Chương 3
MỘ BƯỚM

Nghe tiếng lục đục trong bếp, Sa bật dậy. Choàng tấm áo len lên người, nàng mở cửa phòng rón rén đi  xuống. Cánh cửa bếp khép hờ, mùi củi thơm thoang thoảng bay vào mũi. Mẹ Sa ngồi xổm hí hoáy cời lửa, mái  tóc chưa cuốn lại xổ tung rơi xuống vai. Nhìn mẹ, Sa bặm môi, đăm chiêu một lát rồi  lẳng lặng bỏ đi.  Ðến chân cầu thang, miệng Sa thoáng một nét cười tinh quái. Nàng lắc đầu, chân bước nhẹ lên thang còn mập mờ tranh sáng tranh tối.
Sa gõ cửa căn phòng nằm trong góc cuối  hành lang.  Tiếng Freddy bảo chờ, rồi một lát sau,  cửa hé mở.  Mình trần, ngực vạm vỡ lông lá, Freddy nhìn Sa, nói như  một phản ứng tự động:
- Không cần làm phòng... Cám ơn!
Sa cắn môi,  ngập ngừng:
- Tôi muốn...cám ơn anh.  Ngày hôm qua, anh...
Khoa tay, Freddy cắt ngang:
- Tôi có làm được gì đâu?  Nó đã sàm sỡ rồi, lẽ ra tôi phải xin lỗi cô cho thằng Billy chứ mặt mũi nào nhận lời cám ơn này...
Sa gạt:
- Anh nói thế... Anh khác.  Tôi nói thật, anh khác mọi người khách du lịch đến từ nước Mỹ- Sa tần ngần -  xưa nay, chúng tôi nghe đài đọc báo, cứ tưởng là người Mỹ nào cũng giống nhau...
Freddy mở rộng cửa, tay làm dấu mời Sa vào, lạnh lùng:
- Ðiều cô vừa nói cũng không sai hết đâu.  Chúng tôi có chung với nhau một Lincoln, một Washington...  Vừa qua, chúng tôi lại có chung với nhau một cuộc chiến.  Rồi lần đầu, một chiến bại...
 Với tay quàng chiếc sơ mi lên người,  Freddy tiếp, mắt nhìn lên những xác bướm ghim trên những mảnh bìa treo trên tường:
-... và tiếp đó là một hội chứng, gọi là The Vietnamese Syndrom.  Cô đã từng nghe thấy từ này chứ?
Sa lắc đầu, miệng cười, tay vén mớ tóc ra sau. Giọng chợt buồn hẳn lại, Freddy thì thào:
- Tôi cũng đã sống chiến tranh Việt Nam.  Lúc đó, tôi được mười hai tuổi.  Cha tôi là phi công...  Sáng sớm hôm cha rời nhà lên đường bay sang Việt Nam, cha ôm tôi hôn, cứ tưởng tôi còn ngủ, rón rén đi ra không nói gì.  Ðợi cha khép cửa buồng, tôi lẳng lặng theo.  Cha ôm Mom[1].  Mom khóc.  Cha bảo: "... For god sake!  I’ll come back if you don’t cry[2]!  "
Nghẹn ngào, Fređdy đứng dậy đi ra cửa sổ nhìn trời. Sa theo sau, nhẹ nhàng:
-...rồi sao nữa anh. Hãy  kể cho tôi nghe...
Không quay lại, Fređdy cười hừ đánh trống lảng:
- Thôi, có gì hay hớm đâu...Vì sao cô muốn nghe?
 Sa nói nhỏ:
- Cha tôi cũng đi, như cha anh...
Fređdy quay lại, ngacï nhiên thấy tròng mắt  Sa mắt ngấn lệ. Chàng không cưỡng lại cái nhu cầu thổ lộ, nhất là khi kẻ đối thoại chắc có thể hiểu vì đồng cảnh ngộ, chậm raĩ nói tiếp:
- Nghe cha tôi nói, nước mắt tôi ứa ra.  Tôi thì thầm no "Mom! You shoud’nt cry!  Please, you should’nt![3] ".  Nhưng mom không kìm được, nức nở chẳng nói nên lời.  Cha đi, tôi quay lại phòng, giả vờ ngủ...  Tôi không dám nhìn mom lúc đó, và biết mình không làm gì để an ủi mom cho được!  Tôi nhắm mắt và lẩm nhẩm đọc Kinh Lạy Cha.  Từ đó, sáng nào tôi cũng đọc Kinh này.  Ðọc xong, tôi lấy sáo ra thổi tạ ơn Thượng Ðế...
Freddy lẳng lặng quay vào  ngắm những cánh bướm ướp ghim trên bìa cứng.  Sa nhìn theo.  Có lẽ phải có đến cả trăm con, được phân loại theo giống và theo kích thước.  Vẫy Sa lại,  Freddy chỉ:
- Con bướm cánh to bằng bàn tay này, tôi phải mất ba ngày mới tìm cách bắt được nó mà không mất lớp phấn màu vàng chói óng ánh nằm giữa nên xanh biếc quanh có những vân tím than...  Cô thấy, đẹp lắm chứ!  Người Dao bảo mỗi con bướm đều mang một linh hồn người đang còn luyến tiếc thế gian.  Có thể đó là linh hồn những người chết oan.  Xứ xở này rất nhiều bướm, phải không cô?  Mỗi lần vào rừng, tôi cũng mang sáo ra thổi để cởi dây oan khiên cho những linh hồn đó...  Hôm nào, tôi mời cô đi.  Khi tôi chơi những đoản khúc của Prokofiev, bướm thường lượn thành đàn xung quanh...
Sa ngạc nhiên:
- Thật vậy hả?  Thế sao anh lại bắt chúng...
Freddy buồn bã:
- Tôi tin rằng một lúc nào đó, tôi sẽ bắt được một con bướm mang linh hồn cha còn vất vưởng đâu đó...  Phi cơ của cha rơi ở vùng này, khi cha bay thám thính đường vận chuyển bằng xe lửa nối Trung Quốc với Lào Cai...  Xác cha vẫn chưa tìm được...  Cô biết chứ, linh hồn cha còn ở đây vì xương cốt cha còn vất vưởng trong núi rừng vây bọc dãy Hoàng Liên Sơn này!
Ðột nhiên, Freddy gằn giọng như có ai đó vô hình  đang tranh cãi với  mình:
- Cha tôi không phải là một tên sát nhân như báo chí, truyền hình cả thế giới này buộc tội.  Nhớ đấy, cha chỉ làm những phi vụ thám thính và chụp hình, không bao giờ ném bom nhé!  Thư cha viết về cho tôi, cha nói thế...  Không bao giờ!  Never, never...  Thành thử cái chết của cha là cái chết  đầy oan khiên, Freddy trầm giọng, và thế nào tôi cũng tìm được con bướm mang linh hồn cha!
Ngỡ ngàng một lát, Sa thoáng chút thương hại, dịu dàng:
- Vâng, tôi tin thế...
