Đức Nhẫn Nhục

Ở đời nhuc là điều khó nhịn nhất. Cho nên có cầu rằng " Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục " nghĩa là " thà chịu chết, chớ không chịu nhục". Nhịn được những điều người ta không thể nhịn được, dung được những đều người ta không thể dung được, phải người độ lượng lớn, kiến thức cao, căn bản vững.
Tô Đông Pha đời Tống nói rằng:
- Kẻ mà gọi là hào kiệt tất phải có tiết khí hơn người. Nhơn tình có chỗ không thể nhịn được, nên kẻ thất phu gặp nhục thì tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Nhưng bậc đại dũng thình lình gặp những chuyện phi thường cũng không kinh, vô cớ bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão lớn, lập chí cao vậy.
Vua nước Việt là Câu Tiễn đánh Ngô bị thua to. Vua nước Ngô là Phù Sai buộc Câu Tiển phải sang Ngô làm tôi tớ.
Câu Tiển cùng bầy tôi là Phạm Lãi sang Ngô, vào ra mắt Phù Sai, trần vai áo sụp lạy dưới thềm, và nói:
- Tôi là Câu Tiễn nước Việt, vì không biết sức mình đến nỗi đắc tội với Đại Vương, nay Đại Vương xá tội, cho được sang hầu hạ, thật cảm nghĩa vô cùng.
Phù Sai truyền xây một thạch thất bên mộ của Hạp Lư, giam vua tôi Câu Tiển. Mỗi khi Phù Sai đi chơi, bắt Câu Tiển dắt ngựa. Người nước Ngô trông thấy, cười bảo nhau:
- Kìa, vua nước Việt!
Câu Tiển cứ cúi gầm mặt, không nói không rằng.
Ở nơi thạch thất ngót hai năm, Câu Tiển lo việc giữ ngựa, hốt phân, quét chuồng, phải chịu không biết bao nhiêu sỉ nhục. May nhờ có Phạm Lãi sớm tối hầu hạ, không rời nửa bước, và luôn luôn kiếm lời an ủi, khuyến khích.
Thấy Câu Tiễn lúc nào cũng rụt rè khúm núm, suốt ngày lo làm lụng như kẻ tôi đòi, Phù Sai khinh thường cho là kẻ khiếp nhược, ý muốn tha. Ngũ Tử Tư can:
- Ngày xưa vua Kiệt giam vua Thang, vua Trụ giam Văn Vương mà không giết, đến lúc đạo Trời quay lại chuyện hoạ thành phước, vua Kiệt bị vua Thang đuổi, vua Trụ bị nhà Châu diệt. Nay Đại Vương giam Câu Tiển mà không giết, tôi e nước Ngô sắp có cái họa của nhà Hạ và nhà Thương đó.
Nghe lời Ngũ Tử Tư nói phải, Phù Sai trở muốn giết Câu Tiễn, bèn sai người triệu vào cung. Câu Tiễn được tin, sợ hãi. Phạm Lãi nói:
- Đại Vương đừng sợ. Vua Ngô giam Đại Vương đã ba năm mà không nỡ giết, huống chi bây giờ. Xin Đại Vương cứ an tâm vào yết kiến.
Câu Tiễn vào chầu chực ngót ba ngày mà Phù Sai không lâm triều. Ngày thứ ba, kẻ cận thần là Bá Hi ở trong cung ra truyền cho Câu Tiễn trở về thạch thất. Câu Tiễn lấy làm lạ hỏi. Bá Hi đáp:
- Đại Vương nghe lời Ngũ Viên định giết Ngài nên sai triệu đến, nhưng bỗng bị cảm hàn không thể dậy được. Vào thăm bệnh thấy thế tôi bèn tâu cùng Đại Vương rằng: " Muốn trừ hoạ phải làm phúc. Nay vua Việt chầu chực ở đây chỉ đợi ngày đem giết, lòng ta thán cảm động đến trời. Đại Vương tạm tha cho về thạch thất, đợi Đại Vương khỏi bệnh rồi sẽ định liệu". Đại Vương nghe lời của tôi tha cho Ngày trở về thạch thất đó.
Câu Tiễn bái tạ, về thạch thất, ngót ba tháng vẫn không nghe tin tức của Phù Sai. Phạm Lãi bấm quẻ rồi nói:
- Phù Sai không chết, đến ngày Kỷ tị thì bớt, qua ngày Nhâm thân thì khỏi hẳn. Bây giờ Đại Vương cố xin vào thăm, và phải nhẫn nhục nếm phân của Phù Sai rồi lại mừng mà nói kỳ khỏi bệnh. Đến kỳ bệnh khỏi thật, tất nhiên Phù Sai phải cảm ơn mà tha cho Đại Vương.
