Chương 4
CẠM BẪY TÌNH

Cái xác đã nằm ở đó được nhiều ngày, trước khi có một kẻ nào đó đến phát hiện ra nó. Và thực là ngớ ngẩn, kẻ nào đó là tôi chứ không phải ai khác.
Trời rất nóng. Tôi phải bịt mũi, nhanh chóng rời căn phòng, phải đứng tựa người một lát vào bức tường cầu thang. Ra đến đây tôi cảm thấy dễ thở hơn, mặc dù hôm ấy trời oi bức, ngột ngạt, báo hiệu sắp sửa có cơn giông.
Vịn tay vào lan can, tôi loạng choạng lần xuống tầng nhà dưới, tay tôi run run mở khóa cửa hành lang. Hành lang tối, tôi vấp phải chiếc hòm của bà Vêbơsink ở cùng tầng. Cáu tiết, tôi đá luôn vào chiếc hòm, miệng chửi đổng.
Rồi tôi mở cửa về phòng mình. Tôi lôi luôn chai rượu cônhắc trong tủ ra, làm một ngụm ra trò. Tay tôi cầm cái chai đưa qua đưa lại, rồi lại nghĩ tới sự kiện vừa rồi, tôi tu luôn một hơi nữa.
Mãi đến lúc này tôi mới thực hoàn hồn. Tôi tìm đường sang nhà Hêben, một ngôi nhà cao tầng ở bên cạnh. Ngoài đương lúc đó không có người. Vô tuyết truyền hình đang chiếu một bộ phim phiêu lưu, mạo hiểm dài năm tập. Trong các căn hộ, người ta chỉ nhìn thấy thứ ánh sáng nhờ nhờ run rẩy phát ra từ các màn hình huỳnh quang, và qua những ô cửa để ngỏ hoặc mở toang vì oi bức, có tiếng rú, tiếng la hét vọng ra ngoài rồi có tiếng súng nổ, không gian bỗng im ắng trong thoáng lát, mãi sau mới nghe thấy có tiếng nhạc nhè nhẹ.
Vào một buổi tối tháng tám như hôm nay, lẽ ra người ta nên ra ngoài trời, nên ngồi chơi trước cửa nhà hoặc trong vườn hay trò chuyện với những người thân yêu của mình. Nhưng mà người đời như thế đấy! Họ giam mình trong các căn phòng ngột ngạt, tránh mọi sự quấy nhiễu, cố căng mắt nhìn trừng trừng vào những cảnh chém giết và đánh đập. Ô, giá họ biết ở tầng ba trên kia có xác chết thực sự! Nếu họ biết... Tôi có thể châm ngòi cho trái bom kinh hoàng ấy nổ tung, và suýt nữa tôi kêu lên:
– Các ông các bà ơi, trên kia có người chết! Nhà Aixensnaiđơ có người chết!
– Ai chết hả? Ai? Ai?...
Bọn họ sẽ nhốn nháo, thất thanh và vì tò mò trước một chuyện bất thường, rùng rợn, bọn họ sẽ rầm rập chạy lên cầu thang, sẽ hổn hà hổn hển, rồi đoán non đoán già:
– A, a, có phải Aixensnaiđơ giết Lipsơ phải không? Giết anh chàng bồ bịch của vợ ông chứ? Ai chả biết Lipsơ vẫn giăng dện với bà vợ ông ta! Chắc là Lipsơ đã bí mật tò mò tới đó ăn sương... Ba tuần nay phòng anh ta bỏ không...
Tôi leo lên cầu thang, tìm tới căn hộ của Hêben và bấm chuông. Đã chín giờ đêm. Chỉ mong rằng Hêben có nhà. Là một công an điều tra, anh thường hay đi vắng. Tôi phải đợi một lúc lâu mới thấy người ra mở cửa. Chị Hêben đón tiếp tôi với nụ cười thân mật như thường lệ. Nhưng chị bỗng sững người. Chắc là trên mặt tôi vẫn còn phảng phất nỗi kinh hoàng khi tôi gặp xác chết.
– Có chuyện gì xảy ra phải không? - Chị hỏi.
Tôi gật đầu.
Cả ở đây cũng vậy, chị chủ nhà cũng đang xem ti vi. Một cuộc săn đuổi nhau bằng ô tô đang đạt đến đỉnh điểm. Tiếng động cơ gầm rú, tiếng phanh rít ken két. Và tất nhiên rồi, ô tô rượt nhau trong một khu vực núi non hiểm trở, đường ngoằn ngoèo, gấp khúc, chắc chắn đã có lúc một chiếc ô tô bị trượt bánh lao xuống vực, nổ tung, bốc cháy, và anh chàng ngồi trong xe chết tươi. Y như rằng tôi chưa kịp nói với Hêben thì chuyện đó đã xảy ra.
Hêben đang nằm trên một chiếc đi văng cạnh góc nhà và đọc sách. Tôi không hiểu nổi là người ta lại có thể đọc được khi máy ti vi ở bên cạnh. Nhưng người công an này thật tài nghệ! Hình như anh ta đeo máy chắn tiếng ồn.
– Anh Hêben này, có khách đấy nhé!
Chị vợ nói với chồng rồi lại ngồi xuống trước màn huỳnh quang, đưa tay với chiếc kính ở trên bàn.
– Có chuyện gì xảy ra thế? - Chị hỏi chồng, khi nhìn thấy một chiếc ô tô bốc cháy.
Tất nhiên là người chồng chẳng hiểu gì. Anh ngước mắt lên như thể vừa ra khỏi một thế giới xa lạ. Nhìn thấy tôi, Hêben bật dậy. Anh mở ngay tủ lạnh lấy một chai rượu, rót mời tôi.
– Em cũng uống một ly cho vui chứ? – Anh hỏi vợ.
Chị khước từ. Có lẽ vì thế mà phụ nữ (theo số liệu thống kê) sống dai hơn đàn ông:
họ không thích rượu chè có hại cho sức khỏe! Nhưng mà họ có sống vĩnh viễn trên thế gian này đâu! Tôi tự nhủ rồi uống cạn rượu.
Tôi bắt đầu kể lại mọi chuyện cho Hêben nghe. Tôi kể thực cặn kẽ, có thứ tự, cố không quên những điểm quan trọng nhất.
... Căn hộ ở tầng ba trên phòng tôi là của gia đình Aixensnaiđơ, mấy ngày hôm nay rất yên ắng. Tôi biết bà vợ không có nhà. Còn người chồng, ông Aixensnaiđơ là một người trầm tính, thích cuộc sống thầm lặng. Nhà ông có đầy một tủ sách. Con người lịch thiệp, sống thích co mình hoàn toàn khác hẳn với bà vợ. Ông không ưa sự ồn ào, không thích cảnh giao tiếp bạn bè, và nói chung, ông là người đức độ, mực thước... Thậm chí, nếu như vào một tối thứ hai có anh chàng Lipsơ đến chơi, cùng ngồi xem ti vi và trò chuyện thân mật với bà vợ, ông ta sẽ lẳng lặng ra khỏi nhà, đi dạo một hai giờ trong thành phố để tìm sự yên tĩnh, thư thái và không muốn quấy rầy vợ mình khi tiếp khách. Tôi có cảm giác ông Aixensnaiđơ thích sống đơn độc hơn là có gia đình. Vì vậy, khi người vợ đi vắng, cảnh im ắng phía trên căn phòng của tôi cũng dễ hiểu. Chắc người chồng mải mê đọc sách và tận hưởng sự cô đơn.
Mấy ngày qua tôi đến kiểm tra thuế tại cơ sở tư nhân Kixten Saisơ, dự định hôm sau sẽ tới hãng Vêtthe làm công vụ. Aixensnaiđơ là kế toán trưởng trong hãng này. Dĩ nhiên tôi sẽ thông báo trước. Nhưng rất có khả năng là Aixensnaiđơ đi nghĩ phép, sau khi có những chuyện không hay xảy ra với người vợ của mình. Mà đến kiểm tra thuế, tôi muốn có mặt cả viên kế toán trưởng của hãng này. Tôi lên tầng ba, chủ tâm muốn biết ngày mai ông Aixensnaiđơ có đi làm hay không.
Tôi bấm chuông và gõ cửa. Không có ai đáp lại. Nhìn chiếc tay cầm, tôi chợt nhớ rằng mình đã nhiều lần phải đứng trước những chiếc cửa khóa kín như thế, nhất là với những người nặng tai hoặc cố ý nặng tai, khi họ biết có cán bộ tài chính phụ trách khối kinh tế tư nhân đến thăm họ.
Tôi chạm vào tay cầm. Cửa không khóa. Tôi bước vào hành lang và gọi to tên chủ nhân. Không có tiếng đáp lại. Tôi khịt khịt ngửi thấy có mùi thực khó chịu, giống như mùi xương xúc vật chở trên xe tải mỗi khi chạy qua nhà. Cửa vào phòng khách để ngỏ. Tôi gõ mạnh rồi bước vào. Nhìn vào khung cửa kính, tôi thấy rèm buông xuống quá nửa. Ánh sáng nhòa nhạt từ bên ngoài rọi vào một chiếc bàn đặt bên cạnh cửa sổ. Trên đó có một chồng giấy viết tay được găm cẩn thận. Ở một bên tường là giá sách lớn, trước đó có hai chiếc ghế bành.
Trong góc buồng là chiếc đivăng. Ánh sáng nhờ nhờ từ bên ngoài không tới được nơi đó. Hơn nữa, nó bị cản lại bởi hai chiếc ghế bành phía trước. Mặc dù cảm thấy rất khó chịu, tôi vẫn cố bước thêm mấy bước. Và kia... Trên chiếc đivăng có hình một người nằm, như xác chết, cánh tay buông thõng xuống. Giờ thì tôi biết rõ cái mùi nồng nặc, khó chịu ấy ở đâu ra. Tôi đến gần chiếc đivăng, bụng dạ cồn cào lên, muốn nôn mửa, và tôi vội bịt mũi chạy ra ngoài...
– Để tôi đến xem đã! – Hêben nói.
Hình như anh không tin lời tôi. Có thể anh nghĩ là tôi tưởng tượng ra. Hai chúng tôi cùng nhau đến hiện trường. Nhưng tôi không dám lên tầng ba một lần nữa. Tôi trở về phòng mình và chờ Hêben trở xuống.
Một lúc lâu Hêben bước vào phòng. Mặt anh trông nhợt nhạt. Tôi rót rượu đưa cho anh.
– Trời đất ơi! – Anh nói - Ở trên đó không thể nào chịu nổi!
– Thế nào, anh bạn? Hình như anh đã tìm được lời giải, đã tìm ra chìa khóa để lý giải cái chết ở trên đó phải không? – Tôi hỏi và nhìn vào tập giấy đang cầm trên tay.
– Có lẽ thế - Hêben đáp – Anh cúi người, chăm chú đọc.
Gì thế nhỉ? Nhật ký của người quá cố? Nhưng nó không giống những cuốn nhật ký thông thường. Không đề ngày tháng. Những trang viết được đánh dấu vào những thời gian khác nhau, thậm chí với màu mực khác nhau. Văn viết dưới dạng kể chuyện, nghĩa là người viết am hiểu văn chương và biết cách diễn đạt mọi ý nghĩ của mình. Người chết đã viết để làm gì? Phải chăng là một bản tự thú? Là một sự thú tội? Là một sự tự nhận thức và phán xét chính mình? Hay đó là những lời bào chữa?
Trước khi tìm hiểu về cái chết của Aixensnaiđơ, mời bạn đọc xem qua những trang nhật ký của ông ta...
... Bao giờ thì người ta có thể hiểu đúng một con người? Có thể không bao giờ. Vì những ý nghĩ và ước muốn thầm kín của con người mãi mãi vẫn là điều bí mật, chỉ một phần rất nhỏ được tiết lộ và biểu hiện qua hành động. Tôi đố ai có thể chỉ cho tôi hai con người hoàn toàn giống hệt nhau về mục đích và đường đời, giống nhau trong mọi phương diện của cuộc sống!
Nhưng người ta hy vọng rằng, chí ít trong cuộc sống vợ chồng, người ta tìm được ở người kia một người bạn để cùng nhau gánh chịu cuộc sống, làm cho cuộc sống dễ thở hơn. Nghĩa là người bạn ấy phải là người chung cổ phần đời với mình. Giống như trong công việc kinh doanh, người ta mong đợi ở người chung cổ phần phải đồng tình, đồng loại với mình, không làm ăn dẫn đến sự phá sản.
Thôi, phần mào đầu như thế là quá đủ!
Riêng tôi, sau mười bốn năm chung sống với Liđêlôtthê, tôi nhận ra rằng tôi đã cưới nhầm một người vợ. Hoặc nói đúng hơn:
việc lấy vợ đã là một sai lầm.
Tôi, một kẻ vẫn hằng ganh tỵ với những người khác về hạnh phúc của họ, lần đầu tiên cảm thấy thực hối tiếc, nhất là mới đây, khi tôi nhìn anh chàng Hackơ, cán bộ tài chính sống độc thân ở tầng dưới, tôi bỗng nghĩ:
Trời ơi, lẽ ra mi cũng có thể sống tự do như thế! Mi muốn làm gì thì làm, chẳng có ai mè nheo, cằn nhằn với mi hết! Mi có thể ung dung khóa trái cửa phòng lại, hai tay đút túi quần, miệng huýt sáo. Chẳng phải chịu trách nhiệm trước ai cả, trừ mi ra. Tự do...
– Anh Hubec!
Có tiếng người rít lên trên đầu tôi, và tôi giật thót như vừa bị quất roi.
– Anh Hubec! Lấy hộ em mấy chiếc khăn mùi xoa trên dây phơi với nhé!
Tôi ghi nhận:
cô ấy nói xong đã vội đóng cửa sổ, chẳng cần chờ đợi tôi trả lời. Cách nói cũng có vẻ lịch sự, không kém vẻ thân mật. Nhưng tôi cảm thấy như mệnh lệnh, chỉ có thể thi hành, không được phép chống đối. Lấy khăn mùi soa mang lên nhà, đó là một việc làm miễn cưỡng, tôi phải vận động và thực thi.
Những chiếc khăn mùi sao bay phần phật trong gió như những là cờ nhỏ. Tôi tháo cặp, áp khăn vào phía ngực, dừng lại chốc lát bên sân phơi. Tôi đưa tay vuốt sợi dây còn rất mới và bền chắc. Đã có những người sử dụng sợi dây phơi để giải quyết dứt điểm và vĩnh viễn những nổi khổ của mình. Nghĩ tới đó tôi bất chợt rùng mình. Trời gió lạnh. Tôi chạy vội vào nhà. Tôi vừa trải qua một trận ốm vì cảm lạnh với cái tật sổ mũi khốn kiếp.
Tôi ném vội những chiếc khăn mùi soa lên mặt bàn.
– Tại sao cô cứ phải mở cửa sổ và réo gọi như thế? – Tôi bực dọc nói với Liđêlôtthê – Hơn nữa, cô thừa biết là tôi không thích nghe ai gọi mình là Hubec kia mà!
Tôi thích được gọi là Hubơ, cả chữ ký cũng lấy tên Hubơ. Nhưng mà cô vợ lại khăng khăng gọi tôi là Hubec, cố tình trêu tức tôi.
– Hubec! Đấy là tên cúng cơm của anh, tên trong giấy chứng minh cũng thế.
Tôi không ưa người ta sửa cái tên bố mẹ đặt cho mình. Hơn nữa, anh có cất họ mấy chiếc khăn ngoài dây phơi, chuyện ấy đâu có gì hệ trọng. Nhưng mà ông kế toán trưởng ngại ngùng, sợ mình mất thể diện! Trời đất ơi!
Cô ta cắm bàn là và đặt khăn lên bàn. Tôi nghiến răng, trừng mắt nhìn tấm lưng đã quay lại phía tôi, cảm thấy tất cả sự khinh miệt cô ấy dành cho tôi. Trời, tôi phải cố trấn tĩnh để khỏi bóp chết cái lưỡi sắc nhọn và cay độc của cô ấy, để khỏi quăng một vật gì vào cái lưng quay lại kia... Tôi nhắm mắt lại.
Phải rồi, cô ta chỉ chờ đợi có thế, chỉ mong tôi giơ tay lên, xúc phạm đến người cô. Rồi cô ấy sẽ có cớ để bêu riếu tôi:
thấy chưa, một người có học thức hẳn hoi, một người từng đọc Gơt, Thômat Man, người ấy đã đang tâm đánh vợ mình, đã lấy tay bóp cổ một phụ nữ!
Bình tĩnh nào, tôi tự nhủ. Hãy mau bỏ tay xuống, trấn tĩnh lại. Sau bao năm chung sống với người đàn bà này, ta đã được gì nào? Trên bảng quyết toán của cuộc đời, bên Có tôi chẳng có gì hết, còn bên Nợ thì lại quá nặng cân. Cái được thì quá ít, cái mất lại quá nhiều. Làm cách nào giải thoát được mình đây? Phải thoát khỏi người đàn bà này bằng mọi giá! Nhưng, thoát sao đây?
Ly hôn ư? Không được! Làm như vậy không chắc chắn, vả lại cũng quá hèn.
Tôi sẽ viện lý do gì để ly hôn? Làm thế nào để các quan tòa, các thẩm phán có thể hiểu được tôi, vì họ vó cuộc sống khác tôi, ý nghĩ cũng khác tôi và vợ họ cũng không giống vợ tôi. Cuộc sống nội tâm của họ không giống tôi. Tôi không muón giải bày những tâm tư thầm kín ra trước họ để cho họ phán xét.
Tại sao tôi lập gia đình? Có ai bắt tôi phải lấy vợ đâu chứ. Tôi có thể bào chữa là tuổi trẻ dại dột và ngu xuẩn. Ai biết đựoc là các thẩm phán sẽ chất vấn gì gì nữa. Vả lại nếu ly dị, chắc tòa án sẽ nghĩ lại tỷ lệ ly hôn hiện nay đang quá cao, chắc họ sẽ cố sức phanh lại, hoặc hơn nữa, tệ hại hơn nữa, khi chia của, họ sẽ ưu tiên cô ấy, phần lớn tài sản có được do thu nhập của tôi sẽ được chuyển sang tay cô ấy, căn hộ này cũng sẽ về cô ấy. Nghĩa là, nếu ly hôn, cô ấy lại càng được, càng thắng thế.
Không, không ly hôn. Nhưng phải nhất quyết đẩy cô ấy ra khỏi cuộc đời tôi.
Nếu không, tôi sẽ sống không yên. Là kế toán trưởng trong một hãng tư nhân, tôi đã quen với việc lập kế hoạch. Hành động bột phát, thiếu suy nghĩ chín chắn, điều đó chẳng có ích lợi gì. Tôi phải lập một kế hoạch dài hạn, ít nhất là kế hoạch nửa năm.
Sau mấy ngày bóp trán suy nghĩ, tôi đã tìm ra một giải pháp tuyệt diệu, theo tôi rất chắc chắn. Giải pháp này vừa có tầm nhìn xa, vừa có sức hấp dẫn của những thử nghiệm tâm lý học...
Tôi bắt đầu để ý đến cánh đàn ông ở cùng khu, cố tìm lấy một người như dự tính. Chẳng hạn, ở tầng dưới sát phòng với tôi ở, có anh chàng vẫn hay đi kiểm tra tài chính, đó cũng là một khả năng. Anh ta tên là Hackơ. Tôi đã có dịp tiếp xúc về mặt nghiệp vụ với người đàn ông này. Nói chung, anh ta là một người niềm nở, mặc dù sống độc thân, nhưng chắc chắn anh ta không thờ ơ với đàn bà.
Ngược lại, hình như anh ta là một người chịu chơi, thích thưởng ngoạn cái đép trong thầm lặng. Đã nhiều lần tôi để ý thấy anh ta đắm đuối nhìn theo các cô gái, nhất là mấy phụ nữ đậm người. Không hiểu tại sao anh ta không lấy vợ. Đã quá tứ tuần rồi còn gì. Chắc chắn anh ta thuộc loại người sống theo câu thành ngữ:
Có bến ắt có thuyền, cá gì đến sẽ đến.
Nhưng tôi lại muốn được như thế, muốn đánh đổi lấy cuộc đời tự do của anh ta. Ai đã có ý chí, người ấy ắt tìm ra con đường đi tới đích. Tôi cũng vậy.