Nghĩ ngợi, Sa nói tiếp:
- Người Hmông có tiếng là có thuật gọi được hồn người chết về trò chuyện.  Ðiều này, nhiều người cho là dị đoan...
Bật dậy, Freddy nắm lấy cườm tay Sa, nói van nài:
- Cô có biết ai có cái thuật  ấy không?  Tôi thì tôi tin!  Tôi muốn nói chuyện với cha.  Chỉ một lần thôi...  Xưa cha viết về bảo mom và tôi rằng máy bay làm phi vụ thám thính bay rất cao, tên lửa không lên tới được.  Vì thế, làm sao máy bay cha lái lại rơi?  Ðấy, tôi van cô, cô làm trung gian tìm cho tôi một người biết gọi hồn, tốn kém gì tôi cũng trả được...
Gỡ nhẹ tay Freddy ra, Sa đi ra nói với lại:
- Tôi sẽ giúp anh - Sa cười - với  điều kiện!
Freddy vội bước theo, vội vã:
- Ðiều kiện gì?
Sa đưa tay lên môi làm dấu:
- Tôi sẽ nói sau.  Nhưng đừng kể lại cho ai cả nhé.
°
Khoảng vào lúc mặt trời ló lên khỏi đỉnh Fan-xi-pan, chợ Sapa bắt đầu tấp nập vào mỗi sáng thứ bảy.  Người Hmông, người Dao, cho đến người Pà Thẻn du mục cũng về tụ tập.  Họ đi thành từng nhóm năm, bảy người, gùi trên lưng, nách kẹp những cuốn vải thổ cẩm thêu tay, áo chẽn, quần bó đủ màu đủ sắc mang lên bán cho du khách và những cửa hàng lưu niệm phần lớn do người Kinh làm chủ.  Phân biệt được qua cách ăn mặc, màu khăn, màu mũ, họ hoặc là Hmông xanh, Hmông đen, Hmông hoa, hoặc là Dao đỏ, Dao Tiền, Dao quần chẹt... Một số kéo đến khách sạn chào hàng.  Họ xô đến giúi hàng vào tay đám du lịch, miệng cười, líu lo "chíp, chíp", và xì xào "lô vơ mác két", làm như thể chợ Tình họp tối nay là một dạ hội hóa trang.
Khi Marthe ra đến cửa khách sạn, họ reo "công chúa!" rồi ùa cả đến.  Công chúa không mặc cả, lấy hết cái khăn choàng này đến cái váy nọ, cuối cùng mang vào cả đống sản phẩm thủ công, mặc cho ông hoàng bất đắc dĩ André cứ chau mày thở dài thườn thượt.  Kể ra, Marthe là người rộng rãi.  Marthe bảo với André:
- Mua về làm quà cho bạn bè!  Ở Paris, làm gì còn ai có đồ thêu tay thế này!
André kêu:
- Xách nặng lắm!  Và kẻ khuân vác cho công chúa đây đã già rồi...
Marthe cười:
- Chéri, già đâu mà già...
Lùng Thầu cùng một số gia đình cũng đến Sapa.  Sau ngày họp chợ, họ sẽ đưa Marthe về Lũng Mây.  Tất cả đều dự định cùng đi với Marthe, trừ Billy.  Hắn bẽn lẽn, xin chuyển sang một khách sạn khác sau buổi tối sàm sỡ với Sa và nay theo một toán du khách mới từ Hà Nội lên.  Buổi trưa, chỉ còn Hà và cặp vợ chồng đi cùng chuyến. Trong phòng ăn, André luôn miệng hỏi Sa về chợ Tình.  Sa chỉ cười bí mật, lảng chuyện, và bảo cứ đợi, khoảng tối trời là chợ họp.
Ăn xong, Hà ra ngoài hiên.  Nắng óng ả giải một lớp vàng tươi lên cây cỏ.  Mây mù tan trên những rặng núi trùng trùng điệp điệp vây quanh, vén lên bức màn the đục trắng như sữa che những đỉnh cao nay lồ lộ chọc thẳng lên trời xanh nhìn như dương vật của thứ giống đực vào mùa ái tình.  Tiếng Sa cất lên làm Hà giật mình quay lại.  Miệng cười, Sa và Marthe hiện ra trong trang phục người Hmông.  Cả hai mặc áo bó, váy chẽn, có viền những hàng chỉ vàng và đỏ trên nền tím than.  Marthe bảo:
- Nhờ anh bấm hộ cho mấy pô ảnh!
Hà gật đầu, đưa tay ra cầm máy.  Sa bẽn lẽn, thì thầm vào tai Marthe.  Marthe lại nhìn Hà:
- Anh chờ chúng tôi vài phút nhé.  Ðể chúng tôi hóa trang cho đúng cách!
Vui vẻ, Hà mỉm cười.  Lát sau, Marthe và Sa đầu đã đội khăn đỏ, tóc bới lên cao.  Marthe đánh mắt cho Sa, bôi lên mi mắt một lớp phấn lục và lấy mascara kẻ lông mi, uốn cho cong lên, khiến cái nhìn của Sa bỗng dưng mất hết vẻ trẻ dại.  Môi tô một lớp son đỏ tươi, Sa nhếch lên cười, ngượng nghịu hỏi Hà:
- Thấy có được không chú?
Ngắm Sa, Hà khẽ gật đầu, mắt để vào cổ Sa. Chiếc cổ cao, tròn, trắng bóc như ngọc thạch nổi lên cạnh mái tóc đen huyền bới cao.  Bước đến gần, Hà ngửi thấy một mùi hương nhè nhẹ thoáng qua rồi biến mất.  Nhìn vào những sợi lông tơ mọc trên gáy Sa, Hà bỗng thấy thèm đặt môi lên, cắn nhẹ vào, hệt như khi còn bé thèm mút một chiếc kem que.  Marthe chọn góc vườn còn nhiều hoa thược dược, vẫy Sa:
- Lại đây, chỗ này đẹp...
Hà bấm máy ảnh, mắt nhìn, nhưng đầu cứ tưởng đến chiếc cổ tròn, gáy có những sợi lông tơ và thoáng thứ hương thơm Hà chưa kịp định loại.  Một lúc sau, tay chỉ lên sườn núi cạnh khách sạn, Sa nhìn Hà và Marthe, miệng ríu rít:
- Ta lên đỉnh Hàm Rồng?
Khi trời bắt nóng hừng hực, Marthe quệt mồ hôi rồi đề nghị về. Cả bọn thả dốc, chân dẫm ngang để lấy thế cân bằng.  Hà nhặt một khúc cây làm gậy chống, đi trước để đỡ Marthe và Sa khi cần.  Ðến một đoạn thoai thoải đi đã dễ, Sa nói:
- Lối này dốc, nhưng về nhanh hơn!
Marthe lắc đầu, bảo Sa cứ đi.  Nhìn Hà khiêu khích, Sa cười:
- Chú có dám không?