Câu Tiễn ứa nước mắt nói:
- Ta đây dẫu chẳng ra gì cũng là một ông vua, không lẽ phải chịu nhục nếm phân cho người ta sao?
Phạm Lãi đáp:
- Ngày xưa vua Trụ giam Văn Vương nơi Dũ Lý, giết con Văn Vương là Bá Ấp Khảo rồi làm mắm đem vào cho Văn Vương ăn. Thế mà Văn Vương vẫn chịu nhục, ăn thịt con. Ta muốn làm đại sự cần gì những điều nhỏ mọn. Vua Ngô tính nết đàn bà, không có lòng quả quyết, nay tha mai giết, nếu không dùng kế ấy đánh vào tình cảm thì làm sao thoát nạn được.
Câu Tiễn gạt lệ theo lời, đến nói cùng Bá Hi:
- Tôi nghe Đại Vương bị bệnh trong lòng hồi hộp, ăn ngủ không yên, xin Ngài cho tôi theo vào thăm cho trọn tình thần tử.
Bá Hi nói:
- Ngài có lòng tốt, xin đợi tôi chuyển tấu đã.
Bá Hi vào yết kiến Phù Sai, thuật lại lời nói của Câu Tiễn. Đang lúc đau buồn bã, Phù Sai nghe nói động lòng thương bèn chấp thuận cho vào.
Câu Tiễn vào gặp lúc Phù Sai " chột bụng", Câu Tiễn sụp lạy trước gường, thưa:
- Khi tôi ở Đông Hải có học cách niếm phân mà biết được bệnh chóng hay chậm.
Đoạn khoanh tay đứng chờ Phù Sai đại tiện xong, bước đến lấy tay bốc nếm. Nếm xong sụp lạy một lần nữa và tâu:
- Tù nhân xin chúc mừng Đại Vương. Bệnh Đại Vương đến ngày Kỷ tị thì bớt, sang tháng ba vào ngày Nhâm thân thì khỏi hẳn.
Phù Sai hỏi:
- Vì sao biết được?
Tâu:
- Y sư dạy tôi rằng phân là cốc vị, hễ thuận thời khí thì sống, trái thời khí thì chết. Nay từ nhân nếm phân Đại Vương thấy vị đắng mà chua, hợp với thời khí xuân hạ phát sinh, nên mới biết được.
Phù Sai cảm động nói:
- Câu Tiễn đối với ta thật hơn thần tử đối với quân vương. Ta chưa thấy ai chịu nếm phân để đoán bệnh bao giờ!
Thấy Bá Hi đứng cạnh Phù Sai bèn hỏi:
- Quan Thái Tể có nếm được không?
Bá Hi sụp lại đáp:
- Tôi rất yêu Đại Vương, song việc này không sao làm được
Phù Sai nói:
- Chẳng riêng gì quan Thái Tể, cho đến Thái Tử của ta cũng không thể làm được việc ấy.
Đoạn truyền tha Câu Tiễn, không bắt về thạch thất nữa, cho tự tiện tìm chỗ ở. Đợi khi nhà vua khỏi bệnh sẽ cho về nước.
Câu Tiễn lại tạ lui ra. Từ ấy được thong thả, nhưng vẫn giữ việc nuôi ngựa như xưa.
Rồi quả nhiên Phù Sai khỏi bệnh đúng như lời Câu Tiễn. Nhà vua cho rằng Câu Tiễn là kẻ tận trung với mình, truyền bày tiệc trên Vân Đài, cho Câu Tiển vào dự. Câu Tiễn vẫn khiêm tốn, ăn mặc theo lối tù nhân, Phù Sai truyền tắm gội và ban mũ áo. Câu Tiễn hai ba lần tạ từ rồi mới nhận. Phù Sai nói cùng các quan:
- Câu Tiễn là người nhân hậu, ta không nên làm nhục lâu. Ta sắp tha tội cho về nuớc, nên nay tiếp đãi tử tế.
Các quan mời Câu Tiễn vào tiệc. Ngũ Tử Tư tức giận ra ngoài. Sáng hôm sau vào tâu:
- Hôm qua Đại Vương lấy lễ khách mà đãi kẻ thù, là nghĩa làm sao? Câu Tiễn là kẻ nham hiểm, bên trong chứa gươm đao, bên ngoài giả cách cung kính. Những người như thế thật đáng đề phòng. Sao Đại Vương không thấy cái hại về sau? Đại Vương bỏ lời trung thục, nghe lời nịnh bợ, nghĩ điều nhân nhỏ, nuôi kẻ thù lớn. Thật khác nào buông nắm lông trên than hồng mà mong cho lông khỏi cháy, ném quả trứng xuống đá mà mong cho trứng không bể là nghĩa gì?