Bước thử nghiệm đầu tiên của tôi là khéo lái câu chuyện hướng về chàng Hackơ. Nhưng Liđêlôtthê không tỏ ra thích thú con người này. Khi tôi tỏ ý muốn mời Hackơ đến nhà chơi, cô ấy đã đốp ngay, không để cho tôi nói hết câu:
– Đầu óc anh chắc không được bình thường! Với những người như thế người ta phải khép ngay cửa lại. Ngữ ấy chăm chăm nhòm ngó các gia đình. Lúc nào cũng thấy hắn thậm thụt với anh chàng công an ở nhà bên.
– Nhưng chúng ta chẳng có gì phải giấu giếm cả! – Tôi chống chế.
– Mặc kệ hắn! – Cô ấy nói với một giọng cả quyết - Hắn là người ở trong ủy ban quận, cán bộ phòng tài chính, người trong Đảng! Nói chuyện với hắn phải cân nhắc từng câu từng chữ một! Tôi không hiểu nổi anh ra sao nữa! Anh vẫn muốn được yên thân kia mà!
Hừm! Thế là hỏng bét. Có thể cô ấy không ghét gì Hackơ với tư cách là một người đàn ông, nhưng lại ghét kẻ đại diện cho Sở tài chính quận. Điều này chắc bắt nguồn từ gia đình cha mẹ cô. Cha của Liđêlôtthê vốn là thợ húi tóc có một cửa hiệu riêng. Khi ông bắt buộc phải gia nhập hợp tác xã, gặp ai ông cũng phàn nàn:
“Chết vì thuế với má, tôi bị phá sản rồi”!
Giờ đây tôi vẫn hình dung ra ông bố vợ của tôi, cả bà mẹ vợ nữa, mặt họ lúc nào cũng cau có, khó chịu vì họ kiếm tiền không biết bao nhiêu mới vừa ý. Lúc nào cũng kêu khó kiếm sống! Họ nhăn nhúm mũi, chỉ vì tôi là một kế toán trưởng, chỉ có sổ sách ở trong đầu. Họ chê bai tôi không nuôi nổi vợ. Hừ! Làm như cô ấy sống với tôi khổ lắm ấy! Người chịu khổ chính là tôi! Là tôi đây!
– Thôi được. Liđêlôtthê ạ!
Tôi cắt đứt câu chuyện. Tôi phải khéo mới được. Muốn thực hiện được kế hoạch, tôi phải kiềm chế mình, phải làm trái với mọi thói quen trước nay, nghĩa là, sau bao nhiêu năm chung sống với cô ấy, tôi đã học được điều này:
muốn có hòa bình ở trong nhà, tốt nhất là cứ để cho cô ấy nói cho đã, đồng ý với mọi điều kiện của cô ấy nói, còn những điều mình nghĩ chỉ một mình mình hay! Cô ấy nói gì mình cũng cho là phải, thế là có hòa bình. Nhũn nhặn như thế thì trẻ con cũng thích, huống chi là cô vợ của tôi. Nhưng mà thực đáng tiếc! Tôi không dùng được anh chàng Hackơ để đạt tới mục đích. Mà Hackơ hình như cũng chán cảnh đơn độc lắm rồi. Giá như... với Liđêlôtthê thì cũng hay. Đẹp đôi đấy chứ! Một anh chàng khỏe mạnh, đầy sức sống, ăn uống tốt, anh ta có thể chịu đựng được cái gánh nặng tôi nhường cho!
Đành vậy, tôi nghĩ, phải kiếm một thằng đàn ông khác rước “nàng” đi! Và tôi lại bắt đầu đưa mắt tìm những người đàn ông đang cô đơn. Chân lý mà:
đàn ông cô đơn ai cũng thích đàn bà!
Xưa nay tôi vốn không để ý tới hàng xóm, láng giềng. Tôi lo cái thân tôi cũng đã đủ quá rồi. Thôi thì cứ mặc họ, nhà nào quét dọn cửa nhà nấy. Phần lớn người đời thường ít nghĩ về mình, họ chỉ sính chuyện của người khác. Còn tôi, tôi chẳng biết tới ai, chẳng biết ai ở cạnh mình. Nhưng bây giờ tôi bắt buộc phải nghiên cứu môi trường sống của mình, phải mở rộng pham vi quen thuộc, chỗ này một câu chào, chỗ kia một câu nói thân mật, hoặc thậm chí gật đầu chào cả người tôi không hề quen biết. Bằng cách đó tôi đã làm quen với một người đàn ông ở ngôi nhà bên cạnh. Anh ta tên là Lipsơ, có một căn phòng ở tầng trệt. tôi bí mật tìm hiểu về anh ta. Lipsơ sống một mình, chắc là chưa có vợ. Dĩ nhiên chưa có vợ không có nghĩa là xa lánh phụ nữ. Có một loại người sống theo cách của họ:
họ có đàn bà, nhưng không phải sống với đàn bà, và vẫn nghiễm nhiên là chàng trai chưa vợ! Tôi thở dài. Giá như tôi cũng không phải sống với cô ấy!
Tôi tìm mọi cách để chiếm được cảm tình của Lipsơ, bám sát anh ta như một người thợ săn, một Hubec. Hubectat như vợ tôi vẫn gọi. Thực ra làm quen với Lipsơ không phải khó khăc lắm. Anh ta rất cởi mở và cũng thích bắt chuyện.
Sau khi vượt qua được những mặc cảm e ngại vô nghĩa, tôi đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Hầu như ngày nào chúng tôi cũng có dịp gặp nhau. Lipsơ trên đường tới rạp chiếu bóng, tôi trên đường về nhà. Tôi cố ý chọn thời điểm như thể tình cờ gặp anh ta. Khi thấy quan hệ đã chín muồi, tôi bèn ngỏ ý mời Lipsơ sang chơi. Tất nhiên trước đó tôi đã thăm dò ý tứ vợ tôi. Thực lạ lùng, cô ấy cũng đã biết Lipsơ và không hề tỏ ra khó chịu. Cô ấy ngạc nhiên khi thấy tôi bỗng dưng mời anh ta tới chơi.
– Chà, một con người đáng mến – Tôi nói để thanh minh.
Cái lý tôi đưa ra rất mỏng manh. Ở khu này có bao người đáng mến, đâu phải chỉ có mình Lipsơ. Anh chàng Hackơ cũng đáng mến, thậm chí tôi thích anh ta hơn Lipsơ. Vấn đề là ở chỗ:
không phải tôi thích ai mà cô ấy thích ai.
Người tôi chọn phải được cô ấy thích.
Lipsơ trạc tuổi tôi, có thể ít hơn và tuổi. Nhưng anh ta có mái tóc, theo tôi, hơi quá dài, nó trùm lên cổ áo, che kín cả hai tai. Một kiểu tóc như vậy lẽ ra dành cho đám thanh niên thì đúng hơn. Anh ta đi đứng theo mốt các nghệ sĩ, mặc áo len cổ lọ, áo vét da, quần jean. Và nếu như anh ta có một chiếc mũ đội lên đầu thì thể nào lúc chào hỏi anh ta cũng nhấc mũ lên khỏi đầu chừng một xăngtimét, xem ra cũng là người lịch thiệp. Hơn nữa, Lipsơ cũng nói năng hoạt bát, cũng là một người mau miệng. Toàn bộ cách cư xử và đi đứng của Lipsơ khiến tôi nhớ đến một nhân vật trong phim. Tôi không nhớ là phim nào. Đại để anh ta là người của nghệ thuật điện ảnh, hay đúng hơn là bắt chước các nhân vật trong điện ảnh.
Lipsơ hiện là người điều khiển máy chiếu phim tại một rạp chiếu bóng ở điạc phương. Anh ta mới tới đây được vài tháng, không hiểu từ đâu đến, không ai biết nhiều về anh ta. Chính sự xa lạ bí ẩn lại có sức quyến rũ nhất định đối với người phụ nữ. Khi vừa nhắc đến Lipsơ, tôi thấy trong ánh mắt của vợ tôi thoáng một chút vui mừng.
– Vâng, cám ơn anh – Lipsơ đáp, khi tôi ngỏ ý mời anh ta sang chơi – Nhưng tôi chỉ rảnh rỗi vào mỗi tối thứ hai, còn những ngày khác phải làm việc.
– Không sao, tối thứ hai cũng được, tối nào mà chả giống tối nào!
Tôi báo cho vợ biết là tối thứ hai nhà có khách. Con người của nghệ thuật điện ảnh sẽ sang chơi. Liđêlôtthê nhướng mắt nhìn tôi vẻ kinh ngạc, nhưng không hề phản đối.
– Thế phải lo bữa ăn tối phải không? – Cô ấy hỏi - Nấu món cháo đặc nhé!
Chắc anh ấy ít khi được ăn nóng.
Tôi giơ tay gạt đi. Ôi, lạy Chúa! Cho anh ta ăn món ấy cũng có nghĩa là làm anh ta phát khiếp ngay từ tối đầu tiên. Nghệ thuật nấu ăn của cô vợ tôi cũng chán ngán như cuộc sống vợ chồng quanh đi quẩn lại cũng chỉ có món bắp cải cuốn rán cháy cạnh, món cơm nát trộn bơ và món mì ống đi cùng với phomat.
Không có nước sốt cũng chẳng có gia vị. Mỗi khi tôi phàn nàn, cô ấy lại xưng xỉa, bảo tôi có giỏi thì nấu lấy mà ăn! Tất nhiên là tôi không biết nấu. Ngày xưa ở nhà mẹ tôi vẫn nấu ăn. Bố tôi là thợ đục đá. Ông bao giờ cũng muốn ăn chắc bụng, không thể chịu những món ăn lèo tèo, lỏng lẻo, chưa ăn vào đã đói.
Nhưng ông bố vợ thì khác hẳn. Người mảnh khảnh, không có nhu cầu lớn về ăn uống, chỉ cần một tí súp và tí teo hoa quả là đã no. Và dĩ nhiên, ở đâu không có nhu cầu, ở đó sẽ không có chất lượng.
– Không, không cần phải bày vẻ làm gì – Tôi nói với cô ấy – Chúng ta chỉ cạn chén và tán gẫu cho vui thôi. Một người đàn ông sống quanh quẩn ở nhà cũng buồn. Mời anh ấy sang chơi cho khuây khỏa.
– Ồ, ông kế toàn trưởng của tôi có những nét rất mới! – Cô ấy nói, khịt khịt mũi vẻ châm chọc.
– Còn lâu cô mới hiểu được chồng mình, cô bạn ạ! – Tôi đáp và mỉm cười.
Ngay trong buổi tối đầu tiên, Lipsơ đã tỏ ra là một người nói chuyện có duyên và lịch sự. Về sau, càng quan sát anh ta, tôi càng nhận thức rõ rằng anh ta chỉ bắt chước cách nói năng và cử chỉ của diễn viên. Anh ta đem đến ba bông hoa cẩm chướng tặng vợ tôi, rõ ràng không phải là món quà quý giá đắt tiền gì, nhưng vợ tôi rất xúc động. Người đàn bà nào chẳng yêu hoa và muốn mình được thờ phụng. Hơn nữa, Lipsơ còn đeo cả cavát, chứ không mặc áo len cổ lọ.
Lại một cử chỉ nữa của văn minh! Riêng tôi, anh ta tặng tôi những năm điếu xì gà của xứ sở Braxin. Tôi khước từ vì không biết hút thuốc.
– Không biết bà chủ nhà có cho phép tôi được châm một điếu thuốc hay không? Hay khói thuốc làm cho bà khó chịu?
Lipsơ nói. Đúng là lời lẽ của một nhân vật trong phim truyện. Anh ta đâu có thèm hỏi tôi. Nhưng Liđêlôtthê có vẻ hoan hỉ lắm, cô ấy được mơn trớn bởi câu văn sao chép ấy. Và lạ thay, vốn là một người ghét cay ghét đắng khói thuốc và kẻ nghiện, cô ấy đáp:
– Vâng, xin mời, xin mời! Tôi rất thích ngửi mùi thuốc xìgà. Một điếu xìgà thơm mang hương vị của nam tính.
Suýt nữa tôi bật dậy. Giá cô ấy nói với giọng giễu cợt! Đằng này không! Rất nghiêm túc và thiện chí. Cũng may tôi vội nhớ đến kế hoạch của mình. Tôi ghi nhận:
vượt mức kế hoạch mười phần trăm, và cười gằn, Liđêlôtthê nhìn thấy thế và tỏ ra khó chịu. Tan cuộc cô ấy nói:
– Anh cư xử chẳng khác gì một thằng ngốc! Một mình nốc gần hết cả chai rượu, thỉnh thoảng lại cười gằn, thực đáng sợ.
– Nhưng hai người vẫn trò chuyện thỏa mái đấy thôi! – Tôi đáp lại, cố ghìm để khỏi lộ thiên cơ.
Quả vậy, họ đã trò chuyện với nhau rất thỏa mái:
họ nói về các bộ phim, về diễn viên điện ảnh. Chợt nhớ tối thứ hai có phim trên ti vi, họ bật máy và cùng nhau ngồi xem. Tôi nghĩ, chắc họ không để ý thấy tôi đang nốc rượu. Tôi có cớ để vui mừng, để cạn chén với chính mình. Vượt định mức mười phần trăm, tuyệt thật! Vậy là Lipsơ đã cắn câu, chàng trai chưa vợ đã vào cuộc! Hoặc nói theo ngôn ngữ của các nhà chiến lược quân sự:
mặt trận thứ hai đã khai hỏa, trước khi mặt trận thứ nhất được triển khai. Vâng, đúng thế, mặt trận thứ nhất và cũng là hướng tấn công chủ yếu sắp mở màn. Tôi phải tập trung toàn bộ sức lực cho hướng này.
Tôi bắt đầu lục tìm trong báo chí tất cả các bài báo viết về các vụ án. Cứ mỗi lần tìm được một tài liệu thích hợp, tôi lại nói:
– Liđêlôtthê này, nghe nhé!
Và tôi đọc cho cô ấy nghe. Dĩ nhiên tôi chỉ chọn những vụ việc mà kẻ phạm tội là phụ nữ. Chủ yếu là các vụ trộm cắp trong các cửa hàng tự phục vụ, giả mạo giấy tờ, thụt quỹ, biển thủ. Chẳng hạn một cô hàng trưởng đã lấy cắp hai mươi lăm ngàn mác bằng tiền và bằng hàng, đã sống một cuộc sống xa hoa ra sao. Đúng là đã “sống cho ra sống”. Cuối cùng bị phạt bốn năm tù giam (đoạn này tôi không đọc). Tôi trộm nghĩ:
giá mình dẫn dụ được cô ấy cũng phạm pháp như thế.
Bốn năm tù giam! Và ta sẽ được giải thoát ít nhất là bốn năm! Bốn năm tự do, sống độc lập trong căn hộ của mình, sau khi đi làm về được thảnh thơi, ngả người trên đivăng và đọc sách, không bị ai quấy rầy, tha hồ suy tưởng, mơ mộng, tha hồ tận hưởng hạnh phúc mình hằng mong đợi... Được giải thoát khỏi gánh nặng và được tự do.
Dĩ nhiên, con đường đơn giản nhất là thuê quách một căm phòng, chấm dứt cuộc chung sống khốn khổ khốn nạn giữa hai con người sống cạnh nhau mà không sống cùng nhau. Nhưng, chuyện đó đâu phải dễ. Tìm đâu ra chỗ ở thời buổi này. Ngay cả những người đã ly hôn cũng không có nơi trú nắng che mưa.
Ở trại giam, chắc chắn Liđêlôtthê sẽ được biết mùi vị của cuộc sống, cô ấy sẽ biết thế nào là ra lệnh và sai khiến kẻ khác. Sẽ là một bài học nhớ đời cho cô ấy.
Còn tôi, tôi sẽ sống bốn năm trong hòa bình!
– Thế nào, em nghĩ gì về sự kiện vừa rồi?
– Sao cơ? – Cô ấy hỏi - Hừ, đúng là ngốc, làm như vậy thật là ngốc nghếch!
Cho đến nay, như tôi biết, Liđêlôtthê chưa bao giờ làm điều gì phạm pháp.
Là một nhân viên bưu điện, thu nhập thấp, sau giờ làm cô ấy còn đi thu tiền cho cơ quan bảo hiểm để kiếm thêm. Nhưng mà lẽ đời nó như thế:
ai liên quan đến tiền, người ấy không tránh khỏi bị cám dỗ!
– Phải đó, em nói đúng – Tôi vội tán thưởng – Làm như vậy thực ngốc nghếch!
Liđêlôtthê mở to mắt nhìn tôi:
– Anh nói gì vậy? Em không hiểu.
Và tôi đã giải thích theo cái cách của tôi. Tôi nói rằng:
Mỗi một việc làm phạm pháp thực ra là một vụ thử nghiệm trí thông minh của con người. Nó cũng giống như trò chơi vậy thôi. Một người ngu sẽ mau chóng bị sa lưới pháp luật.
Những sai lầm mắc phải khi hành sự sẽ rất lớn. Con người càng thông minh, khả năng bị bắt càng ít hơn. Riêng đối với phụ nữ, vấn đề này có khác. Phụ nữ hành động chủ yếu theo cảm tính, ít khi được điều khiển bởi lý trí. Chỉ có những phụ nữ thông minh mới có cơ hội thoát khỏi lưới pháp luật. Nhưng số này rất hữu hạn. Cần phải có lý trí, can đảm và khôn ngoan...
Trong khoảnh khắc, tôi có cảm giác Liđêlôtthê đang hoài nghi trí thông minh của tôi. Cô ấy nhìn tôi rất lạ rồi lắc đầu. Liđêlôtthê không nói gì, khẽ nhún vai, tôi không hiểu vì sao, nhưng giác quan thứ sáu hình như mách bảo tôi:
hạt giống được gieo vào mảnh đất màu mỡ! Muốn đâm chồi nẩy lộc, công việc phải làm là xới đất cho nó tơi, là bón phân, nuôi dưỡng nó, là chăm vun vắn, tưới tắm cho nó. Hạt giống ấy sẽ nảy mầm, sẽ bám rễ... Trong cuộc đời, có những mảnh đất của tội ác cũng đang được chăm sóc. Riêng tôi, tôi phải chăm sóc đến mảnh đất của tôi, phải kiến tạo một vụ án hình sự. Hừm! Mảnh đất của tôi không nguy hiểm chết người. Nó sẽ giải thoát cho tôi khỏi khốn khổ, khỏi phải chung sống mãi với một người đang bà tôi chán ngán. Ôi, lạy Chúa! Ước gì cô ấy sẽ phạm pháp, sẽ bị bắt và ngồi tù!
Và tin ấy sẽ lan nhanh trong thành phố nhỏ bé này. Dân chúng sẽ bàn tán:
Bà vợ của Hubơ Aixensnaiđơ đã phạm tội. Người ta sẽ lên án cô ấy, còn tôi sẽ không bị vết nhơ, thậm chí còn được mọi người thương hại và cảm thông. Kết quả hoàn toàn khác với một cuộc ly hôn.
Giả thiết mặt trận thứ nhất của tôi không tiến triển, tôi đã có anh chàng chiếu phim kia. Gã đã dấn thân vào cuộc rồi, gã sẽ tình tự, sẽ ngày càng dấn sâu vào quan hệ luyến ái với cô ấy, và cuối cùng gã sẽ cướp hộ tôi cô ấy đi! Trong lúc cô ấy bị người đời lên án và nguyền rủa, tôi sẽ được thương cảm. Tôi sẽ là một con người tội nghiệp bị vợ phản bội và bất hạnh. Cả hai phương án đều mang lại một kết quả như nhau:
tôi sẽ được giải thoát trong danh dự!
Sau tám tuần thực hiện kế hoạch, tôi hoàn toàn hài lòng với sự tiến triển của sự việc. Tôi vui lắm. Thậm chí khi ở nhà một mình, tôi đã hát và đã nhảy múa trong căn phòng. Thực hạnh phúc và phấn khởi. Mọi việc diễn ra đúng kế hoạch. Một kế toán trưởng như thế chứ!
Liđêlôtthê bỗng dưng đường đột về nhà. Ngoài dự kiến của tôi. Cô ấy bắt gặp tôi đang nhún nhảy một mình.
– Ô la la, dạo này anh cứ như người vừa lột xác, anh thay đổi nhiều quá! Thật không ngờ! – Cô ấy nói.