Hà vui vui, giả vờ lắc đầu, nhưng tuột xuống trước.  Quả là dốc thật, độ nghiêng lắm khi làm chóng mặt.  Sa xuống núi như một con sóc.  Qua một đoạn đầy sỏi, chân Hà tuột đi, chiếc gậy chống không đỡ người nổi.  Chàng chúi xuống đất,  thân sóng xoài rồi ngã, đầu đâm vào lòng Sa.  Chợt lại thấy mùi hương ban nãy thoảng lại, Hà nhắm mắt hít vào,  có cảm giác đây không phải là lần đầu khứu giác mình bắt gặp một mùi hương hăng nồng tương tự. Ngửng lên, Hà bắt gặp đôi mắt Sa, viền mi kẻ đen, mí mắt tô xanh, mở rộng ra như cả bầu trời bát ngát lơ lửng. Nghe tiếng Sa cười, Hà hỏi như kẻ mất hồn:
- Mùi gì mà thơm thế?
Sa đáp, giọng cố làm ra tự nhiên:
- Mùi con gái, anh ạ!
Phần Hà, Hà biết rõ ràng Sa vừa gọi mình bằng anh nhưng nghĩ có lẽ là do Sa buột mồm nói lẫn.
°
Ðợi một lúc nơi cuối dốc, Hà và Sa thấy bóng Marthe từ xa đi lại.  Họ cười với nhau rồi cùng về khách sạn.  Ðến gần, tiếng sáo Freddy thổi đang vút lên cao, thình lình rơi xuống  nghe như một cục đá tảng rời sườn non tuột xuống.  Marthe bảo:
- Anh ta đang thổi theo hứng!  Chắc nỗi lòng đang vào cơn xao xuyến...
Sa đẩy cánh cổng vào trước.  Freddy vùng dậy,  ngỡ ngàng nhìn Sa trong trang phục Hmông,  buột miệng:
- Trông như một con bướm.  Bướm đẹp nhất Sapa này!
 Sa khẽ gật đầu chào, miệng cười như cám ơn. Freddy bước theo Sa. Sa ngoái lại, giọng tinh nghịch:
- Nhưng anh đừng chích phóc-môn nhé!  Tôi không muốn làm một cái xác khô mà còn giữ được linh hồn đâu.
Chưa dứt lời, Sa chợt cảm nhận kiếp tù tội cùa những cánh bướm khô. Nàng thầm nhủ, linh hồn tôi không cần chất hóa học và cũng chẳng màng đến chuyện bất tử.  Khi không còn thể xác,  tôi cầu mong cho linh hồn tôi tự do... 
Freddy chưa kịp phản ứng thì Sa tiếp:
-... và xin chớ ghim tôi lên tường cạnh những xác khô. Còn thể xác thì không thể tự do được.
Ðột nhiên Sa gằn giọng, mắt nhìn Freddy trừng trừng:
-  Có phải tự do là điều mà người Mỹ các anh cứ  hô hào tuyên bố gì là lại lập đi lập lại như cha tôi bảo vậy không...
Như bị thôi miên, Freddy khe khẽ gật đầu, miệng nhếch lên cười. Sa cười nhạt:
-... nhưng tự do để làm gì, các anh có biết không?  Cha tôi ngờ rằng không!  Ông bảo tôi, con ơi, tự do mà không có mục đích  gì thì đó là điều ghê rợn nhất cho loài người.
Ðúng lúc đó, mẹ Sa ở đâu xô ra.  Bà kêu:
- Sa con, vừa lên Hàm Rồng à!  Vào đây, nhanh...
Sa lạnh lùng chào Freddy, theo mẹ vào bếp.  Bà bực bội:
- Mẹ đã bảo nằm mơ thấy anh con tay chỉ lên đó, dặn con tránh đi mà thoáng một cái là con biến mất...
- Con phải dẫn khách đi chụp ảnh!
- Thiếu gì chỗ chụp!  Lần trước mơ thấy anh ấy chỉ tay về phương nam thì cha con bỏ đi.  Lần này... - mẹ Sa thở dài  - anh mày chết ở Campuchia, người ta bảo chết ở đó thiêng lắm.  Lại chết trẻ, chưa được hai mươi...
Nghe tiếng mẹ sụt sịt, Sa lắc đầu bước ra, miệng lẩm bẩm:
-... sống khôn, chết thiêng.  Thiêng thật thì giúp em...  Ðừng để ai nhốt linh hồn em vào những cánh bướm khô cứng ở đây, tội nghiệp!
°
Mẩu đối thoại tưởng như chuyện thoảng qua không ngờ lại tác đọâng lên Freddy một cách lạ lùng. Ði đi lại  lại trong sân, hắn vò đầu, mặt co giúm lại nhăn nhó, thỉnh thoảng buột miệng kêu Trời.  Ðến trước mặt Hà, Freddy run run:
- Người ở đây thù ghét  người Mỹ đến thế à?  Cả cái cô bé con kia cũng như họ, anh thấy không...
- Cô ấy chỉ lập lại lời cha cô. Có lẽ ông thuộc vào một thế hệ khác...Còn Sa, cô ta nào đã biết gì!
Freddy bần thần nhìn Hà, băn khoăn:
- Anh nghĩ  cha Sa nói có đúng không? Tự do mà không mục đích! Thật là người Mỹ không có mục đích, cứu cách gì  à?  Xưa cha tôi qua đất này, ông bảo tôi, cha đi chiến đấu cho tự do.  Một thế giới tự do.  A Free World...
Nhìn Hà ngồi  im lặng,  Freddy tiếp:
- Anh không tin, tôi biết.  Nhưng anh nay là công dân Mỹ, anh sống ở đấy anh biết thế nào là tự do, ít ra là tự do kiểu Mỹ.  Anh thấy thế nào?
Trầm ngâm, Hà suy nghĩ mông lung, rồi bật lửa châm thuốc hút. Nhìn Freddy, Hà  nhẹ nhàng:
- Có, tôi có tự do, hiểu một cách so sánh với tự do ở một nơi nào khác, chẳng hạn như ở đây.  Nhưng vấn đề là cứu cánh của tự do...
 Hà ngập ngừng, bỏ lửng câu định nói. Chàng bỗng thấy chua xót cho mình.  Con người có thể tự do mà không cứu cánh, và như thế có  là như hụt bước rơi trong chân không?  Ðó liệu phải là trường hợp tôi - một anh broker - ở New York, có được ít ngày nghỉ, chợt hẫng chân rồi nhận ra cái vận tốc ly tâm của mình trong chuyển động vòng? Nó khiến tôi ngày một xa đi chính cái tôi, một cái tôi uyên nguyên, có trí nhớ, có ước vọng.  Về đến xứ sở của mình, dĩ nhiên là tương đối mất đi một chút tự do, nhưng ngược lại, chuyển động ly tâm chậm lại, và hình như nó đổi chiều để cái tôi kia bị một thứ lực đồng tâm hút lại, qui về sự uyên nguyên tưởng như đã mất...
Lắc tay Hà, Fređđy đợi một  câu trả lời. Ấp úng, Hà hạ giọng:
- Thôi, hãy thực tiễn¼ Giả thử như anh hỏi tôi chọn lựa giữa tiếp tục sống ở Mỹ hay về đây sống, tôi sẽ không biết chọn thế nào...
