Chương 11

Sáng thứ Sáu, Katharine đáp chuyến tàu tốc hành tới Vermont để sang Graysville. Nàng đi một mình vì Madden và Nancy đã đi từ sớm ngày hôm qua, nàng dựa hẳn vào tấm đệm êm ái kiểu Pullman, rồi nghịch ngợm trên khung cửa sổ ẩm hơi nước bằng những ngón tay mang găng, để đắm chìm vào cảnh vật bên đường cứ vùn vụt lướt qua. Ngoài trời lạnh căm căm. Đoàn xe lửa xập xình chạy qua vùng thôn quê băng giá, đều đặn nhịp, nhanh hơn và ồn ào hơn, như nuốt trôi từng dặm đường để tiến tới khoảng trống vô định.
Ngày tàn dần. Đến chiều thì Katharine phải đổi sang chuyến tàu địa phương. Lại tiếp tục đi, xuyên vào vùng ráng chiều đỏ ửng như một tấm vòng trống trải của quả đất với chút huy hoàng của chốn tiên cảnh lạ kỳ. Nửa tiếng sau, người trưởng tàu đã đi dọc theo lối đi.
“Năm phút nữa là tới Graysville, thưa cô,” ông thì thầm một cách lịch thiệp.
Có một ít xúc cảm lanh nhanh trong người Katharine - cảm giác hồi hộp sắp đến một nơi định sẵn, hoà lẫn vào với sự mong đợi, tò mò, và một ít hơi hớm kinh sợ. Một tiếng xì xì của hơi nước nhanh chóng phát ra cộng với tiếng thắng ghiến rào rạo trên đường ray, đoàn tàu kêu ình ịch rồi dừng lại, và nàng xuống tàu, đặt chân lên một sân ga nhỏ hẹp, chỉ là một hành khách duy nhất xuống trạm, chiếc va-ly lớn được đặt bên cạnh, má nàng bị làn gió buốt lạnh quật vào không ngớt, và nàng đảo mắt nhìn quanh trạm tàu vắng lặng với vẻ ngóng trông đợi chờ hồi hộp.
Ngay tức thì, một người đàn ông tách khỏi bóng đêm của dãy nhà ga vắng vẻ và tiến về phía nàng. Ông ta đã lớn tuổi, người tầm thước, đôi chân vòng kiềng, vận một chiếc áo da ngắn với chiếc mũ kếp tài xế, bên dưới là một gương mặt khắc khổ nhưng đượm một nụ cười niềm nở.
“Cô đúng là Cô Lorimer rồi,” ông ta kêu lên, nụ cười mở rộng thêm. “Tôi là Hickey.” Ông ta cầm va-ly của nàng lên. “Xin đi với tôi. Tôi có xe đợi sẵn ở ngoài nhà ga.”
Nàng đi theo người đàn ông nhỏ bé ra khỏi sân ga tới chỗ xe đậu, một chiếc xe thể thao màu xanh lá cây kiểu chắc cũng phải trên mười năm, nhưng được chau chuốt kỹ càng nên vẫn láng bóng như gương trên nền kim loại nhẵn thín. Ngay cả bánh xe cũng được đánh bằng bột đất sét trắng không chê vào đâu được. Niềm tự hào của bác Hickey được dồn cả vào cỗ xe khi bác đỡ Katharine vào xe, khởi động cỗ xe cũ kỹ sống lại chạy êm ái trên phố Main Street. Có rất ít người xung quanh, nhưng hễ gặp một người nào ở lề đường bác Hickey cũng vẫy tay chào, cử chỉ ân cần hoàn toàn thân thuộc.
“Chẳng có nhiều người ở lại đây,” bác kể chuyện cho Katharine nghe. “Nhiều người đã đi trượt băng rồi. Chả là đã tới mùa trượt, và họ rất thích làm như thế. Ngài Chris dặn tôi chỉ vì có đá rơi nếu không thì họ đã tới nhà ga để đón tiểu thư rồi.”
“Trượt băng tuyệt thế ư?” Katharine hỏi, mỉm cười nửa miệng.
“Chắc rồi,” người bộc già trả lời kèm theo nụ cười thân thiện ám mùi thuốc lá. “Nếu không phải, nó sẽ phải thú vị. Cách đây ba mươi dặm có một cái hồ đóng băng.”
°
Như để chứng minh cho lời nói của mình, ông đậu xe ngay ở ngã rẽ và với điệu bộ kịch câm mãnh liệt mời mọc một cặp trai gái đang trượt băng đằng trước nói cười vẫy vẫy với ông leo vào ngồi ghế phụ ở hòm đằng sau. Đó là một cô gái và em trai, cháu họ của Madden, Hickey lại giãy bày tâm sự với Katharine lần nữa khi họ nổ máy đi tiếp. Dường như không có một giới hạn nào trong bộ sách bách khoa cho tính ba hoa của ông cụ. Ông cứ nói mãi, như một đặc quyền của một người nô bộc lâu năm và cũng là một chứng nhân địa phương hiểu biết nhiều, Katharine lắng nghe thích thú và cũng không ngừng quan sát quang cảnh đông sang nhưng đầy ấm cúng. Con đường, để lại tỉnh lỵ bé nhỏ sau lưng, hướng thẳng về phía hồ, dải nước bao bọc bởi băng tuyệt đẹp, và uốn lượn vòng bờ biển, ven hồ là những hàng dương liễu cùng các cây cối khác. Xa xa những ngọn đồi nhô đỉnh lên như hứng lấy ráng chiều. Vòng đai để trượt băng được tạo ra khá xa. Cứ như thế, một vầng trăng mờ nhạt nổi lên từ hướng đông.