Vâng, đúng thế đấy, tôi thầm nghĩ. Nhiều cái đã thay đổi. Chúng tôi không cãi nhau như trước nữa. Tôi làm tất cả những gì cô ấy muốn, không hề phàn nàn hay nói lại nửa lời. Cái gì cô ấy nói cũng phải. Thậm chí trong bữa trưa vào cuối tuần, tôi đã khen nghệ thuật nấu nướng của cô ấy. Đôi khi tôi còn nói đùa hoặc pha trò. Tôi cũng đã đi xem phim với Liđêlôtthê, và cũng đã câm tay cô ấy trong lúc ngồi bên nhau. Miệng tôi thì thầm:
– Người bạn chung của chúng ta đang điều khiển máy chiếu!
Phải, thế đấy, “người bạn chung” của chúng tôi! Chà, anh ta vẫn đến vào các tối thứ hai, thản nhiên như một vì tinh tú di dịch trên vòm trời, chẳng cần tôi phải mời mọc ân cần nữa. Lipsơ cũng không đeo cavát, vẫn đóng chiếc quần jean cũ sờn và đi giày trong nhà! Vợ tôi thì khác hẳn. Cô ấy rất chăm chút đến nhan sắc. Thứ hai nào cũng đính hàng mi giả, cũng phun nước hoa chống hôi nách. Sự việc tiến triển thực tuyệt mỹ. Rồi một hôm, tim tôi đập rộn lên, khi tôi nghiên cứu các chứng từ thu tiền bảo hiểm của cô ấy. Bằng con mắt nhà nghề, với kinh nghiệm lâu năm của một kế toán trưởng, tôi nhanh chóng đối chiếu các chứng từ, sổ sách, tiền mặt và cân đối các khoản, và tôi mừng vô hạn:
thiếu hụt một trăm mười hai mác! Được lắm! Tuyệt! Cả hai mặt trận đều tiến triển tốt đẹp. Tôi chỉ lo mỗi điều:
Lipsơ có thể giữa chừng chán vợ tôi, bỏ của chạy lấy người, hoặc Liđêlôtthê có thể tỉnh ngộ, chấm dứt chuyện biển thủ. Không, không thể để như thế được. Phải nuôi dưỡng, khích lệ cả hai người.
Vì vậy, cứ mỗi lần Lipsơ sang chơi, tôi lại tìm mọi cách lánh đi, khi thì lấy cớ bị nhức đầu, muốn đi dạo để hít thở không khí trong lành; khi thì xin lỗi có việc bận. Nhưng cứ mỗi lần tôi rón rén về nhà, bí mật theo dõi họ, tôi vẫn thấy họ ngồi xem vô tuyến, cách xa nhau hàng thước. Cả hai cùng chăm chắm nhìn vào màn hình huỳnh quang. Thế cũng hay. Nếu tôi thấy vợ tôi trong vòng tay của anh chàng chiếu phim, có lẽ tôi cũng thấy khó chịu. Mắt không thấy, lònh không đau. Họ có thể... trong lúc tôi vắng mặt. Họ có thể cứ tự nhiên, vâng, xin mời!
Mặt khác, tôi cố tìm tài liệu về các vụ án, cố khích lệ hành vi phạm pháp của vợ tôi, nuôi dưỡng nó, thúc đẩy nó phát triển. Nhưng đáng tiếc, các vụ phạm pháp của phụ nữ không có nhiều. Tôi bèn hư cấu ra và kể lại. Những con số nhảy múa trong óc tôi, và nhân vật phạm pháp do tôi tưởng tượng ra cũng sắc nét, hấp dẫn không kém gì trong các bài tường thuật trên báo chí. Tôi bỗng phát hiện ra mình có khả năng trở thành một nhà văn chuyên viết truyện hình sự. Giá tôi không học cái nghề kế toán khốn khổ này, tôi có thể viết sách, và chắc chắn thu khối tiền nhuận bút.
Liđêlôtthê nghe tôi rất chăm chú.
Vì đã mấy tháng sống với nhau trong không khí hòa bình và thân thiện, không vục vặc, cãi cọ nhau, nên Liđêlôtthê hình như cũng thay đổi. Mỗi buổi tối, thậm chí cô ấy còn ngả người vào lòng tôi, mắt nhìn tôi đắm đuối và chờ đợi. Nhưng tôi nghĩ, không, không đời nào phải cương nghị, đừng xiêu lòng trước sự cám dỗ của phụ nữ, đừng biến mình thành tù binh của bản năng, nếu không, toàn bộ kế hoạch sẽ tan thành mây khói. Tôi nhẹ nhàng thoái thác, tránh né vợ:
– Ngày mai anh phải làm việc rất căng thẳng! – Tôi nói với Liđêlôtthê.
Sau đó, tôi cởi quần áo, trèo lên giường, quay mặt vào tường, giả vờ ngủ.
Chẳng mấy chốc tôi đã nằm trong tay của thần Morpheus, ngủ ngon lành.
Hôm sau tôi về muộn, vì quá bận bởi công việc quyết toán. Tôi chợt nhớ hôm nay là thứ hai, mình có về muộn lại càng hay. Chắc Liđêlôtthê đang trang điểm để đón tiếp Lipsơ. Có lẽ cô ấy giờ đang đứng trước gương hoặc đang xịt thêm nước hoa vào sau tai.
Từ ngoài đường tôi đưa mắt nhìn căn hộ của mình. Rèm che nắng được buông xuống, mặc dù mặt trời đã tắt lặngtừ lâu. Tôi bấm chuông. Không ai ra mở cửa. Tôi phải dùng đến chiếc chìa khóa riêng để vào phòng. Thông thường Liđêlôtthê thu tiền bảo hiểm vào các ngày cuối tuần, cô ấy không bao giờ đi vào tối thứ hai. Trong phòng không khí khó chịu, ngột ngạt. Tôi kéo rèm và mở toang cửa sổ.
Tôi mở tủ lạnh lấy một chai nước quả, rót một cốc nước đầy, ngồi thỏa mái trên ghế bành và suy tưởng. Rồi đây, tôi sẽ được sống như thế này. Một mình trong căn phòng, không va chạm, không tranh cãi. Một cuộc sống thực êm ả, thực thanh bình. Chỉ thiếu mỗi tiếng oanh vàng líu lo ngoài song cửa...
Nhưng cô ấy đi đâu? Tại sao giờ này vẫn chưa về? Cuối cùng, tôi phải đứng dậy tự lo lấy bữa ăn tối. Tôi xem đó là một sự thử nghiệm cho mai sau. Người đàn ông nào chả cắt được bánh mì, phết bơ lên, đặt trên đó miếng xúc xích. Thế là xong, thật đơn giản. Thường thường tám giờ tối anh chàng kia vẫn sang.
Chắc đến lúc đó Liđêlôtthê phải có mặt ở nhà. Cô ấy về, tôi cố kìm mình để khỏi to tiếng và trách cứ. Người đâu mà kỳ quặc. Đi khỏi nhà, về muộn, không viết một mảnh giấy báo tin. Đó là phép lịch sự tối thiểu.
Tôi bật vô tuyến, vừa ăn vừa theo dõi mục thời sự. Rồi người ta chiếu phim truyện. Liđêlôtthê vẫn chưa về. Hay có chuyện gì đã xảy ra? Chuyện gì chứ?
Tôi đứng dậy, đi đi lại lại trong căn phòng. Sắp tám giờ. Bất cứ lúc nào anh chàng ấy cũng có thể bấm chuông. Khách sắp đến. Bộ phim đã chiếu được nữa tiếng. Hanxơ Anbéc đang hát về biển, về gió lành. Một bài ca li biệt, mùi mẫn.
Toàn những trò vớ vẩn, tôi nghĩ. Ly với chả biệt! Đúng là món ăn tinh thần hợp với vợ tôi và Lipsơ. Tôi tắt máy. “Con đường tự do số 7” (tên bộ phim) mất hút vào hư vô. Trong thoáng lát, tôi cảm thấy sự im ắng thực dễ chịu. Tôi với tay cầm một cuốn sách của Thômat Man, lầm rầm đọc:
“Hãy nói đi, ngươi là ai, sự kiêu ngạo nào đã khiến mi tách ra khỏi chúng tôi và biến mi thành một kẻ lạc loài?”... Hình như có tiếng bước chân ở bên ngoài.
Bước chân của Liđêlôtthê? Tôi lắng nghe. Tôi sẽ cho cô ấy biết thế nào là lịch sự. Nhưng không, vẫn vắng lặng như tờ. Tôi vứt quyển sách đi. Bỗng nhiên một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi. Phải rồi, chắc chắn như thế. Vậy mà không nghĩ ra!
Chắc chắn là cô ấy đã mò sang nhà của anh ta. Họ đang cũng nhau ngồi xem “Con đường tự do”. Rất có thể kế hoạch đã được cô ấy thực hiện vượt yêu cầu.
Nghĩ đến chuyện Liđêlôtthê đang ở trong căn phòng của Lipsơ, xin thú thật là tôi thấy đau lòng. Tôi tự nhủ:
đấy là cái đau đớn phải chấp nhận, cái đau sau một cuộc giải phẫu, nhất thiết không tránh khỏi, cái đau để hồi sinh.
Thật tình tôi muốn vợ tôi ngồi sau chấn song sắt trại giam hơn là trong vòng tay của Lipsơ.
Sau cùng, không chịu đựng nổi nữa sự nghi hoặc, tôi xuống đường, tìm đến khu nhà bên cạnh. Cũng may cửa ra vào vẫn để ngỏ. Tôi phải biết chắc chắn diễn biến của sự việc. Có điều cần phải tự chủ, phải đóng vai một con người sẵn sàng từ bỏ tất cả, đóng vai một người đàn ông buồn. Nhưng phải có mức độ.
Không được để cô ấy cắn rứt lương tâm và động lòng thương hại tôi. Phải luôn luôn nhớ rằng:
cái chính là giải thoát mình khỏi cô ấy. Không được xúc động.
Không được mảy may tỏ ra mình ghen tuông. Đại để tôi sẽ nói:
– A ha, tôi đã biết ngay mà! Được lắm! Nếu cô muốn, từ nay trở đi chúng ta sẽ xa nhau. Tấm khăn trải bàn đã bị xé làm đôi, mỗi người đi một nẻo. Cô đường cô, tôi đường tôi. Xin chào!
Hình ảnh chiếc khăn trải bàn đã bị xé làm đôi rất hay. Nhớ đừng quên khi nói với cô ấy. Còn với anh chàng kia phải tỏ ra cao tay, độ lượng, không gây sự thù hằn, nhưng phải rất kiên quyết. Phải xô đẩy họ sống với nhau, coi như sự đã rồi, không thể đảo ngược được nữa.
Sau hai lần bấm chuông, Lipsơ ra mở cửa. Trông anh ta không có vẻ gì đang chuẩn bị để đón nhận niềm vui từ phái yếu. Chỉ có điều khác thường:
anh ta mặc comlê, đeo cavát, đi giầy giôn, như người mới về nhà hoặc chuẩn bị cho một chuyến đi xa.
Tôi ép mình mỉm cười, chào anh ta, nói răng không thấy anh ta sang, sợ có chuyện gì xảy ra chăng. Tôi nói lấp lửng và quan sát nét mặt của Lipsơ:
không thấy gì đặc biệt.
– Có chuyện gì ấy à? Có chứ, có chứ. Nhưng không phải theo nghĩa xấu, xin đừng lo. Mời anh vào, xin mời! – Lipsơ đáp.
Từ mấy tuần nay Lipsơ đã xưng hô “anh, em” với vợ tôi. Với tôi, vẫn là người láng giềng và quan hệ xã giao, không có gì thân mật hơn khi trước. Tôi cũng vậy. Tôi chỉ thân thiết với vài người. Tôi không thích những quan hệ quá thân mật, thậm chí đến suồng sã.
Trên bàn của Lipsơ có một chiếc va li quần áo để bừa bộn. Máy vô tuyến không mở. Cả căn hộ chỉ có một gian phòng. Nếu Liđêlôtthê không ở trong tủ hoặc trong chỗ vệ sinh thì cô ấy không có mặt ở đây. Cửa tủ hơi hé mở. Khi đi qua tôi khẽ nhích vai cho nó bật tung ra. Không có gì.
– Anh thông cảm cho, nhà cửa bề bộn quá! – Lipsơ nói – Ngày mai tôi đến một nơi mới làm việc. Rạp Kôxmôx. Đã lâu nay tôi ao ước được vào đó làm việc. Tin vui đến thật bất ngờ. Lại được làm việc ở thành phố nữa chứ! Cơ hội thực hiếm có.
– Xin chúc mừng, xin chúc mừng! – Tôi nói, giọng mệt mỏi. Tôi chẳng nghĩ ra được điều gì khác hơn. Kế hoạch của tôi bị đảo lộn, rắc rối. Tôi muốn được suy nghĩ lại mọi việc.
– Trời, bỗng dưng tôi thấy người khó chịu quá – Tôi nói, tựa tay lên mặt bàn, run run – Anh có thể cho tôi một ly nước được không?
– Ồ, tất nhiên! – Lipsơ đáp, có vẻ cũng lo lắng. Anh ta đi lấy nước, thu vội quần áo vắt lên ghế, mời tôi ngồi. Tôi uống một ngụm nước. Lấy cớ mình khó chịu, tôi xin phép được vào chỗ vệ sinh.
– Vâng, vâng, xin mời!
Nhưng ở đây cũng không có cô ấy. Tôi giật nước, lấy nước lạnh vã lên trán rồi quay ra.
– Anh làm sao thế? – Lipsơ hỏi.
– Chắc làm việc quá sức – Tôi đáp – Đang quyết toán.
– Chúng ta thực khốn khổ vì công việc! – Anh ta nói.
Tôi cáo lui, chúc anh mọi sự tốt lành, anh ta chúc tôi mau khỏe mạnh, rồi nói thêm:
– Trước khi tôi xa hẳn nơi đây thế nào cũng sang chào anh chị. Cho tôi gửi lời hỏi thăm chị ấy!
Hừ! Nói dễ nghe đấy nhỉ! Hình như anh chàng cũng không biết vợ tôi ở đâu.
Tôi hy vọng khi về đã thấy cô ấy ở trong phòng. Nhưng mà khồn, Liđêlôtthê vẫn chưa về. Tôi cảm thấy đầu óc thực căng thẳng, vội ngả người xuống đi văng. Lại cầm lên tay một cuốn sách của Thômat Man, nhưng mắt tôi chẳng đọc được chữ nào. Trong cảnh tĩnh mịch của đêm tối, tai tôi bỗng nhiên rất thính nhạy. Chỉ thoáng nghe một tiếng động rất nhỏ, tôi đã nghĩ có thể cô ấy về. Đến nửa đêm cũng không thấy Liđêlôtthê quay trở lại. Tôi uống thuốc ngủ để khỏi thức trắng đêm và nghĩ ngợi mông lung.
Sớm hôm sau tỉnh dậy, đầu tiên là tôi đưa mắt nhìn chiếc giường bên cạnh.
Vậy là đêm qua cô ấy cũng không về. Mười bốn năm trời chung sống với cô ấy, chưa lần nào cô ấy vắng nha mà tôi lại không biết cô ấy hiện ở đâu. Tôi vội vàng chuẩn bị mọi thứ để tới chỗ làm việc. Sau khi đã giải quyết xong những công việc hệ trọng, đến giờ nghỉ ăn sáng, tôi gọi điện cho cơ quan bưu điện.
– A lô, tôi muốn được nói chuyện với chị Aixensnaiđơ.
Tôi không xưng tên mình. Ở đầu bên kia một giọng nữ cất lên trong trẻo và nhiệt tình đáp lại:
– Chị ấy đi nghỉ phép từ hôm qua rồi nhé!
– Sao cơ? Chắc chị nhầm. Tôi muốn nói chuyện với chị Liđêlôtthê Aixensnaiđơ kia mà!
– Vâng, đúng thế đấy! - Giọng nữ lúc này có vẻ khoái chí – Thôi, thế nhe, ba tuần nữa xin mời anh gọi lại.
– Không thể như thế được! – Tôi làu bàu trong máy.
– A lô, ai gọi đấy? - Giọng nữ tò mò hỏi.
Tôi dập máy, quên cả lời cảm ơn.
Có chuyện gì xảy ra thế nhỉ? Cô ấy đi nghỉ phép! Đầu óc tôi ong ong, những ý nghĩ lộn xộn. Xưa nay trong công việc kế toán tôi không hề nhầm lẫn. Nhưng hôm ấy nhầm mất hai con tính, phải tìm mãi mới phát hiện ra sai sót của mình.
Công việc quyết toán không nhanh chóng như mọi lần. Tôi buộc lòng phải làm thêm giờ để bảo đảm thời hạn.
Khi trở về nhà, mệt mỏi và ngán ngẩm, tôi uể oải bước vào phòng, không hy vọng là vợ tôi đã chuẩn bị bữa ăn tối như mọi lần. Cô ấy đi nghỉ phép! Cô ấy cũng đã có kế hoạch. Không ai bỗng dưng đi nghỉ phép. Không nói với tôi một lời nào. Không để lại một dòng chữ. Giá như tôi biết được ma quỷ nào đã đưa đường dẫn lối cho cô ấy! Hay Liđêlôtthê đã chuẩn bị từ bỏ tôi từ lâu? Hoặc cô ấy đã đoán ra mọi ý đồ của tôi? Không có nhẽ. Nhưng tôi làm sao hiểu hết được nội tâm của một người phụ nữ! Có thể người đàn bà ấy kém khả năng suy nghĩ lôgíc và liên tưởng, nhưng đã linh cảm thấy mọi chuyện qua lời nói và cử chỉ của tôi? Lẽ ra tôi phải tinh không hơn, thận trọng hơn. Nhớ lại những nhân vật phụ nữ trong văn học, tôi bất giác rùng mình. Họ lừa chồng thật khôn khéo biết bao! Tôi có cảm tưởng như mình đang chơi cờ, nhưng đã đi chậm tới năm bước mà vẫn chưa tới lượt. Bất cứ lúc nào cũng có thể bị chiếu tướng và thua cuộc.
Tôi lục tìm trong căn phòng xem cô ấy đã mang theo những gì. Nhưng tất cả vẫn nguyên vẹn như xưa. Chiếc vali vẫn còn đó. Quần áo của Liđêlôtthê vẫn đầy đủ trong ngăn tủ. Thật lạ lùng. Cha mẹ cô ấy đã qua đời. Cô ấy cũng không có những bạn gái thân thiết để có thể tới ngủ nhờ. Tôi không tin là Liđêlôtthê đi nghỉ phép. Nếu đi xa, người ta phải mang theo đồ lót, quần áo và vali. Vậy cô ấy đang ở đâu? Tôi bắt đầu thấy sốt ruột, bất an.
Lẽ ra tôi phải vui mừng mới đúng. Cái trạng thái được sống yên bình và yên tĩnh đã tới đó, tôi vẫn ước ao được như thế, nhưng sao lòng tôi lại nổi gió. Sao tôi sống bất an? Bao câu hỏi vẫn chưa được giải đáp. Cô ấy đang ở đâu? Tại sao tôi lại bồn chồn, lo lắng?
Những ngày tiếp theo đầu óc tôi lại càng thêm căng thẳng. Tôi đã trải qua những giấc mơ khủng khiếp. Rồi biết bao là công việc nội trợ tôi phải làm. Nào là nấu ăn, nào là lau cửa kính, nào là xách nước lau cầu thang, công việc vặt vãnh cứ ùn lên. Tôi muốn thuê mấy bà hàng xóm làm giúp các công việc nội trợ, nhưng không ai chịu nhận, Mọi người đều di làm. Thấy tôi vất vả lau cầu thang, những người đàn bà cùng nhà tò mò hỏi thăm về cô ấy. Tôi nói dối là Liđêlôtthê đi nghỉ để chữa bệnh. Tôi nghe thấy họ thì thào với nhau:
Thế đấy, những người ốm đau khốn khổ chẳng giờ được gọi đi an dưỡng, còn những kẻ khỏe như vâm thì nay an dưỡng chỗ này, mai an dưỡng chỗ kia. Chồng làm kế toán trưởng có khác. Chắc lại ngoặc với, mấy tay bác sĩ. Chúng nó đều thế cả!
Từ bữa ấy, tôi phải đợi cho mọi người đi ngủ mới ra lau cầu thang. Được, cô ấy về tôi sẽ cho cô ấy biết tay...