Freddy khổ sở xua tay, ngắt:
- Không, không!  Tôi muốn anh bàn về cái thế giới tự do cha tôi tin vào. Cha tôi thuộc diện M.I.A.  Chiến tranh Việt Nam đã  chấm dứt gần một phần tư thế kỷ, và tôi tin rằng cha tôi đã chết. Tôi chỉ muốn hiểu ý nghĩa của cái chết đó, thế thôi...
 Thò tay móc một điếu thuốc, Freddy lóng ngóng mồi lửa, giọng hoảng hốt  nói  mỗi lúc một nhanh:
- Cha tôi là thiếu tá không quân.  Nước Mỹ có chiến tranh, ông nhận lệnh đi chiến đấu.  Ông viết thư cho tôi, bảo cha không thả bom, chỉ bay thám thính.  Rồi có thể bị trúng tên lửa, từ đó ông biệt tích.  Nhưng tại sao khi đi ông bảo đi chiến đấu cho tự do, mà rồi sau đó cứ nhắc đi nhắc lại với  tôi là máy bay ông không thả bom?  Máy bay thám thính bay cao quá tầm tên lửa.  Vậy vì lý do gì máy bay ông lại rơi?  Ông thám thính hay thả bom?  Nói với tôi, ông nói thật hay dối?  Tại sao dối?  Rồi chết, chết để làm gì?  Cho cái gì?
Nhìn Freddy hào hển thở dốc ra, Hà biết nói gì cũng chẳng thể trả lời những câu Freddy hỏi. Hà đứng dậy khi nghe tiếng Sa gọi.  Freddy bảo không đói, lại nâng cây sáo lên ngang miệng, thổi như để tự trấn an.
Trong phòng ăn, Marthe và André đã ngồi chờ. Hà lẳng lặng ngồi xuống bàn.  André nhìn Marthe, vui vẻ:
- Thế mà không đợi tôi để tôi có dịp chụp ảnh với công chúa.
Vẫn mặc trang phục người Hmông, Marthe đáp, giọng diễu cợt:
- Dịp còn nhiều, thưa ngài. Bây giờ chúng ta uống một ly để ghi nhớ ngày họp chợ Tình. Nhưng Freddy đâu?
Tiếng sáo ngang dìu dặt rồi thê lương.  Sa ra, tay bưng đồ ăn.  Nàng  tưởng tượng ra một đàn bướm bay lại khi nghe sáo, chờn vờn nhảy múa, rồi bất chợt lả tả rơi xuống như những cánh bướm có trích phóc-môn, thứ hóa chất có thể giam hãm cái đẹp trong sự bất tử khô khốc của những linh hồn vất vưởng.
°
Ba người rẽ ngang hông nhà thờ, dừng chân trên những bực đá dẫn xuống chợ.  Cứ mỗi khoảng vài mươi bực, người ta vạt núi xây một khoảnh sân dọc độ tám mét, ngang khoảng năm mét.  Hai bên sân, người Kinh làm những quán ăn, quán nước, biển kẻ bằng sơn quảng cáo đủ loại đồ ăn, nào là thịt chó, tiết canh, trâu thui, cháo lòng...  Quán rất hẹp, chỉ có một hay hai bàn thấp kê sát nhau, xung quanh xếp những chiếc ghế đẩu.  Trên góc cao, quán nào cũng có một chiếc tivi màu thường trực mở, vặn to đến độ cách dăm thước đã nghe ra rả tiếng xướng ngôn viên đọc tin, tiếng ca, tiếng hát.  Quán sang, có dàn video, chiếu những phim chưởng Hồng Kông, và thường là khách chen nhau xếp hàng trong, hàng ngoài, mắt trố lên xem.
André hỏi Hà:
- Chợ Tình họp ở chỗ nào?
- Chợ bé lắm, ta cứ dạo quanh là tìm ra.
Níu vào tay André, Marthe chúi chân đi, cười:
- Suýt nữa, tối thế này mà không có đèn đường, dễ ngã thật!
Hà nhìn lên trời:
- May mà có trăng.  Thường, chợ Tình họp ngày trăng tròn.  Người Hmông ra đây chọn vợ chọn chồng. Không có trăng, chắc là có nhiều bất ngờ không được lý thú lắm... phải không?
 Ba người cẩn thận xuống những bực đá.  Họ dừng ở sân, nhìn vào hàng quán dưới ánh đèn điện hắt một thứ màu sáng vàng khè như màu da sốt rét kinh niên.  André tay chỉ, chân tiếp tục bước xuống, miệng giục.  Marthe bất chợt ngừng chân, miệng thì thào:
- Có nghe thấy gì không?  Có tiếng khèn và tiếng đàn ghim-bác...
Dưới ánh trăng loáng  bạc, họ lần theo tiếng khèn, mắt mở to  cố nhìn để tránh những hố nước trên lối đi.  Xuống hết những bậc đá, chợ dưới nằm trên một khoảng đất rộng, lổn nhổn những mảnh vải bạt căng lên làm mái.  Ðèn ở đây tắt hết.  Chợ không còn một ai, hàng quán đã dẹp sạch, im ắng.  Vài con chó hoang cụp đuôi chạy, rúc đầu vào rồi lấy chân bới dăm đống rác rưởi đã quét vun vào góc chợ.
André mất kiên nhẫn, nói nhỏ:
- Ðây không thể là chợ Tình được.
- Suỵt, anh vẫn nghe chứ... Tiếng khèn.
Marthe nói xong, tay kéo André, mắt nhìn Hà dấn bước.  Tiếng đàn và tiếng khèn rõ dần, rồi lắng tai sẽ nghe thấy giọng hát ê a, nho nhỏ, như van vỉ, như kể lể.  Tay để lên miệng ra dấu im lặng, Marthe dỏng tai lên, chân lần bước, mắt nhìn quanh.  Lát sau, dưới một mái bạt thấp thoáng có bóng người.
Ðến gần, họ gồm ba người, một cô gái đứng giữa, hai bên có hai thanh niên.  Cô gái quay về phía một người đang hát, người kia thổi khèn đệm.  Anh ta hát rằng:
"Giờ này trời đã về khuya
Sao lượn vòng đổi ngôi, sương phủ trắng
Tay anh ôm đàn
miệng anh hát anh yêu em.
Em không có lòng thì thôi
có lòng thì về, ta ở với nhau một đêm
em không có lòng thì thôi
có lòng thì về, ta ở với nhau một ngày.
Bố mẹ anh như cái vườn hoang
anh muốn lấy em về,
nhưng đồng tiền không có
Hôm nay không có
ngày mai sẽ có
có lòng thì về, cả hai ta sẽ có, em ơi!"
Giọng hát kéo dài ra, ngắt quãng, nằm chênh vênh trên thanh âm của chiếc khèn ngân lên như lè nhè.  Cô gái cúi đầu, mồm lí nhí, rồi quay về phía thanh niên vừa thổi khèn. Giờ là đến lượt anh ta hát. Thanh niên kia với cây đàn, bựt dây. Sau một tiếng hắng lấy giọng, anh cất tiếng:
"... Anh biết đọc, lại biết viết
cái nghiên ở tay, cái bút ở tay
chọn người bạn đời chỉ mong chọn được
người đẹp lứa.
