hơn, cả hai từ đều có vẻ không có nghĩa nhiều hơn ‘khoa học không thông thường’, một  sự lòng vòng làm ít nhất một vài bạn đọc khó chịu. Trên thực  tiễn, nó không cần phải làm vậy. Chúng ta sắp khám phá ra rằng  một sự lòng vòng tương tự là đặc trưng của các lí thuyết khoa  học. Gây khó chịu hay không, tuy vậy, sự lòng vòng đó không  còn hoàn toàn nữa. Mục này và hai mục trước của tiểu luận này  đã rút ra nhiều tiêu chuẩn về một sự suy sụp trong hoạt động  khoa học thông thường, các tiêu chuẩn không hề phụ thuộc vào  liệu một cuộc cách mạng có kế tiếp sự suy sụp đó hay không.  Đối mặt với dị thường hay với khủng hoảng, các nhà khoa học  có thái độ khác nhau đối với khung mẫu hiện hành, và bản chất  của nghiên cứu của họ thay đổi một cách tương ứng. Sự tăng  nhanh của các trình bày rõ hơn cạnh tranh nhau, sự sẵn sàng để thử bất cứ thứ gì, sự biểu lộ bất mãn rõ rệt, sự cầu viện đến triết  học và để tranh cãi về những cái cơ bản, tất cả những thứ này là  các triệu chứng của một quá độ từ nghiên cứu thông thường đến  nghiên cứu khác thường. Khái niệm về khoa học thông thường  phụ thuộc vào sự tồn tại của chúng nhiều hơn vào sự tồn tại của  các cuộc cách mạng.
-------------
1 Xem đặc biệt thảo luận trong N. R. Hanson, Patterns of Discovery  (Cambridge, 1958), pp. 99-105.
2 T. S. Kuhn, “The Essential Tension: Tradition and Inovation in Scientific  Research,” trong The Third (1959) University of Utah Research Conference  on the Identification of Creative Scientific Talent, ed. Calvin W. Taylor (Salt  Lake City, 1959), pp. 162-77. Về hiện tượng có thể so sánh được giữa các  nghệ sĩ, xem Frank Barron, “The Psychology of Imagination,” Scientific  American, CXCIX (September, 1958), 151-66, đặc biệt, 160.
3 W. Whewell, History of the Inductive Sciences (rev. ed.; London, 1847), II,  220-21.
4 Về tốc độ âm thanh, xem T. S. Kuhn, “The Caloric Theory of Adiabatic  Compression,” Isis, XLIV (1958), 136-37. Về sự dịch chuyển một trăm năm  [secular shift] của điểm gần mặt trời [cận nhật] của sao Thuỷ, xem E. T. Whittaker, A History of the Theories of the Aether and Electricity, II (London,  1953), 151, 179.
5 Được trích trong T. S. Kuhn, The Copernican Revolution (Cambridge,  Mass., 1957), p. 138.
6 Albert Einstein, “Autobiographical Note,” in Albert Einsten: Philosopher- Scientist, ed. P. A. Schilpp (Evanston, Ill., 1949), p. 45.
7 Ralph Kronig, “The Turning Point,” in Theoretical Physics in the Twentieth  Century: A Memorial Volume to Wolfgang Pauli, ed. M. Fierz and V. F.  Weisskopf (New York, 1960), pp. 22, 25-26. Phần lớn của bài báo này mô tả khủng hoảng trong cơ học lượng tử trong các năm ngay trước 1925.
8 Herbert Butterfield, The Origins of Modern Science, 1300-1800 (London,  1949), pp. 1-7.
° Gestalt [từ tiếng Đức, dạng, hình dạng] (theo trường phái gestalt các tính  chất của một thực thể không thể được khám phá ra từ tính chất của các thành  phần của nó; gần với chỉnh thể luận).
9 Hanson, op. cit., ch. i.
10 Về một tường thuật công trình của Kepler về sao Hoả, xem J. L. E. Dreyer,  A History of Astronomy from Thales to Kepler (2nd ed.; New York, 1953), pp.  380-93. Những điểm sai thi thoảng không ngăn bản tóm tắt của Dreyer cung  cấp tư liệu cần đến ở đây. Về Priesley, xem công trình của chính ông, đặc biệt  Experiments and Observations on Different Kinds of Air (London, 1774-75).
11 Về điểm đối triết học đi kèm cơ học thế kỉ mười bảy, xem René Dugas, La  mécanique au XVIIe siècle (Neuchatel, 1954), đặc biệt ch. xi. Về tình tiết  tương tự thế kỉ mười chín, xem cuốn sách sớm hơn của cùng tác giả, Histoire  de la mécanique (Neuchatel, 1950), pp. 419-43.
12 T. S. Kuhn, “A Function for Thought Experiments,” in Méslanges  Alexandre Koyré, ed. R. Taton and I. B. Cohen, sẽ được Hermann (Paris) xuất  bản, 1993.
13 Về các phát minh quang học mới nói chung, xem V. Ronchi, Histoire de la  lumière (Paris, 1958), ch. vii. Về sự giả thích sớm hơn của một trong các hiệu  ứng này, xem J. Priesley, The History and Present State of Discoveries  Relating to Vision, Light and Colours (London, 1772), pp. 498-520.
14 Einstein, loc. cit.
15 Khái quát hoá này về vai trò của tuổi trẻ trong nghiên cứu khoa học cơ bản  là phổ biến đến mức như lời sáo rỗng. Hơn nữa, ngó tới hầu như bất cứ danh  sách những người đóng góp cơ bản cho lí thuyết khoa học nào sẽ cho xác  nhận đầy ấn tượng. Tuy nhiên, sự khái quát hoá rất cần khảo sát có hệ thống.  Harvey C. Lehman (Age and Achievement [Princeton, 1953]) cung cấp nhiều  dữ liệu hữu ích; nhưng các nghiên cứu của ông đã không có nỗ lực nào để lựa  chọn ra những đóng góp dính dáng đến sự tái khái niệm hoá cơ bản. Chúng  cũng không thẩm tra về các hoàn cảnh đặc biệt, nếu có, có thể đi kèm hiệu  suất tương đối muộn trong các khoa học.