Ngày nào tôi cũng ngóng tin của Liđêlôtthê, một lá thư hay chỉ một tấm bưu thiếp, một bức điện... Nhưng vô ích. Cô ấy vẫn bặt vô âm tín. Tôi giả giọng một người khác gọi điện cho cơ quan bưu điện, hỏi xem họ có biết bà Aixensnaiđơ đi nghỉ ở đâu không. Không, họ không biết gì hết. Sau hai tuần căng thẳng chờ đợi, tôi lên xe vào thành phố, tìm đến rạp chiếu bóng Capitôn, à không, rạp Kôxmôx với hy vọng mong manh. Biết đâu đấy. Chính ở đây tôi sẽ tìm lại được cô ấy. Liđêlôtthê và Lipsơ! Có thể như thế chứ! Nhưng nhũng điều tôi được biết ở đây không làm tôi vui thích chút nào, thậm chí càng làm tôi sôi máu và uất ức.
Ở đây không ai biết Lipsơ! Không có một người nào tên Lipsơ cả. Hỏi Ban giám đốc và bộ phận nhân sự, người ta chỉ nhún vai! Con người của nghệ thuật điện ảnh ấy đã lừa tôi. Hắn đi đâu? Tại sao hắn nói dối là chuyển về Kôxmôx?
Nói thế để làm gì? Đồ khốn nạn! Hắn đã uống của tôi biết bao là rượu vang, vậy mà lại lừa tôi thậm tệ đến như thế. Hắn là con rắn độc, đồ vô ơn bạc nghĩa.
Được rồi, mày sẽ biết tay ông. Cả cô ấy nữa. Cứ về đây rồi sẽ biết.
Nhưng sao nhỉ? Chẳng phải tôi đã muốn như thế sao? Chẳng phải tôi đã se duyên cho vợ tôi hay sao? Lipsơ và Liđêlôtthê, hai người ấy xứng đôi đấy chứ?
Kế hoạch đã hoàn thành. Mặt trận thứ hai đầy thắng lợi. Vợ tôi bỏ nhà đi. Lipsơ đã khuất mắt. Tôi là người tự do. Tôi được hưởng thanh bình. Sao tôi lại không vui? Sao tôi lại khốn khổ?
Rồi ba tuần lễ trôi qua. Thời hạn nghỉ phép năm của Liđêlôtthê đã hết.
Nhưng cô ấy vẫn bặt vô âm tín. Viên thanh tra của cơ quan bảo hiểm đã mấy lần đến hỏi, tôi bảo ông ta ráng đợi một tuần nữa, chắc chắn cô ấy đi dưỡng bệnh sẽ về. Ông ta nhìn tôi rất lâu rồi bỏ đi. Mặc kệ ông thanh tra với nỗi lo của ông ta, còn tôi có nỗi lo của riêng mình.
Nhưng đúng hôm cô ấy phải có mặt ở cơ quan bưu điện để làm việc thì tren báo đưa tin:
Cơ quan công an yêu cầu nhân dân giúp sức để tìm ra tung tích nạn nhân. Người đã tìm thấy ở trong hồ... xác một phụ nữ, không rõ tên tuổi và quê quán. Bức ảnh chụp cái xác nổi trong nước và in trên mặt báo không rõ ràng, nhưng tôi tin rằng mình đã nhận ra Liđêlôtthê. Cả những tình tiết miêu tả nạn nhân cũng rất khớp với vợ tôi. Đặc điểm của nạn nhân:
có một vết sẹo do mổ ruột thừa. Đúng rồi, cách đây mấy năm Liđêlôtthê đã đi mổ ruột thừa. Người ta còn miêu tả quần áo nạn nhân đang mặc. Điều này đối với tôi thực vô nghĩa, vì đã nhiều năm nay, tôi không bao giờ để ý đến quần áo của cô ấy, trừ khi nó ngốn mất nhiều tiền. Với tư cách là một kế toán trưởng, tôi luôn giữ vững những nguyên tắc tiết kiệm. Tôi không tán thành những khoản chi chạy theo mốt thời trang.
Khi đọc đoạn tin của công an, tình cảm của tôi thật xáo trộn. Một chút bâng khuâng, buồn buồn, nhưng rồi mọi cái đã qua đi. Tôi duỗi chân, ngả đầu trên ghế bành, mắt chăm chăm nhìn lên trần nhà như nhìn vào màn ảnh. Tôi bỗng thấy hình ảnh đã quen thuộc với mình từ hơn chục năm nay. Cô ấy đang nhìn tôi, miệng lẩm bẩm. Tai tôi văng vẳng những câu nói như roi quất vào mặt mình. Tôi nghe thấy tiếng cười nhạo báng của cô ấy, thấy tiếng nói rít lên:
Anh không phải là một người đàn ông! Anh là một thằng chồng vô tích sự! Một kẻ ích kỷ, ti tiện, một con ngỗng đực đần độn... Tôi co rúm người lại... Rồi tôi nghĩ lan man. Quá khứ đã qua đi đang hiện về luận tội tôi, trách cứ, xỉ mắng tôi.
Tại sao tôi lại lập gia đình? Tại sao đã có lần tôi thèm khát phụ nữ? Phải chăng cuộc sống cô đơn đã thôi thúc, đã xô đẩy tôi đến với người đàn bà mà sau này thành kẻ hành hạ tôi? Và kia... dĩ vãng... trong một chuyến xe khách, một người phụ nữ ngồi cạnh tôi, một sự quen biết thật tình cờ. Biết bao cặp vợ chồng đã thành những bạn đời cũng chỉ vì tình cờ họ gặp nhau. Tôi bắt chuyện:
– Tôi rất thích được đổi chỗ cho chị, nếu chị muốn ngồi bên cạnh cửa sổ...
Phải, mở đầu cho một cuộc hôn nhân chính nhờ câu nói ấy. Nhưng ngày ấy, xa xưa lắm. Liđêlôtthê cũng không giống bây giờ. Sao lúc ấy cô ta lại dịu dàng và ý tứ đến thế! Một con người thực đáng yêu, cởi mở và duyên dáng. Rồi chúng tôi lấy nhau. Tôi hy vọng hai người sẽ cùng nhau chung sức kéo gánh nặng cuộc đời. Nhưng, tiếc thay, mỗi người đã nắm một đầu dây và kéo co với nhau suốt những năm tháng dài. Cuộc đời sao buồn thay!
Tôi đứng dậy. Những ảo tưởng về hạnh phúc đã tan đi trong mơ. Hình ảnh về một người đàn bà thực đáng yêu, luôn chăm sóc đến tôi, luôn tôn trọng nhân cách của tôi đã đổ vỡ từ khi tôi lấy vợ. Tôi bước đến trước gương. Một cái mặt buồn đang nhìn tôi. Tôi nhún vai. Thế là ta lại bắt đầu cuộc sống. Ta làm lại cuộc đời.
Ngay sau đó tôi tìm đường đi đến tòa thị chính, đúng hơn là tới Phòng cảnh sát. Tôi gặp may. Karige, cán bộ phụ trách Phòng cảnh sát hình sự đang có mặt ở trong phòng. Ông ta đang nói chuyện điện thoại. Ông ta ra hiệu mời tôi ngồi.
Cách đây không lâu, Karige đã tới văn phòng tôi làm việc, đặt mua ít nhựa đường. Qua tay tôi, mọi việc giải quyết thực nhanh chóng. Chắc ông ta còn nhớ đến chuyện đó. Một hãng tư nhân làm ăn thực chóng vánh, không dề dà như cơ quan Nhà nước.
Sau khi kết thúc cuộc nói chuyện bằng điện thoại, ông ta quay sang tôi. Tôi đã chờ đợi khoảnh khắc ấy. Nhưng chẳng hiểu sao, tôi bỗng mất bình tĩnh, tim đập mạnh. Lần đầu tiên trong đời tôi phải nói với người ngoài về vợ mình, phải thổ lộ một mảng sống của đời mình.
Karige đứng dậy, bắt tay tôi, niềm nở.
– Thế nào, ông Aixensnaiđơ, ngọn gió nào đưa ông tới thăm chúng tôi thế?
Chà, ông ta hỏi như vậy, chả nhẽ mình lại đáp:
Vợ tôi bị mất tích, nghe kỳ quá. Tôi thận trọng trình bày về Liđêlôtthê, giống như nói về một chiếc xe đạp dựng ở đâu đó rồi không tìm thấy nữa.
– Vấn đề là...
Tôi ấp úng. Người trưởng phòng nhìn tôi, dò xét, khích lệ. Tôi cảm thấy như đọc được qua mắt ông những điều chưa nói ra:
Thôi đi, người công dân, anh cứ nói thẳng tuột ra đi, giấu giếm chỉ vô ích! Như một quả bóng bị xì hơi, tôi bật ra:
– Tôi đến đây chính là vì vợ tôi!
Ôi chao, vì vợ tôi, nghe tha thiết biết bao! Nhưng lẽ đời lại khác. Tôi đến là vì tôi. Tôi muốn biết cụ thể người nạn nhân kia, tôi muốn mọi sự thực rõ ràng.
Tôi thông báo với người bảo vệ chế độ là vợ tôi, Liđêlôtthê, bỗng dưng biến mất với lý do đi nghĩ phép năm rất kỳ quặc. Cho đến nay, không ai biết cô ấy hiện ở đâu, không biết cô ấy sống hay chết.
– Và mới đây... - Tôi nói tiếp - Đọc trong báo, tôi ngờ rằng...
Tôi rút tờ báo từ trong túi áo ngực đưa cho Karige.
Người phụ trách Phòng cảnh sát mở to mắt ngạc nhiên. Ông há miệng nhưng chẳng nói được lời nào. Tôi nhún vai:
– Hừm! Thế đấy... Karige nhìn tôi và lắc đầu. Có thể ông ta không có tin chuyện ấy, hoặc cũng có thể muốn chia buồn với tôi. Rồi ông nói với tôi, giọng rất dịu dàng như nói với người ốm:
– Ông Aixensnaiđơ, xin mời ông sang phòng bên này. May quá, có hai đồng chí công an điều tra đang ở đây. Họ sẽ giúp ông trong mọi việc.
Karige khẽ nắm tay tôi rồi dẫn tôi qua cánh cửa để ngỏ. Hai người công an điều tra đang ngồi trong góc phòng, bên cạnh một chiếc bàn tròn và thấp, nói đúng hơn, họ đang ngả người trên ghế bành, tay dựa vào thành ghế, chân duỗi ra phía trước. Nhìn họ, tôi có cảm giác họ đang chờ đợi lệnh, cũng có thể họ đã quá căng thẳng vì công việc, lúc này đang xả hơi và không muốn bị người khác quấy rầy.
– Ông Aixensnaiđơ đi tìm bà vợ bị mất tích – Karige giải thích.
– Ồ, còn ở gia đình chúng tôi thì ngược lại:
các bà vợ luôn coi chúng tôi là những ông chồng bị mất tích, chỉ khác là họ không ai chịu đi tìm! - Một người công an điều tra nói. Người này thấp, béo, khoảng năm mươi tuổi. Có thể mái tóc lớm chớm bạc và những vết nhăn trên trán ông đã lừa tôi về tuổi tác của ông. Ông nhếch mép cười, nhưng Karige không đồng tình. Nhưng tôi, tôi lại thấy cái cách bắt chuyện của ông ta rất thỏa mái, khiến cho người dân tiếp xúc công an đỡ phải sợ. Có thể ông ta sẽ hiểu được cảnh ngộ của tôi...
Phải thú nhận rằng tôi ít có kinh nghiệm với chính quyền, nhất là với những người bảo vệ nó. Tôi luôn luôn sống theo một quy tắc:
tôn trọng mọi đạo luật, bất kể đạo luật ấy có lợi hay có hại cho mình. Cứ chấp nhận và tuân thủ mọi quy định, miễn sao mình không bị phiền hà, không bị xâm phạm đến tự do cá nhân.
Không có gì sung sướng hơn là được sống yên bình, không bị vợ con, không bị công an, bị dân phố quấy nhiễu hoặc chất vấn. Tôi có ô tô riêng, nhưng không bao giờ phóng nhanh, vượt ẩu, không bao giờ tôi để tâm đến tài sản và tiền bạc của người khác; không bao giờ nói năng bừa bãi hoặc để lộ với người ngoài mọi ý nghĩ của mình. Sống với tôi và sống trong cái thế giới riêng của tôi. Nói một cách khác:
tôi là một công dân ngoan ngoãn, sống giản dị, một người biết lánh xa những ai bảo vệ cho luật pháp và quyền lực, dù người đó mặc thường phục hay quân phục. Cho đến nay, tôi chưa bao giờ nói chuyện với công an ngoài một vài câu chào xã giao, trừ lần giải quyết nhựa đường cho ông Karige.
Người công an điều tra ngồi bên cạnh trông quen quen. Anh ta cao, gầy, mũi khoằm khoằm, cằm nhọn, tóc chải ngược. À, phải rồi, anh chàng này ở khu nhà đối diện, bạn thân của nhân viên tài chính Hackơ! Phải cẩn thận trước người này! Anh ta biết về tôi nhiều hơn là tôi tưởng. Anh ta có thể sẽ điều tra, hỏi dò những người sống cùng nhà, biết đâu đấy, có thể anh ta quen biết cả vợ tôi. Con người này tỏ ra rất mẫn cán. Tôi bỗng liên tưởng đến một con chó săn năng nổ bám theo sát con mồi... Nhìn anh ta, tôi bỗng dưng thấy e ngại, miệng lưỡi bỗng ríu lại.
– Thế của quý của ông biến mất từ bao giờ? - Người già hơn lên tiếng hỏi.
Nghe giọng nói, tôi biết ông ta cũng không tin có chuyện gì hệ trọng. Chắc ông ta nghĩ rằng:
mọi chuyện thực đơn giản. Một người vợ bỏ chồng, chỉ vì anh ta không quan tâm đến mình, chỉ vì quyền lợi của hai người không phù hợp với nhau, hoặc ít ra, hai người đã cãi nhau, đã xô xát, và người vợ đã tức giận bỏ đi.
Tôi đặt tờ báo có bức ảnh của người chết lên bàn.
– Cách đây ba tuần, vợ tôi đi nghỉ phép, không hề nói với tôi một lời nào. Từ đó tới nay tôi không biết tin gì về cô ấy. Thời hạn nghỉ phép cũng đã hết, nhưng vợ tôi vẫn bặt vô âm tín.
Nói tới đây, tôi thấy người công an già tuổi hơn co chân lại, đôi mắt nhìn chăm chú. Còn người trẻ hơn, tôi không dám nhìn thẳng vào anh ta, nhưng tôi biết là anh ta đang soi mói nhìn tôi. Con người này tôi không tin. Anh ta là hàng xóm. Anh ta chắc biết rõ những ai ở cùng nhà với tôi. Một công an điều tra để mắt đến mọi chuyện.
– Ông Aixensnaiđơ tin rằng:
nạn nhân trong bức ảnh đăng báo là vợ mình.
Karige nói và đưa mắt nhìn tôi. Tôi nhún vai:
– Bức ảnh in quá bẩn, rất khó xem. Báo chí thực tồi tệ!
Chợt nghĩ mình vừa nói tới tờ báo của Đảng, tôi giật mình. Nói thế không có lợi. Nhỡ ra họ đánh giá mình mất lập trường... Tôi vội vàng lái câu chuyện sang hướng khác:
– Vâng... Tôi nghĩ rằng, người trong ảnh là vợ tôi.
– Ông Aixensnaiđơ, xin ông kể lại mọi chuyện cho các đồng chí của tôi nghe – Karige lên tiếng. Con người này có giọng nói thân mật, dễ chịu và thân tình, giá tôi là thủ trưởng, chắc chắn tôi sẽ đề bạt Karige làm cố vấn.
Tôi kể vắn tắt diễn biến của câu chuyện. Tôi không quên nói tới Lipsơ, đến những cuộc thăm viếng của anh ta vào các tối thứ hai.
– Nhưng... - Tôi ngập ngừng rồi nói tiếp – Anh ta thăm vợ tôi là chủ yếu!
Trời đất, thế là tôi đã thú nhận trước họ là vợ mình có quan hệ với một người đàn ông khác. Chắc chắn họ sẽ nghĩ:
a ha, người đàn ông này, một viên kế toán trưởng tài năng, được vợ cho mọc sừng! Nhưng họ đâu biết rằng:
đây là kế hoạch của tôi được thực thi, đấy là tôi tự cắm sừng cho mình để tìm đường giải thoát.
– Thưa các ông – Tôi nói tiếp - Đấy là tôi phỏng đoán thế thôi. Thực ra tôi chưa bao giờ bắt được quả tang họ.... với nhau.
– Xin ông Aixensnaiđơ cho biết thêm về quan hệ của hai người. - Người công an nhiều tuổi hơn lên tiếng, mắt nhìn tôi vẻ khích lệ.
– Vâng, tôi thấy hai người rất thân mật đối với nhau. Họ gọi nhau anh anh em em.
Người công an nhiều tuổi mỉm cười:
– Ông không biết gì hơn nữa sao? Không biết gì về Lipsơ hay sao?
Tôi lắc đầu. Lạy Chúa, nếu tôi biết mọi chuyện tội gì tôi lại đến công an và ngồi đây để họ chất vấn. Nhìn vào người công an trẻ tuổi hơn ngồi bên cạnh, tôi nói:
– Nhưng ông đây chắc chắn biết Lipsơ. Nếu tôi không lầm thì Lipsơ cũng ở trong một nhà với ông.
– Không, ông không lầm - Người trẻ tuổi chỉ đáp lại có thế, không tỏ ra ngạc nhiên hay bối rối.
– Ông Aixensnaiđơ, có thể ông biết nhiều điều mà đồng chí Hêben của chúng tôi chưa biết. Chúng tôi đang muốn biết, hiện Lipsơ ở đâu. Ông hãy giúp chúng tôi - Người nhiều tuổi hơn nói với tôi như thế.
Phải rồi, người trẻ tuổi tên là Hêben. Cái tên ấy tôi đã nghe đôi lần.
– Nhưng tại sao các ông lại đi tìm Lipsơ? – Tôi hỏi.
Hai người công an điều tra làm bộ như không nghe thấy câu tôi hỏi. Người già hơn lên tiếng:
– Ông Aixensnaiđơ, ông tin rằng người trong ảnh là vợ ông phải không?
– Không, tôi không tin! – Hêben nói chen vào - Đấy không phải vợ ông!
– Tại sao? Ông bảo sao? – Tôi bực mình đáp lại – Ông biết vợ tôi hơn tôi à?
Người công an nhiều tuổi nhìn Hêben tỏ ý không bằng lòng.
– Anh biết chị ấy chứ? Anh là hàng xóm của ông Aixensnaiđơ, đúng thế không?
– Đúng, tôi là hàng xóm – Hêben đáp – Nhưng mọi chuyện đâu phải đơn giản thế! Nhìn ảnh một người chết, nhất là lại chết đuối để nhận dạng, điều này không phải dễ.
– Nhưng tại sao anh lại bảo nạn nhân không phải vợ của ông Aixensnaiđơ?
– Chị ấy không phải người muốn từ bỏ cuộc sống! Không phải típ người dám tự tử. Vả lại, khi khám nghiệm tử thi, chúng ta không tìm thấy các chứng tích đáng nghi vấn.
– Anh Hêben này, lý thuyết của anh chưa đủ sức thuyết phục. Chiếc gậy chống còn quá gầy guộc, anh bạn ạ - Và quay sang tôi, người công an nhiều tuổi hơn hỏi lại – Có phải hai người đã cãi nhau phải không?
– Không, tuyệt nhiên không – Tôi đáp – Gần đây, hai chúng tôi sống với nhau rất hòa thuận bà thân thiết.
– Ông Aixensnaiđơ, ông không thấy có mâu thuẫn hay sao? Một mặt, ông nói Lipsơ có quan hệ với vợ ông. Lipsơ có liên quan đến việc vợ ông đã mất tích.
Mặt khác ông lại khẳng định là vợ chồng ông sống hòa thuận, thân tình, ông có cung trái tim và tâm hồn với vợ mình! Chà, chuyện này cắt nghĩa ra sao đây?
Người công an già hơn không nói tiếp. Tôi im lặng. Thế là hỏng việc. Tôi đến công an để tìm sự yên tĩnh, để lý giải một cái chết, nhưng rốt cuộc, tôi càng bị xáo động, càng bất an và lo âu.
– Nếu ông cảm thấy mình khỏe mạnh, chúng ta sẽ cùng nhau đến nhận dạng tử thi. Ông không ngại. Sau đó chúng tôi sẽ lại đưa ông về.