Mùa đông dây leo không mọc chồi
mừa xuân dây leo mọc.
Dây mọc không có lối vươn, phải lách ra hốc cây, và xin với em hãy nghe anh nói.
Con đường trẻ không lâu
con đường già, em ơi, mau tới
Ðời người như bóng dâm ngả xuống bên đồi.
Ðời người không hết, quấn thành vòng như
sợi dây vặn, gỡ cũng không ra
Như tình ta
chết nhưng chẳng nát tan"
Cô gái trưa nay gặp hai chàng đều có lòng với mình.  Cô ưa cả hai, không biết chọn lựa thế nào, bèn hẹn nhau ra góc chợ, để hai người hát tỏ tình, cứ người này hát thì người kia đệm nhạc cho. Cô phải chọn một trong hai.  Người được chọn bắt cóc cô, vài hôm sau mang cô về trả lại gia đình và xin cưới theo phong tục người Hmông.
Ðã đến lúc phải quyết định, cô gái im lặng, đầu cúi gầm, tay vân vê bứt rứt.  Một lát sau, cô nói câu gì nho nhỏ, quay mình đi.  Anh thổi khèn lẳng lặng theo.  Anh đánh đàn đứng trơ trơ, bóng anh đổ  ngã sóng soài trên nền đất.  Rồi anh ta đi về phía những bực đá dẫn lên chợ trên.
Marthe thì thào:
- Tránh ngay, đừng để anh ta thấy mình...
Ba người kéo nhau nấp vào sau một bức tường vôi.  Lát sau, họ mới đi ra.  André nhìn Marthe, cười:
- Chuyện tình ở đây thật đơn giản, tình địch đệm khèn đệm đàn cho nhau hát...
Marthe đáp, giọng bùi ngùi:
- Nhưng thất tình, ở đâu cũng khổ như nhau cả...
Ngẫm nghĩ, Hà liên tưởng đến những người gọi là văn minh hơn đã chém giết nhau để tranh cướp tình yêu ở bên Ðông cũng như bên Tây.  Những thiên tình sử đầy máu và nước mắt vẫn tiếp tục làm những kẻ nhẹ dạ khóc vì cảm động. Họ quả khác hẳn hai thanh niên vùng núi này cùng chọn một cô gái, người nọ đệm đàn cho người kia hát, và rồi kẻ thất tình chỉ lẳng lặng bỏ đi. Như thế, người ở đây thực sự có phải là người thiếu văn minh không? Hà lắc đầu, kiếu cặp vợ chồng đồng hành, nhắm bóng kẻ thất tình đó chạy theo.
°
Thoáng thấy bóng Sa, Freddy nhảy ba bực thang một xuống.  Vào phòng ăn, Freddy nhìn quanh tìm.  Không thấy Sa, Freddy cất tiếng gọi.  Mẹ Sa đi ra.  Freddy bối rối gọi một chai nước ngọt.  Không hiểu, mẹ Sa nói "uây, uây" rồi vào bếp.  Một lát sau, Sa thò đầu ra hỏi.  Bưng chai nước đến bàn Freddy ngồi, Sa tươi cười:
- Anh không đi chợ Tình?
- Không!  Tôi đợi khách đi hết để có dịp nói chuyện với cô.
-???
- Cái điều kiện cô nói hôm nọ.  Cô cho tôi
biết... Tôi có linh cảm rằng cha tôi đang đợi dịp để nói với tôi...
Sa ngẫm nghĩ rồi lắc đầu.  Freddy hốt hoảng:
- Cô đổi ý?
- Không!
- Thế sao cô không nói ngay đi.
Nhìn bức tranh có cây đa nơi đỉnh miếu, Sa chặc lưỡi, đáp nhỏ:
- Anh cứ lên phòng.  Tôi còn việc thu xếp cho mẹ tôi đi ngủ...  Khi xong, tôi sẽ nói với anh.
Sa quay vào bếp. Nghe tiếng thở dài của Freddy, Sa lại chặc lưỡi, thốt "... tội nghiệp!",  nhưng khẽ nhếch mép mỉm cười.
Freddy lên phòng, đi đi lại lại.  Bồn chồn, chàng mở hé cánh cửa, tai lắng nghe từng tiếng động ở tầng dưới khách sạn. Ban đầu, tiếng bát đĩa khua vào nhau lách cách.  Rồi tiếng bàn ghế kéo lê trên sàn đá hoa nghe sột soạt.  Tiếng Sa nói với mẹ và người giúp việc.  Tiếng cửa mở, hẳn người giúp việc khách sạn ra về.  Sau đó, im lặng.  Freddy chờ, giả vờ ho cho to rồi dặng hắng.  Vẫn không thấy Sa.
Một lát sau, nghe tiếng chân lên, Freddy vội vã ra.  Sa vẫn tươi cười.  Ðưa tay mời Sa vào, Freddy mừng rỡ, chỉ chiếc  ghế:
- Mời cô!
Khi Sa đã ngồi xuống, Freddy mới thấy tấm áo hồng nhạt có những chấm tròn màu ngà Sa vừa thay.  Sa vén cao mớ tóc mây, môi có thoa chút son, và bôi nước hoa vào gáy, mùi thơm thoang thoảng. Freddy hấp tấp:
- Ðiều kiện cô đặt để giúp tôi gọi hồn cha tôi về là thế nào?
Lơ đãng nhìn lên tường nơi có ghim những cánh bướm khô ướp phóc-môn, Sa hỏi:
- Anh chắc rằng những cánh bướm kia giữ được linh hồn người đã chết?
Nhìn Freddy gật đầu, Sa nói:
- Anh có biết họ chết thế nào không?  Thời nào cũng vậy, họ chết đói, chết bệnh và chết già.  Nhưng có thời, họ chết vì bom...  Thời đó, cha anh đã bay trên bầu trời này...
Mặt sạm đi, Freddy đưa tay lên như phân bua.  Không để Freddy nói, Sa tiếp:
-... Cha tôi kể lại bảo, máy bay bỏ bom lúc đó tân tiến hơn thời thực dân Pháp.  Nghe tiếng nổ, là chỗ khác bị, mình an toàn.  Nghe tiếng o o, bom đang đi qua đầu mình và rơi vào nơi cách xa đến cả cây số, mình cũng an toàn.  Nhưng nếu là tiếng rít, phải cẩn thận chui xuống hố cá nhân hay hầm trú.  Phần lớn, những người chết bom không nghe thấy gì cả...  Ðó là những người còn sống nói vậy!
Freddy lồng lên, nói như quát:
- Không, không...  cha tôi không thả bom. Cha tôi chỉ thám thính.  Thư nào ông cũng bảo tôi vậy, cô phải tin!