Phù Sai lắc đầu nói:
- Ta bị bệnh đã ba tháng, quan Tướng Quốc không có một lời hỏi thăm, không có một lễ mọn dâng hiến. Còn Câu Tiễn bỏ nước sang đây, đem thân làm tôi tớ, chịu nếm phân ta để xét bệnh. Nếu quan Tướng Quốc bảo ta giết kẻ ấy thì còn gì nhân luân. Ta không muốn vì lời Tướng Quốc mà trở thành kẻ bất nhân bất nghĩa.
Ngũ Tử Tư thưa:
- Đại Vương xét việc như thế là lầm to! Khi con hổ thu mình lại thì tất muốn chụp mồi đấy, con ly rút cổ lại thì tất định đánh cướp đấy. Vua Việt vào làm tôi nước Ngô, lòng không thể không oán hận. Kẻ oán hận mà giữ được lòng kiên nhẫn thì thật là thâm độc. Bây giờ Câu Tiễn cúi xuống nếm phân của Đại Vương, nhưng chắc gì sau này không ngẩng lên để ăn bộ lòng của Đại Vuơng. Đại Vương không xét để mắc mưu kẻ thâm độc, thì thật là nông cạn lắm.
Phù Sai nói:
- Quan Tướng Quốc chớ nói nữa. Ý ta đã quyết, can ngăn có ích chi.
Ngũ Tử Tư tức giận trở về dinh.
Ba hôm sau, Phù Sai bày tiệc nơi Sà Môn, đưa Câu Tiễn về nước. Các quan triều thần đều đến chúc mừng. chỉ có Ngũ Viên không có mặt. Phù Sai bảo Câu Tiễn:
- Ta cho hiền hầu về nước, hiền hầu nên nhớ ơn, chớ có đem lòng oán hận.
Câu Tiễn sụp lạy, thưa:
- Đại Vương không nỡ giết kẻ cô cùng, cho được sống mà về nước, đời đời tôi nguyện không dám quên ơn. Trời cao thăm thẳm soi xét lòng tôi. Nếu tôi phụ Ngô thì trời nào dung thứ.
Phù Sai nói:
- Người quân tử chớ có hai lời.
Câu Tiễn sụp lại, nước mắt đầm đìa. Ai nấy đều cho là thật tâm quyến luyến. Phù Sai cầm tay Câu Tiễn đưa lên xe, và đứng trông theo cho đến lúc xe đi khuất.
Năm ấy là năm thứ 26 đời vua Kính Vương nhà Châu.
Câu Tiễn trở về nước ngày đêm lo việc phục thù. Phù Sai chẳng hề lưu ý đến, chỉ một mực kiêu ngạo và say đắm trong cuộc truy hoan...thành ra nước Ngô dần dần suy, nước Việt dần dần thịnh.
Hai mươi năm sau Câu Tiễn cất binh đánh Ngô. Phù Sai đại bại bỏ kinh thành chạy đến Vu Toại. Câu Tiền đem quân vây bốn mặt, bắt Phù Sai phải tự tử.
Thế là nước Ngô bị diệt và Câu Tiễn rửa được cái nhục thạch thất ở Cối Kê.
Trước kia nếu Câu Tiền không chịu nổi cái nhục ấy mà tự sát, hay làm càn đến phải thiệt thân, thì nước Việt không mong gì khôi phục. Lòng kiên nhẫn của Câu Tiễn thật là phi thường. Mà sở dĩ có thể nhẫn nhục được đến thế là vì Câu Tiễn có hoài bão lớn, lập chí vững...
Nhưng nếu không có Phạm Lãi, hỏi Câu Tiễn có giữ được chí lớn hay chăng?
Câu Tiễn đã có lần nói cùng Phạm Lãi:
- Ta nhẫn được bấy lâu là nhờ công của nhà ngươi.
Đó là lời nói thành thật phát tự trong đáy lòng của Câu Tiễn. Cho nên sự nhẫn nhục phi thường của Câu Tiễn gốc ở Phạm Lãi vậy, và câu nói của Phạm Lãi:" Ta muốn cầu đại sự thì cần gì những điều nhỏ mọn " là một câu châm ngôn đối với những người muốn lập chí, và lòng kiên nhẫn của Câu Tiễn là tấm gương sáng cho những người muốn thành công, trong khi mưu cầu đại sự.
Nhưng không nên quên mặt trái của chiếc huy chương.