– Hy vọng rằng nạn nhân không phải là vợ của ông! – Karige nói và chia tay với tôi – Chúc ông gặp điều lành.
Chiếc xe cảnh sát đỗ trong sân toà thị chính. Hêben ngồi vào cầm lái. Người công an nhiều tuổi hơn và tôi ngồi phía sau. Chúng tôi vào thị trấn. Dọc đường cả ba cùng im lặng. Tôi vẫn nghĩ:
chắc xe tới nhà xác ở nghĩa trang. Nhưng Hêben đã ngoặt xe chạy qua cổng một bệnh viện.
– Vợ tôi ở trong này? – Tôi hỏi.
Người công an ngồi bên cạnh gật đầu.
– Vâng, ở trong phòng ướp xác.
Tôi rùng mình. Chỉ mới ngửi thấy mùi của bệnh viện, người tôi đã sởn cả gai gốc. Bình thường mấy ai đã nghĩ đến cái chết. Nhưng vào đây, nhìn các nhân viên mặc đồ trắng, nhìn những bệnh nhân nằm trên cáng, những gương mặt xanh nhợt, bệnh hoạn, người ta thấy cái chết ở rất gần.
Tôi được đưa vào một phòng đợi. Ở đây có một phụ nữ trẻ đang bế con ngồi cạnh hai ông lão. Họ đang nói chuyện với nhau về một ca giải phẫu, nói về sự đau đớn và chết chóc.
– Ông Aixensnaiđơ, xin mời ông! - Người công an nhiều tuổi nói với tôi.
Tôi uể oải đứng lên, theo chân người công an, bước xuống tầng hầm của bệnh viện. Ánh đèn nêông chói chang trong hành lang khu nhà xác. Nhân viên quản lý mặc áo trắng, quần trắng, đội mũ trắng. Tôi bỗng nghĩ tới một địa ngục hiện đại và sạch sẽ giữa trần gian. Đây là xứ sở của Diêm vương với những thi hài được ướp lạnh và bảo quản kỷ thuật. Còn linh hồn họ hiện ở đâu?
Người công an nhiều tuổi dìu tôi tới sát những tấm kính. Nàng Bạch Tuyết trong quan tài thủy tinh, tôi chợt nghĩ. Tất cả hiện ra trước mắt tôi y như một giấc mơ rùng rợn. Một người phụ nữ đang nằm kia, Liđêlôtthê đấy ư? Nhưng vợ tôi, người đàn bà tôi quen biết đã hơn chục năm nay, không có gương mặt ấy, một gương mặt dị dạng, xưng xẩy, da mặt không xanh như thế kia, hơn nữa, cô ấy cũng không có tóc xoăn...
– Có phải vợ ông không?
Một giọng nói dội vào tai tôi như tiếng rú, mặc dù người ta nói rất khẽ, thậm chí đã nói thầm. Tôi không biết gì nữa. Chỉ thấy trước mắt mình là cái xác chết có mái tóc xoăn tít và gương mặt dị dạng.
– Không! – Tôi đáp lại rất nhỏ rồi ánh đèn vụt tắt. Tất cả tối sầm trước mắt tôi...
Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên một chiếc giường bạt, phủ một tấm vải trắng.
– A, ông ấy tỉnh rồi – Cô y tá ngồi bên cạnh kêu lên.
Sau khi uống một vài ngụm nước cô y tá đưa cho, tôi ngồi dậy. Người công an già đến hỏi thăm về sức khỏe của tôi.
– Ông Aixensnaiđơ, ông có chắc chắn rằng nạn nhân không phải là vợ ông không? – Ông ta hỏi.
Lần đầu tiên trong đời tôi bị ngất. Và tất nhiên, tôi không muốn xem lại cái xác chết dưới âm phủ một lần nữa. Tôi sợ lắm.
– Tôi tin chắc như vậy – Tôi đáp lại yếu ớt – Vâng, hoàn toàn tin rằng người đàn bà ấy không phải vợ của tôi.
– Vậy chúng ta sẽ phải đăng báo tìm người bị mất tích!
Ba ngày trôi qua. Báo chí đăng tin về vợ tôi:
nhận dạng, chiều cao, quần áo mặc, hoàn cảnh bị mất tích và yêu cầu các cơ quan và nhân dân giúp đỡ.
Riêng tôi, tôi đã phải nghĩ phép để ở nhà, vì không sao làm nổi việc. Những con số như nhảy múa trước mắt tôi. Tôi không sao nắm bắt được chúng, cộng chúng lại theo hàng, theo cột. Một kế toán trưởng không làm chủ được con số. Và giờ đây, trước mắt tôi là gian phòng nhà tôi. Tôi ngồi đơn độc trên chiếc ghế và đọc sách. Nhưng những dòng chữ như nhòa đi trước mắt tôi. Tôi đọc và chẳng hiểu là mình đã đọc gì.
Một cuộc sống riêng mình và cho mình tôi vẫn hằng mong đợi đã đến với tôi, nhưng sao nó chán ngán đến như thế. Tôi đi đi lại lại trong căn phòng, đầu óc rối bời, người bải hoải. Cái hạnh phúc trong cô đơn không ngọt ngào như tôi hằng mơ ước. Để giết thời gian và giải thoát mình khỏi những gánh nặng đang trĩu nặng trong tâm tư, tôi lấy giấy bút ra ghi chép những sự kiện đã xảy ra trong đời tôi. Tôi bắt đầu viết nhật ký. Tôi ghi lại những ý nghĩ, những sự việc đang làm tôi khốn khổ. Viết để giải thoát, để tìm sự quên lãng. Viết để quên đi dĩ vãng, hiện tại và tương lai.
Viên thanh tra của cơ quan bảo hiểm lại đến nhà và hỏi thăm về vợ tôi. Thật quỷ quái! Tôi có biết cô ấy ở đâu! Tôi khó chịu nói với viên thanh tra rằng cô ấy mất tích. Tôi đã trình báo với công an. Mời ông ta đến đó mà hỏi tin. Viên thanh tra bực dọc bỏ đi. Trong cuộc đời này, có bao nhiêu thứ được bảo hành, bảo hiểm. Nhưng mà chính cuộc đời, có ai bảo hiểm cho nó không? Rồi một hôm, người công an điều tra đến gõ cửa. Không có anh chàng Hêben cùng đi theo.
Nhìn nét mặt đầy ưu tư của ông, tôi biết ông là một người từng trải, giàu lòng thương người khác. Ông cho biết chưa tìm thấy vợ tôi. Các cuộc điều tra của công an chưa mang lại kết quả gì khả quan. Ông ta cũng hỏi tôi cặn kẽ về mọi chuyện, nhất là về cuộc sống giữa tôi và cô ấy trong những tháng năm qua, về việc làm của Liđêlôtthê cho cơ quan bảo hiểm. Câu chuyện diễn ra rất chân tình.
Nhưng tôi không để lộ cho ông ta biết những ý nghĩ thầm kín, những ước vọng và tất nhiên, không thể nói về kế hoạch của mình.
– Nếu biết tin tức gì, xin ông báo ngay cho chúng tôi! – Ông ta nói rồi từ biệt.
Khách ra về, tôi trở lại sống với mình. Tuyệt quá, sống một mình, không bị ai quấy rầy, tha hồ yên tĩnh, tha hồ suy tưởng... Tôi lẩm bẩm tự nhủ. Tôi quanh quẩn trong căn phòng, ít khi ra khỏi nhà, trừ những khi cần thiết phải mua sắm cái ăn, cái uống. Tôi viết nhật ký hoặc đi đi lại lại trong căn phòng, hoặc ngả người trên ghế bành theo đuổi những suy nghĩ miên man. Đêm đến, tôi như người đang nằm trên tổ kiến, không sao chợp mắt được, hết ngả người sang bên này, lạ quay sang bên khác. Sao mà ngột ngạt thế? Tôi hất chăn, vùng dậy, mở toang cửa. Đêm khuya rồi, nhưng đường phố nơi tôi ở vẫn ồn ào, huyên náo.
Một chiếc xe tải rồ máy chạy qua. Tiếng cười ré của đàn bà trong đêm khuya.
Những chàng trai đã say mềm đang lảo đảo về nhà, họ thi nhau gào lên những bài ca tục tĩu. Rồi xe máy rú ga lao vút qua. Rồi lại có tiếng la hét thích thú của một đàn bà đi chơi đêm... Tôi đóng sầm cửa lại, với tay lấy thuốc ngủ. Uống một viên, không ngủ được. Uống thêm một viên nữa.
Sáng hôm sau, tỉnh dậy, đầu tôi như búa bổ, chán ngán, nhưng mà đêm đã qua. Và ngày mới đã đến, một ngày mới cũng ảm đạm, buồn chán như mọi ngày, quanh quẩn, đơn điệu, đầu óc căng thẳng và đêm đến lại dùng tới thuốc ngủ. Tủ thuốc gia đình đầy thuốc an thần và thuốc ngủ. Những năm tháng đã qua, chúng tôi sống được bên nhau là nhờ thuốc an thần và thuốc ngủ! Những thứ thuốc tuyệt diệu thay, nó giúp cho ta trấn tỉnh trước đối phương, giúp ta ngủ qua đêm khỏi phải trằn trọc bởi người nằm bên cạnh.
Từ hôm Liđêlôtthê bỏ nhà đi, trong phòng tôi khôn bao giờ thiếu rượu. Tôi muốn uống lúc nào tùy thích, không có tiếng cằn nhằn, không có lời can ngăn.
Trời càng về chiều, dòng rượu chảy vào tôi càng mạnh. Hết ly này sang ly khác, cho tới khi cạn chai và màn đêm sập xuống. Tôi ngồi thu mình trong một góc.
Một ngọn đèn hất ánh sáng mờ nhạt lên trang sách. Bốn bề im vắng và tối tăm.
Trong cái không gian ấy, tôi tưởng tượng như đang sống trong địa ngục, đang trơ trọi giữa cuộc đời và trên đời này, không có ai ngoài tôi ra. Tôi như con ốc náu mình trong lớp vỏ. Tôi sống với cái thế giới mình tưởng tượng. Chếnh choáng bởi men say, tôi hình dung ra một thế giới thực tốt đẹp, trong đó có biết bao phụ nữ đáng yêu, đáng mến, có những người đàn bà vừa xinh đẹp, vừa nết na, hết lòng chiều chuộng chồng con, hết lòng yêu thương những người đàn ông mình thờ phụng.
Tôi rót thêm rượu vang. Màu rượu đỏ như máu thiếu dưỡng khí. Mỗi một ngụm rượu chảy vào người sẽ nhuốm đỏ miệng lưỡi tôi. Đang mường tượng cái màu đỏ ấy trôi nổi trong cơ thể, tôi bỗng nghe thấy có tiếng động ở ngoài cửa.
Tôi mê chăng? Hay đó là tác động của rượu? Tôi cắn răng vào môi dưới xem mình tỉnh hay mơ. Môi thấy đau. Đúng rồi, tôi không mơ. Có tiếng lạch cạch.
Có tiếng kim loại va chạm với kim loại. Tôi dỏng tai nghe ngóng. Có ai đang tìm cách mở khóa! Kẻ trộm? Phải thận trọng. Tim tôi đập mạnh. Tôi đứng dậy bật đèn trần. Có tiếng người bấm chuông. Tôi bủn rủn cả người. Ánh sáng chói của chiếc đèn làm cho tôi lóa mắt. Tôi nhìn vào đồng hồ:
Hơn mười giờ đêm. Ai đến đây vào lúc này? Lấy hết sức bình sinh, tôi bước ra mở cửa.
Trước mặt tôi là một người đàn bà xa lạ, tay đang cầm chùm chìa khóa. Chỉ có Liđêlôtthê và tôi có chìa khóa vào phòng. Người đàn bà này ở đâu tới? Có thể chị ta quen biết vợ tôi chăng? Có thể chị ta biết tin gì về Liđêlôtthê đến đây báo tin?
– Chị muốn gì? – Tôi hỏi, giọng khó chịu - Tại sao chị lại có chìa khóa mở cửa phòng?
Người đàn bà trước mặt tôi ăn vận rất lịch sự. Trông rất quý phái và kiều diễm. Làn mi dài (chắc chắn là mi giả), lông mày kẻ, môi tô son và mái tóc màu hạt dẻ cắt ngắn rất hiện đại. Chị ta mặc chiếc váy có khoảng trống khá rộng ở nơi cổ, trông khá hấp dẫn. Rõ ràng là loại áo đắt tiền, thuộc loại hàng cao cấp.
– Tất nhiên là em muốn vào nhà, anh bạn thân mến ạ!
Người đàn bà đáp lại. Và khi đi qua chỗ tôi đứng, chị ta khẽ chạm vào người tôi. Trong mắt chị ta như thoáng chút mỉm cười. Cái dáng đi rõ đẹp. Mùi nước hoa thoang thoảng đâu đây. Ôi chao, tôi nghĩ, người đàn bà này có thể cứu vớt tôi ra khỏi cảnh cô đơn. Một cuộc phiêu lưu đang chờ đợi. Đã lâu rồi, tôi chưa hề biết đến sự âu yếm và yêu thương...
– Đêm càng khuya, khách đến thăm càng quý – Tôi nói – Xin mời chị ngồi.
Tôi đang uống rượu vang một mình. Tôi sẽ rất sung sướng, nếu được phép mời chị một ly rượu...
Những lời nói hoa văn cứ thi nhau tuôn ra khỏi miệng tôi, như thể một dòng nước bị ngăn chặn lâu ngày giờ mới được giải phóng. Những câu nói âu yếm, dịu dàng, mời mọc, săn đón được cất lên. Tôi đã đọc nhiều trong sách vở thấy chuyện những phụ nữ quý phái bỗng dưng xuất hiện trước những người anh hùng, họ lấy sắc đẹp để chinh phục những kẻ mày râu từng chiến thắng đối phương nơi chiến địa. Và họ đã chiến thắng, chẳng cần đến gươm giáo và tiếng kèn xung trận. Tôi đã từng mơ ước đến một lần được bại trận như thế... Phải chăng người đàn bà xa lạ này đang dẫn tôi vào những cuộc phiêu lưu?
– Sao anh lại gọi em bằng chị mãi như thế, anh Hubơ? Anh không muốn bắt tay em à? Hoặc ít ra... một chiếc hôn thân thiện?
Người khách ấy lên tiếng, giọng thật dịu dàng. Chị ta đến gần tôi, mùi nước hoa phảng phất, rồi bất ngờ, chị ta đặt tay lên vai tôi. Tôi để ý thấy những ngón tay được chăm chút sạch sẽ, móng tay được bôi đỏ rất kiểu cách. Trong khu nhà tôi ở, bói đâu ra được một người như vậy. Nếu như giữa thanh thiên bạch nhật tôi dạo phố với người đàn bà này, chắc dân phố sẽ trố mắt ngạt nhiên và bàn tán. Một người đẹp, kiều diễm, hợp thời trang, họ chỉ thấy trong phim hoặc trong các tạp chí giới thiệu mốt quần áo, mấy khi họ thấy được trong đời. Vậy mà, trước mắt tôi, cổ áo để ngỏ như chào mời, khêu gợi, và mùi nước hoa, mùi hương đặc biệt của phụ nữ sạch sẽ, sang trọng.
Tôi đã gặp người này ở đâu nhỉ? Một bạn học cũ thời phổ thông, một chút yêu yêu rồi xa nhau, và giờ đây...
– Anh nhớ em lắm, có phải không?
Giọng nói sao ngọt ngào, âu yếm, nghe như tiếng chim gù giục giã. Tôi mơ chăng? Hay vì tôi đã say mềm? Đâu là hiện tại, đâu là ảo giác?
– Thôi đi, anh Hubơ! Anh nói gì đi chứ! Sao anh cứ thần người ra thế? Hay anh còn giận em? Em nghĩ rằng:
chắc anh Hubơ của em cũng muốn Liđêlôtthê trở thành một người khác, có phải thế không? Còn Liđêlôtthê cũ ấy mà, chắc anh đã chán ngấy từ lâu rồi! Chính vì thế em đã đi nghỉ phép, đã hóa thân thành một phụ nữ khác và bây giờ, em về đây với anh...
Nghe thấy thế, tôi giật mình và ngạc nhiên. Tôi ngớ ra. Hình như tim tôi đã ngừng vài nhịp đập.
– Anh Hubơ, anh làm sao thế? Anh bị ốm phải không? Thế anh nằm xuống nghỉ ngởi đi, nằm xuống đi, anh yêu mến!
Những ngón tay của Liđêlôtthê vuốt nhẹ lên mặt tôi, âu yếm như lần đầu quen biết. Cô ấy lấy móng tay gãi gãi lên da đầu của tôi, nghe buồn buồn như có người vừa rắc cát lên đó. Cảm giác mơn trớn, dễ chịu râm ran khắp người tôi.
– Liđêlôtthê! Em... em!
Tôi nói. Nhưng giọng nói ấy nghe rất lạ, hình như giọng nói của một người nào khác. Từ lâu rồi, trong cuộc chiến tranh bất tận của ngày thường kéo dài mười bốn năm chung sống, tôi đã đánh mất những âm sắc nhẹ nhàng, âu yếm khi nói tên cô ấy. Mười bốn năm chiến tranh. Và giờ đây...
Một Liđêlôtthê hoàn toàn khác đang trong vòng tay tôi. Tôi ôm chặt lấy cô ấy, cuồng nhiệt, sôi nổi, chẳng khác gì một chàng trai xa tình nhân lâu ngày mới được gặp lại. Tôi đang hôn một người đàn bà khác, vừa lạ, vừa có gì thân quen, vừa vui thích, vừa ngỡ ngàng. Chính trong khoảnh khắc ấy, cái kế hoạch muốn giải thoát của tôi đã tan thành mây khói.
Tôi nói:
– Liđêlôtthê thương yêu, nhưng suốt thời gian qua em ở đâu? Sao em không báo tin gì cho anh hay?
– Em buồn cười đến chết đi được – Cô ấy đáp – Anh không nhận ra em. Em muốn trở về là một người hoàn toàn đổi mới. Một người khác đến với anh. Và đã thành công phải không anh? Anh không nhận ra em, hay anh cố tình không nhận ra em đấy? Hay là anh đã có cô nào rồi?
– Đừng nói thế, Lôtthê!
Cô ấy cười. Tiếng cười đầy hấp dẫn. Tôi lại cảm nhận được làn môi của phụ nữ lướt nhẹ trên môi tôi. Và trong thoáng lát, Liđêlôtthê đã lướt nhẹ trong căn phòng, hai tay giăng ra, như khiêu vũ, miệng khẽ hát một bài hát tươi vui. Khi lướt qua chỗ tôi, cô ấy nói:
– Đêm nay là của chúng ta. Chúng ta sẽ sống với nhau thực hạnh phúc, anh nhé. Đừng hỏi gì em nữa. Rót rượu cho em đi, anh yêu của em!
Giữa lúc đó có tiếng chuông ré lên.
Hai cánh tay đang giang ra như cánh chim của cô ấy bỗng chững lại rồi cụp xuống. Ai đến đây vào lúc này? Tôi bực tức nghĩ ngay tới Lipsơ. Hắn đến đây làm gì?
– Em về đây một mình hay còn một người khác? – Tôi nói giọng khó chịu.
– Ôi, anh Hubơ! Em chỉ có anh thôi! Đừng mở cửa anh nhé! Kệ người ta.
– Không được đâu, Liđêlôtthê – Tôi đáp – Ai cũng biết là nhà mình còn để đèn. Không mở cửa sao tiện. Người ta không để cho mình yên.
Quả vậy, người bấm chuông bên ngoài đã tỏ ra sốt ruột, bấm chuông liên tiếp.
Đã sắp nữa đêm. Một người khách không mời đã đến.
– Được rồi, ta sẽ cho họ biết tay! – Tôi cáu tiết.
– Anh Hubơ, đừng có nói với ai là em về, anh nhé. Đêm nay là đêm của chúng ta, của anh và của em.
Liđêlôtthê đứng sát vào người tôi, mắt mở to, khiến tôi nghĩ tới một đôi mắt nai rừng đang hốt hoảng và cầu cứu.
Được, tôi nghĩ, ta sẽ cho thằng cha Lipsơ ấy biết tay. Đồ khốn kiếp, ta sẽ tống khứ hắn đi ngay.
– Đừng sợ, em yêu, không ai dám xúc phạm đến em. Không ai dám quấy rầy chúng ta đâu – Tôi nói để trấn an.