- Vâng, tôi tin... - Sa tiếp, giọng lạnh lùng-  những người sống nói vậy cho đỡ sợ, vì họ chẳng kiểm soát được sinh mạng họ.  Khi máy may tấn công, người Kinh đọc kinh Phật, kinh Chúa.  Còn người Hmông, họ xin Vua Bàn và chư thần Năm Biển về phù hộ.  Vì đến nay còn người sống, có nhẽ những lời cầu xin kia đều có tác động - Sa bật cười - và chư Phật, chư  thánh thần cũng như chúa Giê-Su ở một cõi nào đó đã nghe ra rồi nhủ lòng thương...  Anh cũng tin thế chứ!
Nhìn Freddy bối rối gật đầu, Sa nghiêm trang:
-... dĩ nhiên.  Anh tin là có linh hồn mà!  Chẳng hạn trong đám bướm ướp khô kia đang có những linh hồn chết vì bom Mỹ ném thời xưa.  Bây giờ lại một người Mỹ khác đến đất nước này giam hãm những linh hồn đó trong cái vật chất khô héo phóc-môn, ghim lên tường, xếp thành những bộ sưu tập nằm trong lồng kính,  bán có giá... - Sa ngước mắt - Anh nghĩ xem, thế thì...
Freddy vò đầu, kêu:
-... tôi thực chưa nghĩ đến.  Tôi bắt đầu chỉ có ý đi tìm một cánh bướm có linh hồn cha tôi thôi!
Sa ngắt lời, nhẹ nhàng:
- Ðể gọi hồn cha anh, điều kiện thứ nhất của tôi là anh phải giải phóng tất cả những linh hồn anh đang giam giữ trong những cánh bướm kia...
Tay chỉ quanh, Sa tiếp:
- Anh chôn chúng đi.  Cái gì thuộc về cát bụi, trả chúng lại cho cát bụi, phải không anh?
Freddy ôm mặt, thờ thẫn:
- Ðược, được rồi!  OK...
Ngước nhìn qua kẽ tay, Freddy nhập nhòa thấy những con bướm khô ghim trên tường chao đảo như chực cất cánh bay.  Anh ta lại đưa tay ôm đầu, cúi xuống:
- OK!  Tôi hiểu.
Hai người đều im lặng.  Ở phòng ăn, chiếc đồng hồ cổ từ thời Pháp treo trên tường đủng đỉnh đánh mười tiếng chuông, tiếng ngân rền rĩ vẳng lên.  Freddy đứng dậy bước đến cửa sổ nhìn ra ngoài.  Thình lình, Freddy hỏi:
- Ðược!  Ðó là điều kiện thứ nhất...  Còn điều kiện thứ hai?
Sa đáp:
- Tìm xác người Mỹ mất tích trong chiến tranh ở Việt Nam hiện là một dịch vụ ra tiền.  Ở Hà Nội, tôi nghe nói ai có dấu vết hay tin tức gì chính xác, họ có thể đặt giá đến mười nghìn, thậm chí hai mươi nghìn đô la.  Gọi được hồn cha anh, là anh sẽ tìm ra xương cốt, anh biết thế chứ?
Quay lại nhìn Sa ngờ vực, Freddy thở dài:
- Tìm ra xương cốt?  Không chắc...  Tôi chỉ muốn hỏi cha tôi đôi điều...
Sa ngửng lên, nhẹ nhàng nhưng cương quyết:
- Anh đã khen tôi sáng hôm qua, bảo tôi là con bướm đẹp ở đất Sapa này.  Bắt anh chôn bướm chết, tôi trao cho anh một con bướm sống cho công bình.  Ðiều kiện thứ hai là anh làm giấy cưới tôi rồi xin cho tôi qua Mỹ...
Ngẩn người ra, Freddy hỏi, giọng gấp rút:
- Thế à?  Thật không?  Cô không đùa chứ...
- Tôi không đùa, nhưng chưa nói hết. Anh làm giấy cưới tôi, nhưng tôi có sẽ thực sự thành vợ anh không, điều này chỉ tôi mới quyết định. Và sẽ quyết định sau...Sa cúi xuống, dịu dàng - ta phải có thì giờ tìm hiểu nhau chứ.
Ngừng một lát, Sa  tâm sự:
- Tôi muốn qua Mỹ vì tôi muốn đi học.  Cha tôi bảo, bằng mọi giá, phải tạo điều kiện tốt nhất để đi học.  Một dân tộc ngu dốt, thiếu kiến thức, không văn hóa sẽ không thể tồn tại lâu dài được. Tôi muốn làm cho cha tôi vui và hãnh diện...
Thình lình, Sa bật dậy, giọng đanh thép:
- Anh có nhận điều kiện này không?  Nhận là nhận ngay, không thì thôi!
Nghe tiếng chân sột soạt lên thang gác, Sa giục:
-... anh trả lời đi!
Luống cuống, Freddy vừa gật đầu, vừa nói vội:
- OK! OK!
°
Thấy thanh niên người Hmông xách đàn ghim-bác vào một cái quán, Hà đi vội tới.  Quán nay thưa khách, chỉ còn một người đàn bà đang ngồi ăn.  Hà bước vào, ngồi xuống một góc bàn.  Góc kia, anh thanh niên thất tình đẩy cây đàn vào một góc, tay vẫy chủ quán.  Chủ quán hỏi. Anh ta móc tiền ra trao. Chủ quán nhìn Hà, cười cầu tài:
- Ông đợi em tí.  Em ra ngay!
Trong khi chủ quán cúi xuống gầm quầy tìm chai rượu, người đàn bà ăn xong, lấy tay lau mồm, rồi tất tả đứng dậy đi ra, miệng nói với lại.  Chủ quán không trả lời, tay xách chai rượu, tay mang một cái cốc ra đặt trước mặt anh thanh niên, nói bằng tiếng Kinh:
- Uống quá mà lăn ra ngủ là ông khiêng ra sân đấy!
Quay nhìn Hà, chủ quán giả lả:
- Ông uống gì ạ?
- Cho tôi một chai - tay chỉ chai rượu trên bàn, Hà tiếp - và có gì để nhắm thì càng tốt.
- Ấy, em có rượu ngoại.  Cái rượu thổ ngơi này nó nặng, không ngon đâu!
- Ông cứ cho tôi chai ấy!  Bao nhiêu tôi trả!
- Ấy, ông việc gì mà phải trả trước.  Dân Hmông ở đây thì mới thế!  Xưa em mới mở quán em không biết.  Chúng nó uống xong lăn ra ngủ, tiền không có, chỉ còn biết gọi công an.  Nhưng rút lại là vẫn mất không rượu...
Hà không đáp, rót rượu vào cốc, uống thử.  Vị rượu đắng chát, trên chai có nhãn hiệu ghi là rượu táo.  Nhìn anh thanh niên, Hà thấy anh ta nốc liền ba cốc, nét mặt buồn thiu, mắt cứ chằm chằm nhìn xuống đất.  Hà đẩy chai rượu và đồ nhắm về phía anh ta, tay ra dấu mời.  Anh ta cười đáp lại, rồi lại nốc thêm một cốc, và nói gì Hà không hiểu.  Ngước nhìn chủ quán, Hà hỏi.
- À, nó bảo chiều nay chưa ăn gì, uống vào cồn cào quá!
Gọi thêm đồ nhắm, Hà bảo chủ quán mang lại cho anh thanh niên.  Anh ta lại nói.  Hà hỏi.  Chủ quán đáp:
- Nó bảo  muốn trả ơn, ông muốn nó làm gì?
Mỉm cười, Hà nhìn anh thanh niên, tay chỉ vào cây đàn.  Anh ta đứng lên.  Xách đàn mang lại đặt trước mặt Hà.  Hà kêu:
- Không, không...  tôi lấy làm gì.  Tôi chỉ muốn anh ấy hát cho tôi nghe thôi.
Chủ quán lại nói.  Anh thanh niên nhìn Hà cười gật đầu.  Ăn ngấu nghiến, anh với chai rượu Hà mời, rót đầy cốc, rồi lại nốc vào, mặt đã đỏ bừng bừng.  Ðứng dậy, anh ra ôm cây đàn, ngồi trước mặt Hà.  Dạo lên một khúc, anh cất giọng:
" Thủa sớm đây khi tôi còn ẵm ngửa
ngón tay như hạt đậu non
Bố mẹ chết sớm khi tôi còn bé con
Không để lại chút gì
ngoài cuộn len, cuộn sợi
Tôi không có chỗ cất đi
nên đem giấu vào chân vách
Lớn lên, tôi mang ra xem
chuột chù đã kéo làm mười hai cái tổ
Một đời tôi, tôi chỉ biết cái khổ
lại không biết sinh biết hóa
để thành con bướm ngo ngoe dưới ruộng mạ
để thành con bướm thoát kiếp đổi đời..."
Anh thanh niên ngừng tay đàn, đưa lên quệt mắt, hai con mắt bắt đầu ướt, đỏ ngầu, nhìn vào khoảng không trước mặt đang trải ra rồi  trũng xuống thành một vực sâu.  Anh lại tiếp tục.
Thỉnh thoảng, anh ngừng hát, tay với chai rượu, tu ừng ực.  Uống xong, anh lại cất tiếng, giọng ê a, nước mắt ở đâu nhỏ ra, chạy dài xuống má, xuống cằm.  Giọng anh trầm xuống, uể oải dần, khuôn mặt đỡ nhăn nhúm, nét khổ đau dần dần doãi ra.  Chủ quán đến cạnh Hà nhìn, buông thõng:
- Say rồi! Em đóng cửa đây. Giờ phải khiêng nó ra thôi!
Mặt úp lên bàn, anh thanh niên lảm nhảm rồi phì phò ngáy.  Hà móc ví, hỏi:
- Ðể cho anh ta ngủ trong quán, ông tính xem bao nhiêu?
Chủ quán xua tay, đáp nhỏ, miệng lại hềnh hệch cười làm như hiền lành. Trao tiền cho chủ quán, Hà bước ra, nhìn lên trời cao. Những đám mây nhuộm bạc lững lờ trôi, thản nhiên không biết đến giấc ngủ một người mới thất tình, vừa hát lên những tiếng bi ai về thân phận mình.  Lời hát vẳng xa nhưng làm sao thấu đến tai một người con gái nào đó, để nàng cảm động, và buổi chợ Tình tháng sau, nàng sẽ lẳng lặng đi theo chàng, kẻ đang ước mơ có thể đổi kiếp như bướm.
Về đến gần, khách sạn chỉ còn ánh đèn từ phòng của Freddy.  Hà mở cửa, lách mình vào.  Nghe thấy tiếng thì thào, Hà bước lên thang.  Ngạc nhiên thấy Sa từ phòng Freddy đi ra, Hà khẽ nghiêng người chào.  Sa vui vẻ:
- Buồn cười lắm, anh ạ!
Chữ anh Sa gọi Hà không còn ngượng nghịu như lần đầu nơi cuối dốc đỉnh Hàm Rồng.  Ngay hôm sau, khi gập Hà  nàng bảo: "... Sa gọi bằng anh vì ở đất nước này, cái quan hệ gia đình nó nặng quá.  Lớn tuổi như cha thì gọi bằng chú bằng bác, tạo ra sự bất bình đẳng...  Chẳng như những xã hội Âu Tây, cứ "toi" với "moi", "you" với "me". Hà cười "... lại là  lời cha Sa chứ gì?"  Dí dỏm, Sa gật đầu"... chứ còn gì nữa!  Nếu không bằng lòng thì Sa lại gọi bằng chú!".
Sa ngước nhìn rồi nghiêng người để chỗ cho Hà bước lên thang, cười tinh quái:
- Buồn cười nhưng chẳng tin được!
Tò mò, Hà hỏi lại:
- Buồn cười làm sao?
Nắm lấy cánh tay Hà, Sa kéo đi, miệng thì thào:
- Freddy bảo muốn lấy Sa mang về Mỹ đấy!  Anh biết Sa nói gì không?
-???
- Trước hết, phải chôn hết những con bướm ướp phóc-môn.  Ðó là lễ chạm ngõ thôi.  Sa vênh mặt, tiếp - muốn bướm sống thì phải chôn bướm chết!  Sau lễ chạm ngõ, Sa còn phải nghĩ đã, chuyện một đời ai dại mà nhẹ dạ?
Hà đứng lại, nhìn Sa, giọng có chút mai mỉa:
- Thế bao giờ chạm ngõ?
Sa khúc khích:
- Ngõ à!  Ngay sau vườn khách sạn.  Chỗ đó chôn bướm cực đẹp.  Chạm ngõ, anh muốn thuộc nhà trai hay nhà gái?
Sa quay đi, chiếc cổ tròn lẳn hiện ra trắng bóc dưới giãi tóc vấn cao lại đập vào mắt Hà khiêu khích.  Nàng biến mất dưới chân cầu thang, nói với lại:
- Chỉ nội nhật một hai hôm nữa thôi!
°
Nhìn ánh trăng chênh chếch chiếu qua cửa sổ, Hà trằn trọc xoay mình, nằm nghĩ ngợi miên man.  Giờ này là hai giờ trưa ở NewYork.  Con gái chàng hẳn đã vào học.  Còn Julia, chắc nàng vẫn sinh hoạt theo lệ, đang cặm cụi coi sổ sách kế toán cho công ty, thỉnh thoảng lại ngừng tay, miệng kêu: "Oh, my god!"  khi hai cột số chênh nhau.  Hầu như quên hẳn vợ con, Hà ngạc nhiên không hiểu tại sao vào đúng đêm nay, một đêm trăng tròn, hình ảnh họ lại quay về tâm tưởng chàng, nhưng xa vắng như những bóng ma ẩn hiện.  Lẩm nhẩm "Tứ thập bất nghi hoặc", chàng chua xót mỉm cười.  Không, vừa chẵn tuổi bốn mươi, lại đúng là lúc chàng rơi vào những câu hỏi nói ra thì có vẻ ngờ nghệch. Nhưng với chàng, chúng là cái động cơ đẩy chàng về thăm đất nước, mặc dầu kẻ thân người thuộc nay chẳng còn ai ở đây.  Mặc dầu chàng là một thứ dân di trú thành công, nhà mua ở Long Island, và qua tay quản lý hàng chục hàng trăm triệu đô la.  Mặc dầu Julia, không đẹp nhưng không xấu, làm vợ chàng với cái cố gắng hơn sự cố gắng bình thường của một người đàn bà Mỹ lấy chồng cùng chủng tộc.  Mặc dầu con gái chàng năm ngoái vào Nhà Trắng, được tuyên dương là một trong số những đứa trẻ thế hệ đầu đẻ ở Mỹ xuất sắc nhất.  Mặc dầu khi đến đất Mỹ, chàng mới mười bảy tuổi đầu, học và lớn lên ở Boston, bạn bè phần đông không phải là người cùng gốc gác.