Liđêlôtthê chạy nhanh vào phòng ngủ, còn tôi ra mở cửa. Tôi sẽ đuổi khách đi ngay, rồi sẽ theo cô ấy. Đêm nay, đêm hội ngộ của lứa đôi...
Cửa mở. Hêben và người công an nhiều tuổi hơn đã đợi sẵn.
– Ông Aixensnaiđơ, chúng tôi xin lỗi ông vì đến quấy rầy ông vào lúc này!
Chúng tôi đến vì vợ ông...
Người công an nhiều tuổi nói, giọng thân tình và đầy sự cảm thông. Tôi thở phào nhẹ nhõm, phấn chấn đáp:
– Thật đáng tiếc là các ông đã vất vả vì tôi. Vợ tôi đã về nhà! Các ông không phải tìm kiếm nữa. Xin chân thành cảm ơn các ông đã cất công tới đây. Cảm ơn các ông đã giúp đỡ. Nhưng bây giờ, cho phép tôi được chia tay các ông. Vợ mới về, lâu ngày gặp lại nhau, có nhiều điều tâm sự.... Xin các ông cảm thông. Chúc ngủ ngon!
Người công an nhiều tuổi gật đầu rồi nói tiếp:
– Ông Aixensnaiđơ, chúng tôi rất thông cảm với ông. Nhưng chúng tôi muốn nói chuyện với chị ấy. Vì vậy chúng tôi mới đến đây!
Sự bộc phát của cảm xúc nhiều khi thực tai hại, thậm chí còn tồi tệ hơn cả thời tiết tháng tư. Tôi bất chợt nổi nóng:
– Để đến mai không được sao? Cô ấy đi ngủ rồi!
Người công an lắc đầu:
– Không được đâu, ông Aixensnaiđơ ạ. Vì những lý do rất cấp thiết, chúng tôi phải tới đây. Xin ông cho chúng tôi vào nhà.
– Ông bảo sao cơ? Những lý do cấp thiết là thế nào?
Tôi cảm thấy có gì đang chẹn cổ họng tôi. Có lẽ cổ áo tôi quá chật. Tôi phải tựa người vào thành tường. Hai người công an đi qua trước mặt tôi, bước vào phòng. Người công an nhiều tuổi bỗng quay lại, nhìn thẳng vào mắt tôi, nói:
– Ông Aixensnaiđơ, theo kết quả điều tra của chúng tôi thì ông hoàn toàn không biết gì về hành động phạm pháp của vợ mình. Ông chăm chỉ làm việc, không để ý tới mọi chuyện. Lẽ ra, ông phải quan tâm đến vợ ông hơn nữa.
– Vâng, vâng – Tôi đáp lại rất khẽ - Tôi đồng ý là mình đã vô tâm, hoặc đúng hơn, tôi đã ít quan tâm tới cô ấy, nhưng...
Trời đất, tôi chợt nghĩ tới kế hoạch của mình. Nửa năm đã qua rồi! Thế là hết. Mọi chuyện xảy ra như dự kiến. Một cuộc đời mới... Và tôi thú nhận:
– Vâng, tôi không chăm lo tới cô ấy. Nhưng xin các ông yên tâm, tôi sẽ cố gắng khắc phục điểm yếu này. Thực tình, hai chúng tôi đã có lúc sống cạnh nhau mà không sống cùng nhau. Mỗi người mỗi ý. Nhưng chúng tôi sẽ vượt qua được tất cả. Cô ấy đã đổi khác. Cả tôi nữa...
Người công an nhiều tuổi nhìn xuống nền nhà, chân day day trên mặt thảm, tựa hồ muốn tìm các dấu tích. Sau cùng ông ta nói:
– Thật đáng tiếc cho ông, ông Aixensnaiđơ ạ!
– Không sao cả - Tôi đáp - Vợ chồng không thuận hòa, đó là lẽ thường tình.
Tôi sẽ cố để giữ gìn hạnh phúc.
– Ông phải kiên trì đấy, ông bạn ạ. Và phải dũng cảm nữa!
– Vâng, vâng! Tất nhiên là như thế - Tôi trả lời.
Thật quỷ quái! Ông ta nói cái gì thế nhỉ? Tôi đưa mắt nhìn Hêben. Là láng giềng, chắc anh ta phải nói thẳng cho tôi biết mọi chuyện. Hay anh ta có điều gì không vừa lòng với tôi? Trong công việc của tôi có chuyện gì không ổn?
Không, không ai có thể trách cứ tôi với tư cách là một kế toán trưởng... Nhìn mặt Hêben như được tạo bằng gỗ, lạnh lùng và nghiêm nghị. Anh ta im lặng suốt từ nãy tới giờ. Chỉ có đôi mắt là nhìn quay khắp phòng như tìm kiếm một vật gì. Con người này tôi không ưng chút nào. Một loại người máu lạnh. Thật tội nghiệp cho bà vợ của anh ta!
Hình như Hêben đã đoán được những ý nghĩ của tôi. Anh ta nhìn thẳng vào mặt tôi, nói khô khốc:
– Xin mời ngay vợ ông ra đây. Chúng tôi còn nhiều việc phải làm. Hơn nữa, vợ ông không phải là vụ việc duy nhất chúng tôi phải giải quyết!
Không thể chờ đợi điều gì hơn ở anh ta, nhưng tôi thấy uất ức. Đang đêm xộc đến nhà người ta và giở giọng hạch sách.
– Vợ tôi là vợ tôi chứ không phải vụ việc, anh hiểu không?
– Vâng – Anh ta đáp ngắn gọn - Với ông, người ấy là bà vợ, với chúng tôi, người ấy là vụ việc. Xin mời ông!
Tôi đưa mắt nhìn người công an già như cầu cứu. Nhưng ông ta chỉ gật đầu rồi nói:
– Ông Aixensnaiđơ, tôi cúng có yêu cầu như đồng nghiệp của tôi. Chúng tôi đã làm việc suốt ngày, không thể chờ đợi mãi được!
Vậy là, đối với họ, cô ấy là vụ việc. Giá như tôi không tìm đến cảnh sát, mọi chuyện chắc sẽ không rắc rối đến như thế. Một người vợ bỏ nhà đi rồi trở về, chuyện đó cũng thường tình.
Tôi mở cửa buồng ngủ, Liđêlôtthê đứng nép ở góc phòng, nét mặt đầy sợ hãi. Tôi khép cửa lại, tiến đến vợ tôi:
– Em... Liđêlôtthê... em yêu. Cảnh sát hình sự đến nhà ta. Họ chỉ muốn hỏi em một chút rồi đi ngay. Em cứ nói em đã sống ở đâu, em ạ. Chắc họ muốn kết thúc hồ sơ...
Tôi cầm tay vợ tôi. Nhưng cô ấy giật ra, mắt nhìn tôi trân trân. Lúc này cô ấy không còn là người đàn bà quý phái, kiều diễm nữa. Trông cô ấy như một con thỏ non, dại dột và bất lực.
– Em yêu, cứ bình tĩnh, đừng sợ! Họ sẽ chẳng làm gì em đâu. Bình tĩnh lại, em ạ. Trời đất, em làm sao thế, Liđêlôtthê?
Đột nhiên cô ấy ôm riết lấy người tôi, hôn tôi thật da diết. Tôi ngạc nhiên thấy cô ấy nức nở, nước mắt chảy đầm đìa.
– Anh Hubơ, hãy tha lỗi cho em! – Cô ấy nói.
– Ôi, Liđêlôtthê của anh... của anh... - Tôi xúc động, thấy thương cô ấy quá.
Ai biết được mấy tuần qua cô ấy phải khổ sở đến chừng nào!
Nhưng cũng thật đột ngột, cô ấy bật ra khỏi người tôi, tay giật tung mớ tóc xoăn màu hạt dẻ và quẳng mớ tóc giả xuống giường. Những ngón tay của cô ấy choãi ra sửa lạ mái tóc bị nén ở phía dưới, làm cho nó bồng lên và xõa xuống.
Một mái tóc mà tôi đã quen thuộc suốt mười bốn năm trời! Rồi cô ấy giật luôn hàng mi giả, vứt xuống đất, tay nhanh nhẹn cởi tấm áo hở cổ để mặc chiếc tạp dề. Sau cùng cô ấy cúi xuống, lấy chiếc ga trải giường để lau môi. Chiếc ga trắng trông như có vết máu.
Lúc này, trước mắt tôi là Liđêlôtthê rất quen thuộc, một người vợ đã sống cạnh tôi bao năm nay, đã làm tôi khốn khổ, thất vọng, đã khiến tôi mất ngủ bao đêm. Người vợ ấy tôi đã quyết từ bỏ trong danh dự.
Tôi như người bị đóng đinh vào tủ, đứng bất động, tay buông thõng như một lá cờ rủ và đầu óc quay cuồng trong cơn lốc.
Liđêlôtthê hất đầu ra phía sau, mắt nhìn đầy cả quyết:
– Tôi đã sống cho ra sống! Thế là đủ!
Cô ấy nói, rồi sang phòng khách, không một thoáng do dự. Cô ấy không nói gì với hai người đàn ông, không cả một lời chào, mắt nhìn họ khinh thị.
Tôi vẫn đang ngỡ ngàng trước sự biến dạng đột ngột của cô ấy. Tôi có cảm giác như mình vừa chứng kiến một diễn viên đại tài trên sân khấu và giờ đây gặp người ấy ở ngoài đường, vứt bỏ mọi trang phục, mất hết mọi phấn son và ánh sáng kỹ thuật, đến nỗi khách đi đường cũng không nhận ra người diễn viên mình vẫn hằng hâm mộ.
– Bà Aixensnaiđơ, xin mời bà hãy cùng đi với chúng tôi - Người công an nhiều tuổi nói, tay ông ta xoa lên chiếc cằm - Trời hơi lạnh, xin bà hãy khoác thêm áo ấm lên người.
Tôi như người bị dội nước đá lạnh. Tôi trừng trừng nhìn mọi người, miệng há ra, nhưng không thốt nổi một lời nào.
– Có chuyện gì vậy hả các ông? – Liđêlôtthê cất tiếng hỏi. Giọng nói lúc này rất tự tin, có đôi chút kẻ cả.
Người công an nhiều tuổi nói với Liđêlôtthê rất bình tĩnh, thân mật. Ông cho biết cô ấy đã cá những hành động phạm pháp, biển thủ và lạm dụng công quỹ của cơ quan bưu điện và cơ quan bảo hiểm, yêu cầu trao ngay các chứng từ, hóa đơn thanh toán và sổ sách. Ngoài ra Liđêlôtthê còn liên quan đến vụ án Lipsơ.
– Ông nói gì mà lạ thế, Lipsơ nào? Tôi không phải vợ của anh ta, không phải vú em của anh ta, sao tôi lại liên quan?
– Vâng, đúng thế - Tôi nói và bênh vực cho cô ấy - Vợ tôi không dính dáng gì với anh ta, mong các ông hiểu cho.
– Thôi đủ rồi! – Hêben nói chen vào - Tưởng dắt mũi chúng tôi được hay sao?
Hêben nói ai thế? Nói tôi hay nói với cô ấy? Anh ta đưa mắt nhìn giá sách, nét mặt khó đăm đăm. Có lẽ anh ta đang cố kiềm chế mình để khỏi bật ra những câu nói bất nhã. Chà, con người này có thể đập phá đây. Cũng may pháp luật và quy chế của ngành đã trói buộc anh ta. Người công an nhiều tuổi vẫn điềm đạm, ông nói:
– Bà Aixensnaiđơ, chúng tôi không muốn nghe những lời nói dối. Không phải vô cớ mà chúng tôi đến đây. Xin mời bà đi cho.
– Thế hả? Vậy cái cớ của các ông để đâu? Các ông đến đây vì duyên cớ gì nào? Tôi muốn biết lý do!
Ôi, cái cách ăn nói của cô ấy! Mười bốn năm trời qua cô ấy vẫn ăn nói với tôi như thế đấy. Các ông công an, các ông đã biết thế nào là sư tử mặc váy chưa?
– Chúng tôi muốn được nói chuyện riêng với bà - Người công an nhiều tuổi vẫn trầm tĩnh đáp lại – Chúng tôi nghĩ là ông nhà không biết gì về chuyện này.
– Cứ để cho chồng tôi cùng nghe, chẳng có gì phải giấu giếm hết cả. Các ông biết điều gì cho ông ấy biết với! Chẳng lẽ vì vài đồng bạc... Biết đâu, ông ấy đã có lúc mưu đồ những chuyện đó...
– Ô, Liđêlôtthê! Sao cô ác miệng thế! – Tôi nói, giọng run run.
– Anh Hubơ, cứ yên tâm, đừng sợ bị liên lụy! Thật lạ lùng, mấy tháng vừa qua bỗng dưng anh rất thích những chuyện hình sự và báo chí tường thuật các vụ án. Chẳng phải anh đã nói...
– Cô im đi!
Tôi quát lên. Cổ tôi bỗng nghẹn lại. Tôi đưa tay áp lên ngực, cố trấn tĩnh.
Thật bất ngờ và cũng thật may mắn, anh chàng Hêben đã khai hỏa:
– Bà Aixensnaiđơ! Xin bà đừng có đóng kịch nữa! Chúng tôi biết rất rõ:
bà đã bỏ chồng và đã đi với ông Lipsơ trong suốt thời gian qua. Xin mời bà đi cho, không nói lôi thôi nữa.
Nhưng Liđêlôtthê không tỏ ra vội vã mà vặc lại:
– Ông nói hay đấy nhỉ! Anh bảo tôi sống với ông Lipsơ phải không? Sống ở đâu, anh hãy tiết lộ cho tôi biết. Hơn nữa, một người đàn bà sống với một người đàn ông, chuyện đó thì có gì phạm pháp? Anh không sống với đàn bà hay sao?
Ôi chao, Liđêlôtthê, cô đã tồi tệ như thế đấy. Bỏ chồng đi theo trai, thế mà còn gân cổ ra mà cãi lại công an.
– Anh hãy nói cho tôi biết:
ông Lipsơ phạm tội gì mà lúc nào cũng nói đến Lipsơ? – Cô ấy hỏi.
– Về nguyên tắc, chúng tôi mới là người được chất vấn! Xin bà nhớ điều đó!
– Hêben đáp.
– Nghĩa là các ông đến bắt tôi và hỏi cung? Bắt tôi chỉ vì vài đồng bạc tôi tiêu mất chứ gì? Có bao kẻ ăn cắp đang nhởn nhơ ra đấy, sao các ông không bắt? Còn nếu các ông đến đây để hoàn tất hồ sơ về việc tôi mất tích, chúng ta có thể làm việc luôn tại đây. Mọi việc khác sẽ gác lại đến mai. Tôi không chạy trốn đâu mà sợ. Về nguyên tắc, trong ngành công an của các ông, không ai cấm người dân được hỏi lại. Ái chà chà, anh bạn láng giềng! Tôi biết anh từ lúc anh còn ngoáy ngón tay vào lỗ mũi kia đấy! Đừng có ra vẻ ta đây là công an. Muốn bắt tôi à? Thế lệnh bắt người của các anh để đâu?
Hêben im lặng. Mắt anh ta như nảy lửa. Tệ quá, Liđêlôtthê chả thèm kiêng nể ai. Với người đại diện cho pháp luật, cô ấy cũng bốp chát, bỗ bã, tệ đến thế là cùng. Người công an nhiều tuổi vẫn bình thản. Ông nói rất trầm tĩnh:
– Chúng tôi rất hiểu hoàn cảnh của bà. Chỉ mong bà hiểu rằng:
chúng tôi cũng là người, cũng muốn về với gia đình con cái, cũng muốn đi ngủ lúc đêm khuya...
– Tôi có giữ ông đâu! – Cô ấy nói cắt ngang – Tôi cũng muốn nằm xuống giường, phải không anh Hubơ? Tôi sẽ chỉ cho ông ra cửa, nếu như các ông quên!
– Được rồi, bà Aixensnaiđơ ạ! - Người công an nhiều tuổi nói – Cũng có lúc sợi dây thừng bền chặt nhất không chịu nổi sức nặng. Chúng tôi đã cố gắng cư xử tốt với bà. Nhưng người ta đáp lại như thế nào? Bây giờ, xin bà hãy lắng nghe! Chỉ riêng những hành động phạm pháp của bà cũng đã đủ khiến bà nói chuyện với chúng tôi khiêm tốn hơn - Giọng ông ta lúc này thật nghiêm khắc – Thôi được. Chúng ta tạm gác lại chuyện đó mà nói về Lipsơ. Tôi buộc lòng phải nói với bà những điều bà chẳng thích thú gì, nhất là khi có mặt người chồng bà ở đây. Chúng tôi muốn tránh cho ông nhà phải nghe những chuyện đó. Thật đáng tiếc. Bà buộc chúng tôi phải nói thẳng ra đây. Mời bà nghe! Một là:
Lipsơ đã tằng tịu với rất nhiều phụ nữ. Y luôn hứa với họ rằng y sẽ cưới họ. Nhưng thực chất, y tìm cách chiếm lấy lòng tin của những người nhẹ dạ để moi tiền rồi bỏ cuộc!
Ô la la, thằng cha thực khốn nạn, tôi nghĩ thầm. Miệng thì hôn, còn tay thì móc túi. Liđêlôtthê chăm chú nghe. Miệng cô ấy hơi mở ra. Chắc chắn đó là điều mới mẻ mà cô ấy chưa biết.
– Hai là - Người công an nói tiếp - Hiện nay, bà vợ của Lipsơ đã nhiều lần phát đơn kiện Lipsơ về tội vô trách nhiệm, không chi tiền nuôi con cái. Tòa đang xét xử vụ kiện này.
Hô hô! Một chàng trai chưa vợ! Ăn mặc thực bảnh bao, nói năng như tài tử điện ảnh, khối cô khối bà ăn phải bả trai tơ. Dại lắm, cho nó chết!
Đôi mắt của Liđêlôtthê mở to, miệng há hốc vì kinh ngạc. Chắc trong những lúc ngồi xem phim với nhau, anh chàng Lipsơ không nói đến chuyện này.
– Ba là:
tuần vừa rồi, bà đã sống với Lipsơ ở Buêmen, ở cạnh hồ Lipô!
– Ôi, Liđêlôtthê! – Tôi kêu lên – Có đúng thế không em? Nói đi, nói đi, nói là không phải chuyện như thế. Có lẽ công an nhầm với một người khác...
Nhưng cô ấy vẫn đứng yên, đàu cúi xuống, mặt tái xanh và mắt tránh nhìn tôi. Trời đất. Tim tôi đập thình thịch. Lạy Chúa! Tất cả những gì tôi muốn cho cô ấy sẽ phạm phải đều đã thành sự thật. Tôi muốn cô ấy đi theo trai, cô ấy đã đi theo trai; tôi muốn cô ấy sẽ biển thủ, cô ấy đã biển thủ. Thậm chí, cô ấy còn đi xa hơn những điều tôi đã tưởng tượng.
Có lẽ Liđêlôtthê đang đấu tranh bản thân, nói theo kiểu hiện đại. Cô ấy trân trân nhìn bức tường trên đó chẳng có gì ngoài một bức tranh vẽ phong cảnh:
một đồng cỏ có con suối chảy qua, phía sau là cảnh rừng trải dài mãi tới chân một ngọn núi. Ngày mới lấy nhau, Liđêlôtthê đã tặng tôi bức tranh này nhân dịp tôi sinh nhật. Tôi không để ý lắm đến nó, nhưng hôm nay, dõi theo ánh mắt của cô ấy, tôi bỗng thấy bức tranh kia tàng ẩn những ý nghĩa sâu xa. Có lẽ tôi đã sống chật hẹp, thiếu mất cả khoảng trời cao rộng, thiếu sự phóng khoáng của đồng nội và núi rừng, thiếu một tầm nhìn xa và độ lượng... Có lẽ thế. Tôi chỉ chăm chăm vào giá sách, không vươn tới đỉnh núi để thấy được sự bao la, để có được một tấm lòng rộng mở.
Còn Liđêlôtthê đang nhìn bức tranh như muốn mang theo nó vào ký ức. Có lẽ còn lâu lắm cô mới lại thấy được núi rừng và động nội, nếu như... Tôi không dám nghĩ tới nữa. Có chút gì buồn phảng phất trên gương mặt Liđêlôtthê. Đôi mắt nhìn thật xa xăm, có thể sắp ứa lệ. Nhưng đột nhiên, cô ấy quay phắt lại, nhìn thẳng vào người công an già, mắt ánh lên, quả quyết:
– Tôi đã sống ba tuần lễ cho ra sống. Mười bốn năm đã qua, tôi chưa bao giờ sống như thế. Tôi muốn đổi đời, muốn thoát khỏi cảnh tù túng và đơn điệu.