Hà bảo Julia "... Anh mất ngủ!".  Mỗi đêm làm tình, Julia làm anh rã rời, âu yếm: "... thế để cho anh ngủ ngon!".  Nhưng hôm Hà bảo: "... ngủ chỉ chợp đi nửa tiếng.  Ðến phút thứ  ba mươi mốt, lại giật mình tỉnh dậy, hỏi mình là ai?  Ðang làm chi?  Sống như thế có ý nghĩa gì?",  thì Julia trầm ngâm: "... chắc anh nên đi hỏi psy, tuổi bốn mươi dễ bị crisis".  Hà trì hoãn, nhưng cứ loay hoay, công việc trở thành một thứ hình phạt.  Xin nghỉ một thời gian, Hà nói với Julia: "... hay là anh về Việt Nam.  May ra câu hỏi mình là ai có giải đáp". 
Về đến Sài Gòn, vài ngày sau, Hà tự nhủ: " Mình không là họ cho dẫu đồng chủng.  Mình không sống như thế, cũng không suy nghĩ như thế. Họ nay chỉ hùng hục tìm tiền, nhưng tiền lại là cái mình thừa thãi ".  Nhưng mình là ai?  Phải làm sao khai mở phần trí nhớ sâu thẳm như phần ẩn của bộ nhớ thứ máy vi tính không hiểu sao lạc mất cái mật mã để trả lời câu hỏi mình là ai!  Ra Hà Nội, chàng thả bộ đi tìm.  Tìm mãi.  Rồi chàng lên Sapa.  Chàng vẫn tìm.  Phải chăng cái mật mã đó là một mùi hương, một âm thanh, một mầu da trời hay một bài hát tỏ tình ở góc chợ. Mùi hương của Sa?  Không, đó là mùi nước hoa. Âm thanh của một tiếng cồng?  Có lẽ, nhưng chàng chưa nghe thấy!  Hay một mầu da trời?  Có phải có bầu trời trong bức tranh "Cây đa nơi đỉnh miếu"?  Không.  Chàng ngắm cây đa gốc bị sâu đục, thương cái miếu đổ, nhưng vẫn chưa biết mình là ai? Hay là cái ngấn cổ Sa trắng nõn nà và mái tóc mây huyền vén cao.  Chàng ngẫm nghĩ.  Chàng biết chàng muốn hôn lên lớp da trắng mịn màng ấy, vuốt ve những sợi lông măng ánh sắc nâu ấy.  Nhưng lại chỉ thế.  Chỉ có thế.  Ðó là dục vọng.  Câu chàng hỏi mình là ai rộng hơn.  Là phải có đã, rồi mới có,  dục vọng, thèm muốn, thậm chí  say mê.
Hà nhắm mắt lại, tai lại loáng thoáng nghe có tiếng chân phòng bên, rồi tiếng lục đục đi lên đi xuống dưới cầu thang.  Bực bội, Hà vùng dậy, với cái tẩu nhồi thuốc rồi châm lửa.  Giọng Sa xì xào to nhỏ.  Tiếng dặng hắng của Freddy.  Hà nhỏm người, mở hé cánh cửa nhìn ra hành lang, lòng phập phồng.  Trong bóng tối, Hà cảm thấy tự nhiên mất mát một điều gì đó.  Ta ghen ư?  Chàng tự hỏi.  Ơ kìa, quyền gì mà ghen?  Thậm chí, muốn gì đây?  Muốn gì mà ghen?  Hành động lén lút nhìn khiến Hà xấu hổ.  Chàng khép cửa lại, ra đứng dựa bên cửa sổ.
Trăng lúc đó đang bắt đầu tàn, nhợt nhạt như vớt dưới nước lên.  Bầu trời vẫn sương trắng, mờ mở tỏ tỏ, thỉnh thoảng lại xạc xào một cánh chim đêm bay ngang.  Trên những tàn cây, ánh trăng điểm vào những mảng sáng lấp loáng chao đảo múa theo  gió từng chập thổi về.  Bất chợt, một tiếng sáo ngang bay lên.  Tiếng sáo khi bổng, khi trầm, lúc oán thán, lúc giận dữ.  Nhìn xuống góc vườn, Freddy ngồi trên một tảng đá, mặt khuất trong bóng cây, chỉ thấy lấp lánh mầu kim loại của cây sáo để ngang miệng.  Bên cạnh tảng đá là một cái lỗ rộng, trước có cắm ba cây nhang, hai bên là hai cây nến, lửa thỉnh thoảng lại ngả xuống chừng như sắp tắt mỗi khi gió mạnh.  Sa đứng bên Freddy, mặt nghiêm trang, môi mím chặt.  Nàng mặc quần trắng, áo trắng, tóc xổ dài bay theo gió. Dưới ánh trăng, Sa mang hình ảnh liêu trai của một con hồ bỗng chốc hóa thành giai nhân tuyệt sắc, nhưng màu da nhợt nhạt sinh khí khiến người đứng ngắm phải rùng mình.
Freddy tiếp tục thổi, sáo nay rền rĩ một khúc đưa tiễn nức nở những thanh âm vĩnh biệt chốn nhân gian.  Sa rút ba cây nhang, cặp vào hai bàn tay, đưa lên vái.  Ba chấm lửa cứ trồi lên rồi lại hụp xuống đúng năm lần.  Sa khấn: "... sống khôn, chết thiêng.  Nay xin hồn rời những cánh bướm khô ướp bằng phóc-môn, về nơi cực lạc...  Nam mô Quan Thế Âm bồ tát...". 
Một đám mây đen ở đâu kéo lại che mặt trăng trên cao.  Hà không thấy rõ mặt Sa nữa. Ðã đến lúc hóa vàng.  Lửa bùng lên trên những mảnh giấy vàng giấy bạc quăn queo vặn mình biến ra tro than. Tiếng sáo của Freddy tức tưởi, rồi nhỏ đi, và im hẳn.
Hóa vàng rồi là xong lễ chạm ngõ.
Sáng hôm sau, Hà ra vườn.  Trên tảng đá, Sa lấy sơn đỏ viết vào hai chữ "Mộ Bướm".
[1] Mẹ
[2] Lạy Trời!  Anh sẽ trở về nếu em thôi khóc.
[3] Mẹ không được khóc, mẹ đừng