Hubơ, chắc anh cũng thừa hiểu rằng chúng ta chán nhau. Phải, em đã quyết chí từ bỏ anh. Ngày mai em sẽ về Buêmen. Lipsơ đang đợi em ở đó. Em định trở về để mang theo tiền bạc và tư trang. Ai sống chả cần tiền. Cũng có thể sẽ lấy séc của anh. Em biết, anh có tài khoản, nhưng chưa bao giờ rút tiền. Cả năm không sử dụng tới nó. Tiền để tiêu chứ không phải để cất đi. Anh Lipsơ cũng sống theo cách đó. Vâng, thưa các ông, Lipsơ và tôi đã sống với nhau những ngày thật tuyệt trần, sống trong xa hoa và đài các, sống như các vương giả. Dĩ nhiên tôi biết rằng khoảng sống ấy ngắn ngủi, không bền vững. Nhưng tôi đã sống ba tuần lễ vàng son, sống ra sống. Ngay cả khi Lipsơ đã có vợ, hoặc như các ông ở đây nói, anh ta đã phạm pháp, nhưng với tôi, Lipsơ là thiên thần trong một khoảng sống ngắn ngủi của đời tôi. Điều đó không thay đổi. Anh Hubơ, anh đã mang Lipsơ đến cho em. Em đã hiểu ra thế nào là cuộc sống đơn điệu, nhàm chán và tẻ ngắt ở bên anh bao năm nay...
– Trời đất ơi, cô tệ bạc với tôi quá thể! – Tôi kêu lên.
– Còn bây giờ, cái gì chờ đợi tôi? – Liđêlôtthê nói tiếp, không do dự - Lại những ngày dài buồn tẻ, chán ngán như trước đây. Mà không, nếu các ông công an không đến quấy rầy, tôi không biết sự thể sẽ ra sao. Hubơ đón tiếp tôi thật cuồng nhiệt, thật âu yếm, hoàn toàn khác với Hubơ băng giá sống với tôi trước đây. Có lẽ tôi đã ngất đi trong tay Hubơ và quên mất Lipsơ đợi tôi...
– Lipsơ! Lipsơ! Cô xéo đi với cái thằng Lipsơ của cô! – Tôi uất ức quát to – Đi đi, đi ngay cho khuất mắt tôi!
– Nhưng các ông công an đây ngăn cản, tôi đi làm sao được!
– Không, chúng tôi không ngăn bà - Người công an già đáp lại - Ngược lại, chúng tôi còn đưa bà tới đó. Chỉ có điều, bà hãy chuẩn bị ở lại đó một thời gian.
– Điều đó không thể thực hiện được – Cô ấy đáp.
– Chúng tôi giúp bà được toại nguyện. Cac Lipsơ không ở Buêmen nữa. Hiện anh ta đang ở chỗ chúng tôi. Bà sẽ phải khai báo về anh ta.
– Không bao giờ! – Cô ấy thốt lên rất cương quyết – Các ông không thể bắt buộc tôi phải phản bội một người đã sống với tôi ba tuần lễ!
– Thế còn tôi? Cô sống với tôi hơn chục năm, sao cô phản bội tôi?
Liđêlôtthê nhìn tôi và nhếch mép cười rất lạ:
– Tôi cũng không biết nữa, anh bạn thân mến ạ. Không biết có phải tôi đã sống với anh hay là sống với tôi!
Liđêlôtthê lúc này rất tự chủ, hoặc cũng có thể, cô ấy loạn thần kinh. Hay tôi nhầm. Lipsơ đã biến đổi cô ấy, đã trói buộc cô ấy vào tâm hồn sa đọa và quỷ quái của hắn. Cô ấy chấp nhận hắn như một vị cứu tinh. Còn tôi? Hình như chợt nảy ra một ý nghĩ nào đó, Liđêlôtthê quay lại hỏi người công an nhiều tuổi hơn:
– Do đâu mà các ông lại để mắt tới Lipsơ? Ở biên giới, người ta không ghi chép, hơn nữa, chúng tôi cũng không hề khai báo. Sao các ông lại biết là tôi đã về đây? Các ông theo dõi ngôi nhà này suốt ngày tháng phải không?
– Chúng tôi theo dõi ai, người đó đều có tên trong danh sách và được thông báo tới mọi nơi, nhất là khi anh ta định vượt biên.
– Thảo nào, khi chúng tôi tới địa phận biên giới, người ta chất vấn tôi đủ thứ.
Nào là đi nghỉ sao không mang hành lý. Nào là chị người cùng nào, định đi đâu.
Và người ta xem chứng minh của tôi tới ba lần bảy lượt. Chà, đường dây của các ông...
– Một đường dây khác cho biết tin:
hôm nay, công an đã bắt Cac Lipsơ trong lúc anh ta đang chuẩn bị vượt biên. Y đã dùng một chiếc xe tải, hai khẩu súng, định lao qua biên giới Tiệp Khắc để sang Áo. Nghĩa là, nếu bà có đên Buêmen, cũng không gặp Lipsơ. Y đã từ bỏ bà để chạy trốn một mình.
Chà chà, thằng đểu, tôi nghĩ, đánh lừa cả cô ấy, xui cho cô ấy về moi tiền của tôi, còn mình thì tút, tút.
Liđêlôtthê như người sắp quỵ xuống. Cô ấy đưa tay lên lau trán, miệng nói không thành tiếng:
– Ta đi thôi!
– Bà mặc thêm áo khoác vào cho đỡ lạnh - Người công an già nói.
– Vâng, cám ơn – Cô ấy nói rất khẽ.
Khi đi qua trước mặt tôi, cô ấy dừng lại:
– Vĩnh biệt anh Hubơ – Cô ấy nói rất khẽ, rồi nhắc lại – Anh Hubơ của em!
Tôi ngẩng đầu lên. Chúng tôi nhìn vào mắt nhau. Cô ấy khóc. Cổ tôi bỗng nghèn nghẹn. Liđêlôtthê đã ra tới cửa. Tôi gọi theo, giọng yếu ớt:
– Liđêlôtthê, em, ơi! Em...
Nhưng cô ấy ra đi, không ngoảnh lại. Cô ấy đã từ giã căn phòng, từ giã ngôi nhà này, từ giã tôi.
Tôi nghe tiếng chân người xuống hành lang, rồi xa dần, nghe thấy tiếng ô tô rồ máy, rồi tất cả lại trở lại yên tĩnh.
Căn phòng lúc này trông mới trống trải làm sao! Ôi, cuộc đời nghiệt ngã!
Tim tôi như thắt lại. Hết rồi. Những trang viết cuối cùng đang để ngỏ. Hết rồi.
Tội ác và trừng phạt. Mỗi người đều trả giá cho đời mình, cho lỗi lầm của mình.
Chai rượu vang uống dở vẫn còn đó. Lúc đầu chỉ mó mình tôi uống, rồi cạn chén với Liđêlôtthê khi cô ấy trở về, và bây giờ lại chỉ còn mình tôi với ly rượu.
Tôi uống hết ly này sang ly khác, chỉ uống mà không hề cảm nhận, uống để quên lãng, để ru mình vào mênh mông vô tận. Tôi bỗng nhớ tới người đàn bà trên báo. Vì sao mà người ấy đã lao mình xuống sóng nước mênh mông? Nghe kìa! Hình như có tiếng ai đang gọi. Không phải gọi tôi. Tất cả lại chìm vào thanh vắng. Tôi sẽ dùng thuốc ngủ để tìm sự yên tĩnh. Ngủ yên, ngủ say yên tĩnh và mênh mông. Trước mắt tôi là vực thẳm...
Một hồi lâu, cả hai chúng tôi cùng im lặng. Giông tố đã kéo đến và lúc này đã nghe tiếng sấm rền. Trời nổi gió, rèm cửa bay phần phật. Nhưng không khí trong phòng vẫn ngột ngạt, oi bức, khiến người vã mồ hôi. Tôi đưa tay xoa mặt, cảm thấy mình lúc này như con cá cố nhoi lên tớp không khí. Ở trên kia, tác giả của những trang nhật ký đã vĩnh viễn ngủ yên, không còn biết đến sấm chớp hay bão giông... Sau khi uống cạn ly cônhắc để trấn tĩnh, tôi nói với Hêben:
– Vậy là, Aixensnaiđơ đã chết trong thất vọng, đã tự giải thoát cho đời mình bằng giấc ngủ ngàn năm.
– Chuyện này chỉ có hai chúng ta biết thôi – Hêben nói – Chúng ta không công bố những trang nhật ký này.
– Tôi biết chứ! Người vợ sẽ bị kết án và ngồi tù, còn người chồng xuống mộ.
Một cái chết bi thảm của một người đàn ông bị lừa dối, bị sỉ nhục, bị cướp đoạt mất danh dự và tiền của. Người chồng ấy không còn lối thoát nào khác là tự kết liễu đời mình. Ngay cả khi ông ta muốn sống, nhưng rượu và liều lượng thuốc ngủ quá cao đã tác động, khiến ông ta ngủ say không bao giờ dậy nữa. Đôi khi, trong những hoàn cảnh nhất định, con người bỗng thèm khát một giấc ngủ triền miên để quên đi đời thực, nhất là khi con người đánh mất mình và những gì đã gắn bó với mình. Nhưng dù sao, người đàn ông này sẽ có một đám tang rất đông. Những người tò mò sẽ tề tựu để xem con người đã chết vì một người phụ nữ. Một người chồng tội nghiệp. Amen!
Hêben nhìn tôi kinh ngạc.
– Ồ, anh bạn, rượu đã làm cho anh buồn lây và bắt đầu triết lý về cuộc đời.
Rượu làm hại anh rồi.
– Đúng, đúng thế đấy! – Tôi đáp – Vì rượu làm hại tôi, tôi phải xử tội nó, phải uống cho cạn chai để rượu không làm hại được ai nữa!
Và tôi rót tiếp một ly cônhắc nữa.
– Chuyện dã xảy ra rồi – Hêben nói – Chúng ta không thể công khai biện hộ cho người vợ hoặc khép tội cho người chồng. Ông ta đã chết. Ngày mai dân chúng sẽ bàn tán xôn xao. Người vợ sẽ ngồi tù vì hành động phạm pháp, mặc dù người chồng chính là kẻ chủ mưu về phương diện tinh thần. Anh còn muốn gì hơn.
Tôi đến gần cửa sổ và chăm chăm nhìn vào màn đêm. Trong các ngôi nhà dọc theo triền núi còn thấp thoáng ánh đèn. Và xa xa, ngọn núi Kribec có ánh chớp rồi tiếp đến là tiếng sấm ì ầm.
Vâng, tôi còn muốn gì hơn? Con người bị kết tội theo hành động mình phạm pháp, không ai nghĩ đến những xung lực nho nhỏ, những yếu tố tác động đến tinh thần đã từ từ dẫn đến một hành động. Phần đông người ta không biết được những yếu tố như thế, hoặc chỉ biết rất ít. Người ta chỉ nhìn thấy hiện tượng.
Còn phía sau, những cơn sóng ngầm trong cuộc sống lứa đôi cũng như trong đời sống chính trị, đã mấy ai biết đến!
Đột nhiên tôi cười lớn. Tiếng cười nghe như của người khác. Tôi lắc đầu và nói với Hêben:
– Chà chà, nếu viết nhật ký để bào chữa cho mình và khép tội người vợ, người kế toán trưởng đã có một kết quả ngược lại!
– Đúng thế! Thực ra, tập nhật ký này có lợi cho bà Aixensnaiđơ!
– Nhưng không ai sẽ biết đến chuyện đó.
Tôi đi tới bên bàn, nhìn vào mắt Hêben:
– Anh biết không, tôi nghĩ rằng:
Aixensnaiđơ rất yêu vợ. Đấy là nguyên nhân chính. Những trang viết chính là sự thú nhận rất nghiêm khắc. Ông ta viết không phải là để bênh vực cho mình, và viết để bào chữa cho vợ!
Hêben khẽ nhún vai:
– Tôi chưa thể đồng ý với anh. Một người chồng yêu vợ thực lòng, người chồng ấy sẽ không để chuyện xảy ra như thế! Ông Aixensnaiđơ có mặc cảm là mình kém giá trị trong cuộc sống riêng tư, còn người vợ đối xử với ông ta vẫn bình thường.
– Không, không bình thường – Tôi cãi lại – Nếu bà ấy thực sự yêu chồng, tại sao bà ấy không tôn trọng ông ta như đối với người khác?
– Vì sao ư? Vì người chồng chẳng xa lạ gì đối với vợ của mình. Bà ta biết ông ấy từ chân tơ kẻ tóc và hiển nhiên, bà ta cảm thấy chồng mình không xứng đáng được tôn trọng. Trong đời sống vợ chồng, với tháng năm, nhiều cái bị bào mòn bởi thói quen. Anh còn là trai tơ, anh làm sao hiểu được những mạch ngầm tàn phá âm ỉ hạnh phúc của lứa đôi!
– Ô hô, đừng có hợm mình đấy, anh bạn ạ. Cậy ta đây đã có vợ chứ gì! Tôi vẫn nghĩ rằng:
đã lấy nhau thì người vợ phải tôn trọng chồng mình hơn cả những người đàn ông khác, và ngược lại. Tình yêu không chỉ thu hẹp trong chiếc giường của hai người. Ở đâu không còn sự tôn trọng lẫn nhau, không còn sự lịch thiệp và lễ độ với nhau. ở đó cũng không có tình yêu chân chính, đúng không nào?
– Chuyên gia về ái tình vừa phát ngôn, a ha! – Hêben nói, giọng giễu cợt – Nhưng giữa lý luận và thực tế đôi khi có những hố ngăn cách, con người chưa thể vượt qua được.
– Tôi biết chứ. Nhiều cặp vợ chồng tử tể hẳn hoi, thông minh hẳn hoi, có danh giá hẳn hoi, nhưng đổ vỡ vì những chuyện lặt vặt và vô nghĩa. Vì sao? Vì cả hai không có năng lực từ bỏ thế giới riêng của mình, không đủ can đảm để cắt bỏ sự ích kỷ và thực hiện một bước đi quan trọng là xích lại gần nhau.
– Một bước đi quan trọng? Anh bảo đó là cái gì?
– Đó là sự độ lượng! – Tôi đáp - Phải, chính thế. Phải độ lượng đối với nhau!
– Chà chà, toàn lời hay ý đẹp! Hêben nói và cầm trên tay ly rượu đã uống cạn – Nếu tôi hiểu không sai thì chính anh đang tìm cách bên vực cho ông chồng quá cố, vậy mà trước đó anh lại căm phẫn người chồng này.
– Phải đó – Tôi nói – Anh có lý. Trong tôi đang có những mâu thuẫn. Một mặt, tôi có thể thông cảm với ông Aixensnaiđơ, nhưng đồng thời tôi cũng lên án ông ta. Cả với bà Aixensnaiđơ cũng vậy. Có những vụ án mà quan tòa hiểu được mô típ, nhưng vẫn phải kết tội những hành động phạm pháp. Vừa rồi tôi phẫn nộ, vì không muốn để một người vợ phải gánh chịu tất cả mọi tiếng xấu.
Bởi vì, nếu người ta được biết đên sự thật...
– Nhưng cái gì là sự thật? – Hêben ngắt lời tôi – Chúng ta chỉ biết những điều người chết đã viết ra. Viết theo những suy nghĩ của ông ta, nghĩa là theo chủ quan cá nhân. Ngay cả khi những điều ấy đúng đi nữa, tôi không nghi ngờ gì chuyện này, thì bản thân người viết đã vô tình để lộ sự đê tiện của chính mình. Không thấy một dòng nào tốt đẹp về người vợ đã chung sống với mình hơn một chục năm trời! Tất cả chỉ là khốn khổ vì nợ, tất cả đều là do người vợ!
Chả lẽ một con người tốt đẹp lại bất hạnh bởi một người phụ nữ? Vậy thì sự tốt đẹp ấy là hàng thật hay hàng giả? Ông ta âm mưu đẩy vợ đi, rồi lại kêu than vì mất vợ. Hoàn toàn là cách suy nghĩ nặng đầu óc tư hữu, coi người vợ là một vật thuộc sở hữu cá nhân. Một con người như Aixensnaiđơ chỉ biết sống cho mình và vì mình. Không có bạn bè. Không giao thiệp với ai ngoài xã hội. Con người ấy không thể mang lại hạnh phúc cho một người phụ nữ. Dĩ nhiên, tôi không bênh vực những hành động phạm pháp của bà ta... Aixensnaiđơ nghĩ rằng mình là người hiểu văn chương. Nhưng ông ta đâu có hiểu, nếu hiểu, chắc chắn ông ta đã thành một người khác, một thành viên hữu ích cho xã hội.
Tôi im lặng nghe Hêben nói, giọng phấn khích.
– Còn bây giờ anh dự định làm gì? – Tôi hỏi.
– Tốt nhất là tôi để cho các đồng chí của tôi được ngủ yên – Hêben đáp và cầm lên tay tập nhật ký của con người đã chết – Tôi cũng muốn đi ngủ.
Aixensnaiđơ không thể bỏ chạy đi đâu nữa.
– Nhưng...?
– Nhưng không được, anh bạn ạ - Hêben đáp – Tôi phải đi ngay đây. Chúc anh ngủ ngon!
Nói xong anh ấy chia tay tôi.
Trời giông tố. Trên kia là cái xác. Làm sao tôi có thể ngủ ngon được kia chứ? Vả lại, thuốc ngủ tôi chẳng có một viên nào. Chỉ còn rượu. Làm thêm vài ngụm nữa cho ấm bụng. Tôi lên giường. Trên kia là cái xác. Trời sấm chớp đùng đùng. Aixensnaiđơ đã ngủ say mãi mãi, khiến những người còn sống phải vất vả, khiến Hêben phải ra đi trong bão giông.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, đầu óc tôi ong ong. Trời xanh trong. Một ngày mới tươi đẹp đã đến. Tôi mở toang cửa sổ đón không khí trong lành. Sau khi uống cà phê và ăn sáng, tôi lên đường tìm đến hãng Vêtthe. Hôm nay trời đẹp quá. Mặt trời đã chiếu sáng khắp phố phường. Những gương mặt tươi cười. Những con người đáng yêu đang hối hả tới công trường, nhà máy. Vậy mà... Tại sao vẫn có kẻ ngao ngán cuộc đời này và vứt bỏ nó đi?
Hãng Vêtthe là một hãng tư nhân chuyên tu sửa đường sá và các công trình công cộng khác. Đơn đặt hàng bay đến như bướm bướm. Một hãng làm ăn tốt, kinh doanh giỏi và tất nhiên sinh lợi nhiều.
Vừa thoáng nhìn thấy tôi, chủ hãng đang rảo bước qua sân bỗng dừng lại, ông ta niềm nở chào đón tôi.
– A, xin chào ông Hackơ - Người chủ hãng lên tiếng – Ông đến chơi hay là có công việc?
Chúng tôi bắt tay nhau như thường lệ.
– Chào ông! Tôi đến vì công việc.
– Ô, thật đáng tiếc, ông Aixensnaiđơ, kế toán trưởng của tôi lại đi vắng. Giá như có ông ấy ở đây thì tốt hơn. Aixensnaiđơ am hiểu mọi việc, có thể trả lời ông mọi câu hỏi chính xác và đầy đủ. Một chuyên gia trong lĩnh vực con số.
– Ông Aixensnaiđơ không đến làm việc với ông nữa!
Tôi nói với chủ hãng và nói rõ cả lý do. Vêtthe (tên chủ hãng) trố mắt vì kinh ngạc.
– Ôi, Chúa ơi! Chuyện gì đã xảy ra thế này? – Vêtthe kêu lên, buông rơi chiếc thước tính vẫn đang cầm trong tay. Nhưng chỉ thoáng sau ông ta đã trấn tĩnh và hỏi tôi:
– Ông Hackơ, tôi hy vọng rằng cái chết của ông Aixensnaiđơ không liên quan gì đến hãng của tôi, có phải thế không ông? Hay ông cho rằng hãng tôi có điều gì khuất tất? Báo cáo sai hoặc trốn thuế Nhà nước? Ông Aixensnaiđơ đã quá cố. Nhưng theo tôi đánh giá, ông ấy là một kế toán trưởng giỏi, làm việc chính xác, không có gì đáng chê trách. Còn chuyện ông ấy bị vợ cho mọc sừng, đấy là việc cá nhân. Một người vợ ăn chơi, đã lấy nhẵn tiền tiết kiệm của chồng để xả láng với bồ bịch, điều đó khiến cho kế toán trưởng của tôi khốn khổ, không thể chịu đựng được.
– Ô, ông Vêtthe, do đâu mà ông biết những chuyện ấy?
– Bí mật nghề nghiệp, ông bạn ạ - Người chủ hãng đáp lại.
Tôi mỉm cười. Dĩ nhiên ở cái xứ sở này chẳng có gì bí mật hết. Chỗ này một câu, chỗ kia một lời, tai vách mạch rừng, chuyện vợ chồng bỗng thành chuyện công khai ngoài đường phố.
– Ông Hackơ - Chủ hãng nói – Xin ông hãy vì tôi mà kiểm tra kỹ càng. Tôi không muốn có bóng đen phủ lên hãng của tôi.
Vêtthe nói nghe rõ thực khẩn nài. Làm như hãng Vêtthe trong sáng lắm, không có gì phải bàn, mọi chuyện đều minh bạch, rõ ràng như ban ngày. Nhưng đằng sau cái biển Vêtthe kia, ai biết hết được những gì đang được giấu kín một cách khôn ngoan. Có những tin tức đã đến tai chúng tôi...
Chủ hãng vẫn tiếp tục nói về Aixensnaiđơ, như thể đọc điếu văn cho con người đã chết.
– Ông Hackơ này, tôi nói riêng với ông. Thực tế là ông Aixensnaiđơ của chúng tôi cũng không phải hoàn toàn trong sáng. Không phải trong đời tư, mà cả trong công việc. Mỗi khi nhận được chỉ tiêu cấp trên giao, ông ấy thường bực bội, chỉ muốn hạ chỉ tiêu thấp hơn. Dĩ nhiên là có chuyện tranh cãi với các ông.
Nhưng kế hoạch ông Aixensnaiđơ vạch ra, theo tôi, có cơ sở. Nó được dựa trên thực tế sản xuất của hãng chúng tôi, chính xác và khoa học. Ông Aixensnaiđơ là một chuyên gia về việc lập kế hoạch...
Tôi gật đầu. Một chuyên gia về kế hoạch! Tôi bỗng nghĩ tới kế hoạch của ông ta trong nhật ký.
– Ông Aixensnaiđơ không muốn ai can thiệp vào công việc của mình - Người chủ hãng nói tiếp – Vì thế ở trên quận, người ta không ưa gì ông ấy.
– Tôi không nghĩ như thế - Tôi đáp.
– Tất nhiên, với ông chuyện lại khác. Ông Aixensnaiđơ của chúng tôi luôn bảo đảm các khoản giao nộp cho Nhà nước. Ai cũng hiểu rằng, một Nhà nước không thể tồn tại được, nếu không có thuế khóa.
– Ông nói đúng.
– Và rất đương nhiên, ông Hackơ ạ, ai phải nộp thuế, người ấy đều kêu ca.
Chẳng ai muốn phải trao tiền cho người khác, phải không ông? Cả tôi cũng vậy thôi. Chúng ta nói thật với nhau nhé! Ai chả thích có tiền, càng nhiều tiền càng tốt, ông Hackơ ạ. Tôi nói điều này chắc ông không trách tôi...
Nói tới đây, Vêtthe để tay lên vai tôi. Một cử chỉ thân thiện.
– Hy vọng rằng chúng ta sẽ hiểu nhau - Người chủ hãng tiếp lời – Tôi rất muốn có một người thay thế. Ông Hackơ này, giá ông làm việc với chúng tôi thì hay quá. Tôi nói thật lòng đấy. Chín trăm mác một tháng.
Tôi giật mình. Một đề nghị thực bất ngờ.
– Ông muốn tôi vào hãng làm việc gì? – Tôi hỏi lại.
– Kế toán trưởng! – Vêtthe đáp.
Chà, không có một trưởng phòng tổ chức nhân sự nào lại quyết đoán nhanh chóng như Vêtthe! Chín trăm mác. Nghe hấp dẫn biết bao! Lương tôi hiện giờ mới có sáu trăm mác. Bỗng dưng tăng lên những ba trăm. Một điều không thể mơ thấy được trong chức phận của tôi. Cái chết của kẻ này mang lại bánh mì cho kẻ khác, tôi bỗng nghĩ tới câu thành ngữ ấy.
Tôi lắc đầu.
– Xin cám ơn thiện ý của ông. Nhưng cái số của tôi nó thế đấy. Tôi thích đi từ cơ sở này đến cơ sở khác, thích xem người ta làm ra tiền và sử dụng tiền như thế nào. Xin lỗi ông, bây giờ ông cho phép tôi được kiểm tra các chứng từ, sổ sách – Tôi nhắc người chủ hãng.
– Vâng, vâng, xin mời ông. Mải nói chuyện tôi đã quên mất cái việc chính vì sao ông tới đây. Hy vọng rằng mọi chuyện đều tốt đẹp. Hubơ Aixensnaiđơ là một kế toán trưởng xuất sắc. Thật đáng tiếc vì ông ấy không còn trên đời này nữa. Nhưng ai biết hết được mọi nẻo đường đời, kinh thánh đã dạy thế. Ông Hackơ, tôi xin cam đoan với ông, hãng tôi không có gì phải chê trách... Nếu có chuyện gì, xin ông hãy làm việc với bà Gơrun, một phụ nữ tuyệt vời. Bà ấy có thể thay thế ông Aixensnaiđơ không hơn không kém. Tất nhiên, giá được một người nam làm kế toán trưởng vẫn thích hơn. Xin ông nghĩ kỹ đề nghị của tôi.
Bây giờ xin phép ông!
Nói xong, người chủ hãng vội đi. Tôi tìm đường tới phòng kế toán.
Tôi đưa tay gõ rất nhẹ vào ô cửa, đợi một lát, rồi đẩy cửa bước rất nhẹ vào phòng. Bà Gơrun tay đang cầm bình nhựa chăm chú tưới hoa bên bậu cửa.
Trông bà lúc này thực đáng yêu, đôi mắt chăm chú vào chậu hoa, vẻ mặt như người đang mơ màng, phảng phất một chút buồn man mát. Nói chung, bà Gơrun là một phụ nữ rất đáng yêu. Giá như tôi quen biết bà từ xa xưa, và giá như... bà ấy chưa có chồng, chắc chắn đối với tôi, bà Gơrun còn đáng yêu, đáng hâm mộ hơn nữa. Chỉ có điều, chồng bà Gơrun là một anh chàng Ôtenlô của đời nay, tóc hung và thưa, mặt lúc nào cũng đỏ và có đầy tàn hương. Ông ta là chủ cửa hàng thịt. Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp ông bà Gơrun đi bên nhau trên đường phố, họ đi xem phim hay tới nhà người quen. Gặp họ, tôi ngả mũ chào. Người chồng mặt sa sầm, lẩm bẩm gì đó như thể một lời chào. Người vợ đáp lại tôi bằng một nụ cười rất thân thiện và lịch thiệp. Nhưng ngay sau đó, tôi nghe thấy họ nói to tiếng với nhau, giọng người hàng thịt đầy cái vẻ phẫn nộ. Thế đấy, đối với ông ta, bất kể một chàng trai chưa vợ nào chào hỏi vợ mình đều đáng ngờ.
– Xin chào bà Gơrun – Tôi lên tiếng – Xin gửi tới bà một nụ hôn tay!
– Ôi chao, anh Hackơ, anh làm tôi sợ hết hồn, lạy Chúa tôi!
Chà, tôi nghĩ thầm, giá tôi được làm Chúa của bà ấy, kể cũng hay đấy chứ.
Xem kìa, bà Gơrun giật mình vì câu chào của tôi, bàn tay đặt lên ngực, trông rõ thật ngoạn mục. Nhưng tôi đã không hôn tay bà. Tôi nói:
– Bà Gơrun, xin bà nhẹ tay cho, đừng tưới lên lá cây, thứ hoa này mẫn cảm lăm đấy!
Tôi nói và xin lỗi vì đã bước vào phòng chưa được lệnh của bà. Tính tôi nó thế đấy. Thỉnh thoảng tôi vẫn bất ngờ đột nhập vào các phòng làm việc, đúng là không lịch sự, nhưng lại rất bổ ích. Nhờ vậy tôi biết trong giờ chính quyền người ta làm việc như thế nào! Đôi khi, đột ngột bước vào phòng của những nhân vật có danh giá hẳn hoi, tôi đã gặp biết bao điều lý thú:
người thì đọc tiểu thuyết trinh thám, người thì hôn hít cô thư ký của mình... dĩ nhiên là tôi quay mặt đi và im lặng. Trong cuộc đời, gặp nhiều cảnh ngộ thực ngược đời, các ông quan đạo đức ấy cũng rất ưa tí táy! Tiếc rằng tôi chỉ là chuyên gia trong lĩnh vực tài chính, không phải người nghiên cứu các phạm trù đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa! Thôi thì, cứ mặc họ dạy đạo đức cho các cô thư ký riêng của họ.
Bà Gơrun đặt bình tưới hoa xuống, đưa tay bắt tay tôi. Một bàn tay thực mềm mại, đáng yêu.
– Anh Hackơ, chắc anh đến đây vì công việc?
– Vâng, rất đáng tiếc...
Tôi đáp lại rất thực lòng. Giá đến đây vì chuyện riêng, chắc sẽ thú vị hơn. Bà Gơrun nhìn tôi, mắt ánh lên niềm vui. Chà, đôi mắt kia nhìn ai, người ấy chắc cũng phải xiêu lòng. Tôi cam đoan rằng bà Gơrun biết rất rõ sức mạnh trong đôi mắt của bà. Và tất nhiên, bà đã nhiều lần dùng ánh mắt làm cho cánh mày râu chúng ta phải bối rối, để chọc tức người chồng và thử thách chúng ta.
Tôi ngồi xuống ghế giở cặp ra. Thấy thế, bà Gơrun vội mang đến cho tôi các chứng từ và sổ sách kế toán.
– Phần quyết toán ông Aixensnaiđơ mới làm xong trước khi đi nghỉ phép.
– Bà Gơrun, làm việc với ông Aixensnaiđơ, bà dễ chịu chứ? – Tôi hỏi.
– Tất nhiên rồi – Bà đáp – Tôi có thể cộng tác với bất kỳ một người đàn ông nào và đều cảm thấy dễ chịu, anh bạn ạ, trừ mỗi một người thôi, đó là chồng tôi.
Nói chung, tôi thích làm việc với nam giới hơn là nữ giới.
– Thế đấy, bà Gơrun ạ! Ông Aixensnaiđơ đã bước vào một kỳ nghỉ phép lớn lao của đời người, và đã kịp hoàn tất bản quyết toán cuối cùng, rồi ra đi... Ông Aixensnaiđơ đã tìm được một nơi nghỉ phép không bị ai quấy rầy, không bị ai thúc bách, chắc ông ấy sẽ không trở lại nữa.
Bà Gơrun vẫn mỉm cười. Nhưng chỉ thoáng lát sau, hình như bà đã linh cảm thấy chuyện gì đó chẳng lành, nụ cười đã vụt tắt.
– Chả lẽ anh lại bảo ông ấy...?
Bà Gơrun hỏi lại, giọng run run. Trong đôi mắt mở to của bà ánh lên sự hốt hoảng và sợ hãi.
Tôi gật đầu.
– Trời ơi, ông ấy chết phải không, anh Hackơ?
– Vâng. Đã qua đời.
– Lạy Chúa tôi! Trời ơi! – Bà Gơrun kêu lên, mặt biến sắc. Tiếng kêu của bà thực đau đớn. Tôi ngạc nhiên, chả lẽ cái chết của người thủ trưởng có thể làm một nhân viên đau khổ đến thế ư? Bà Gơrun hai tay chống lên cằm, im lặng.
Hình như bà đã quên có tôi ở bên cạnh. Một lát sau, bà nói, giọng thổn thức:
– Trời đất! Vậy là ông ta đã dám làm chuyện đó, trời ơi...
– Bà biết trước việc này phải không, bà Gơrun? – Tôi hỏi lại, ngạc nhiên vì thái độ của bà.
Bà lắc đầu rất khẽ.
– Ông ta vẫn thường dọa như thế.
– Dọa chết phải không bà?
– Phải, ông ta dọa sẽ giết chết ông ấy, nếu tìm ra manh mối. Trời ơi, thế là chuyện đó đã xảy ra – Bà Gơrun nói không thành tiếng.
– Ai kia bà Gơrun?
Nghe tôi hỏi, bà Gơrun ngẩng đầu lên, nhìn tôi đầy kinh ngạc:
– Chồng tôi, chồng tôi, trời ơi!
Nghe bà nói, tôi như người từ trên trời rơi xuống. Chồng bà Gơrun đã giết chết thủ trưởng của vợ mình? Chả lẽ sự thật lại như thế?
– Xin lỗi bag Gơrun, nhưng chồng bà có cớ gì để nghi ngờ bà với ông Aixensnaiđơ kia chứ? Tại sao lại như thế?...
Vừa hỏi xong, tôi biết mình đã nhỡ lời. Ai lại hỏi như thế? Bà Gơrun bậm môi:
– Chẳng có cớ gì hết! Làm gì có nguyên cớ khi người ta giết người!
– Vâng, vâng, bà nói phải – Tôi vội vã đồng tình.
Thực lòng tôi nghĩ khác. Một con người có máu ghen đến mức điên dại, người ấy có thể hành động như một kẻ mất trí. Chỉ cần một duyên cớ rất vô nghĩa, một ngờ vực vô căn cứ, người ấy đã có thể hành động như một kẻ hung thủ...
– Hubơ sống bất hạnh – Bà Gơrun nói tiếp – Ông ấy thực khốn khổ với bà vợ của mình. Nhưng hai chúng tôi lại hiểu nhau. Chả lẽ anh muốn biết tôi có ăn nằm với Hubơ hay không?
– Không, không – Tôi gạt đi – Thưa bà Gơrun, chuyện đó không cần thiết.
– Cũng chẳng sao – Bà ấy nói – Có một lần liên hoan xí nghiệp, chúng tôi uống quá say... chồng tôi đã biết chuyện. Hình như những người ghen có giác quan thứ sáu hay sao ấy. Trời đất, ông ta làm tình làm tội tôi đủ chuyện. Ông ta đòi tôi phải rời hãng đi nơi khác, tốt nhất là làm việc trong một cơ sở toàn phụ nữ. Và ông ta đã dọa:
nếu Aixensnaiđơ không để cho tôi yên, ông ta sẽ vặn cổ.
Tôi không thể ly dị chồng, vì nói tới chuyện đó, chắc ông ta cũng sẽ giết chết tôi. Khổ lắm, anh Hackơ ạ. Chồng tôi nói chung là một người tốt bụng. Nhưng ghen kinh khủng. Vậy là ông ta điên cuồng, đã giết người, trời đất...
Bà Gơrun thở dài. Một hồi lâu trong phòng rất im ắng.
– Bà Gơrun, tối mồng bốn tháng tám vừa rồi chồng bà có ở nhà hay không? – Tôi hỏi.
– Mồng bốn tháng tám? Cách đây có mấy hôm.
– Vâng. Mãi hôm qua người ta mới thấy xác của ông Aixensnaiđơ. Nhưng mồng bốn tháng tám là ngày sống cuối cùng của ông ấy.
– Anh đợi cho một lát – Bà Gơrun vừa nói vừa suy nghĩ – Hôm ấy là thứ sáu phải không?
– Vâng – Tôi đáp – Hôm ấy là thứ sáu. Tối thứ sáu chồng bà có nhà không, bà Gơrun?
Bà lắc đầu:
– Không, tối ấy ông ta không ở nhà.
– Bà biết ông nhà đi đâu không?
– Không – Bà Gơrun đáp lại – Có lẽ tối hôm ấy ông ta tìm tôi.
– Nghĩa là, tối thứ sáu bà vắng nhà?
– Chúng tôi đã cãi nhau. Sau khi đi làm về, tôi đun nước và tắm rửa. Tôi tắm trong phòng khách. Anh biết không, chúng tôi chưa có nhà tắm riêng.
– Hoàn cảnh tôi cũng vậy – Tôi đáp.
– Thế đấy, có thế anh mới hiểu được tôi. Đúng chín rưỡi chồng tôi đi làm về.
Tôi vừa bước ra khỏi chậu tắm.
– Làm sao lại có thể cãi nhau được. Thưa bà Gơrun, ở địa vị tôi, đi làm về, được chiêm ngưỡng một người đẹp vứt bỏ mọi xiêm y, điều đó càng vui sướng chứ sao?
– Không, chồng tôi lại khác. Tôi quên không buông rèm che cửa sổ và tắt đèn. Chồng tôi điên tiết lên. Ông ta bảo tôi cố tình phơi mình cho đàn ông để ý tới. Tôi bật cười. Ông ta càng nổi khùng. Lời qua tiếng lại. Tôi mặc xong quần áo, nhưng ông ta vẫn cằn nhằn mãi. Chồng tôi hay nói dai, mỗi khi ông ta bực mình một chuyện gì. Tôi không chịu nổi nữa. Tôi đổ vội nước tắm vào chậu tắm cho ông ta. Khi chồng tôi đã ngồi yên trong chậu tắm, miệng cằn nhằn, tôi bỏ đi.
Tôi biết thế nào ông ta cũng đuổi theo, thậm chí không cần mặc quần áo. May quá vừa bước ra khỏi nhà, một chiếc xe tắc xi chạy tới. Tôi lên xe và tới quán Baogơ. Vào nửa đêm, tôi về nhà. Nhưng chồng tôi vẫn chưa về. Khoảng một giờ sáng ông ta như người say bước vào phòng, chân lảo đảo. Trời, giá như tôi biết được chính đêm ấy ông ta đã giết hại Hubơ... Trời ơi, sao tôi khổ thế này?
Nói tới đây, bà Gơrun nức nở.
Một lát sau, bà Gơrun trấn tĩnh lại. Chúng tôi không nói gì về người kế tián trưởng và người hàng thịt nữa. Bà Gơrun lại tỏ ra đáng yêu như lúc trước.
Người đàn bà này cũng như bao người khác. Nếu chúng ta biết đối xử đúng mức, họ chính là vàng, là bạc, là châu báu của thế gian. Có lẽ Hubơ Aixensnaiđơ đã tìm ra chiếc chìa khóa để mở cửa trái tim bà. Nhưng tại sao ông ấy đã thất bại trong quan hệ vợ chồng? Tại sao hai con người sống với nhau lại luôn luôn tranh cãi nhau, luôn cô lập mình trong thế giới riêng tư? Đây là một bi kịch của nhiều cặp vợ chồng. Sống bên nhau thành thói quen, con người đã bị bào mòn những cảm giác. Họ trở nên thờ ơ và cuối cùng thấy cuộc sống chung chán ngán, buồn tẻ, đơn điệu. Họ không còn tôn trọng nhau nữa. Tình yêu đã chết trong ngày thường đơn điệu và bề bộn bởi công việc. Nhưng tại sao họ không chịu nuôi dưỡng tình yêu? Tại sao họ không tự tìm đến nhau, không rộng lượng đối với nhau? Vụ án người khác sẽ giải quyết. Tôi chỉ nghĩ:
vợ chồng, đấy là một cộng đồng lứa đôi hết sức tế nhị và phong phú, nhưng đấy là một hạnh phúc, phải giành giật lấy từng ngày.
Nghĩ tới đây, tôi mỉm cười. Chà, một anh chàng chưa vợ đang triết lý về cuộc sống vợ chồng! Có lẽ Hêben sẽ giễu tôi:
Này, anh bạn, cậu hãy lấy vợ đi rồi sẽ biết thế nào là hạnh phúc! Cậu hãy sống qua tuần trăng mật. Và nếu cậu vớ được một cô vợ tính khí thất thường như cột thủy ngân lên xuống theo thời tiết hoặc phải sống mãi với một người đàn bà thích sinh sự, cậu sẽ hiểu thế nào là tình yêu!
Ôi, tình yêu, tình yêu, vương miệng của đời người, chả lẽ tình yêu lại như thế? Bạn đọc ơi, xin bạn hãy lý giải giùm tôi...

Hết


Xem Tiếp: ----