Có một cái gì đó mê hoặc kỳ lạ của giây khắc và nơi chốn đó thấm vào Katharine và ngân nga kỳ bí trong huyết quản nàng. Nàng vẫn trầm lặng, với hơi chút giễu cợt và giọng cười hô hố giòn giã cùng lời căn dặn không nên để trễ cho bữa tối, già Hickey thả những vị hành khách thặng dư tại bến đợi ngay trước cửa một căn xép tạo bởi chiếc thuyền cũ kỹ, rồi quay mũi xe về hướng căn nhà trắng đứng một mình lặng lẽ ở cuối con đường giữa những vườn cây ăn quả nặng trĩu táo. Nơi đó thật giản dị, không có vẻ ta đây, theo kiến trúc thời thuộc địa cũ với mặt chính căn nhà kiểu Georgia. Một khắc sau, chiếc xe hơi nghiền xào xạo rồi đậu lại, và cánh cửa chính được bật tung ra. Katharine đã đứng trong hành lang bắt tay với Bà Madden.
Ngay lập tức nàng biết đó là mẹ của Chris, nét giống nhau quá rõ ràng với dáng gầy dong dỏng cao nơi bà. Khuôn mặt của bà cũng có nét khoan thai đĩnh đạc như Madden. Bà lộ ra một vẻ bình tĩnh cân đối với một sự kiên định chắc chắn như thể những khó khăn trong cuộc sống đã in hằn vào bà nét kiên nhẫn hoà với sự chịu đựng ngoan cường cũng như tính dịu dàng hoà nhã. Cặp mắt của bà, chứa đựng một sự hiếu kỳ, hoàn toàn dán vào Katharine với nét ấm cúng hiếu khách.
“Cô chắc là lạnh cóng rồi,” bà nói vậy khi những câu chào hỏi thông thường được trao đổi. “Vào đây và sưởi ấm trong phòng dành cho cô nào.”
Bà xoay người và chỉ cho Katharine cầu thang lên căn phòng ngủ trước mặt có lò sưởi lộ thiên theo kiểu Hà Lan đang cháy mãnh liệt trong tiếng củi kêu lách cách, làm ánh lên những hình ảnh sinh động nổi bật của chiếc giường bốn cột bằng gỗ, màn che cửa sổ bằng vải the mỏng, với tủ đựng quần áo bằng thân gỗ trái cây cứng cáp và những chiếc ghế đồng loại.
“Tôi hy vọng là cô cảm thấy thoải mái ở đây,” Bà Madden nói hơi có vẻ bẽn lẽn làm cho Katharine động lòng. “Mọi thứ đều giản dị. Cũng như chúng tôi là những người đạm bạc.”
“Rất là đáng yêu – đáng yêu lắm,” Katharine đáp lại một cách bốc đồng.
Bà Madden mỉm cười, một nụ cười cố hữu làm cho khuôn mặt của bà ánh lên những nét chân phương mộc mạc. Bà dường như cố gắng tìm những danh từ để diễn tả sự hài lòng của mình, nhưng rõ ràng là bà hơi lúng túng trong vấn đề này. Bà chần chờ một hồi cạnh cửa, cảm thấy mọi việc đều như ý với Katharine, thông báo bữa tối sẽ được dọn ra trong giây lát, rồi bà lặng lẽ đi ra.
°
Ba mươi phút sau, Katharine đi xuống lầu vào phòng khách, một căn phòng dài rộng, đèn sáng rực hắt cả ra ngoài hành lang, giờ đây đầy những người là người. Đoàn người đi trượt tuyết đã trở về, đem theo nhiều bạn hữu và bà con chòm xóm. Đó là lần đầu tiên Katharine tham gia một cuộc họp mặt thân hữu được tổ chức ở khu Lakeside House này.
Madden và Nancy đứng cạnh lò sưởi với một cặp khác nói cười rộn rã, hoá ra lại là cô cậu ngồi ở băng sau xe trước đó với nàng, được giới thiệu là Luke và Betty Lou. Bên cạnh họ, ngồi chắc chắn trong chiếc ghế đong đưa là một cụ già với khuôn mặt nhăn nheo hóm hỉnh. Đó là Bác Ben Emmet, anh trai của Bà Madden. Đối diện là thầy giáo làng của Graysville và em gái. Rồi đến Bác sĩ Edwards, thấp người, trông có vẻ tồi tàn trong bộ áo khoác phi công dày cộm; Pop Walters, mập mạp, hói đầu với cặp mắt sắc sảo lúc nào cũng nhấp nháy. Cuối cùng là Sammy Emmet, cháu nội của Bác Ben, với cái mũi đầy tàn nhang và giống như Luke, cũng mang một huy hiệu của hội học sinh đại học. Và vô số những người khác, toàn là những cô cậu trẻ tuổi trong các áo len màu sáng, má và mắt đều ánh bóng loáng vì gió, cười nói ồn ào ở cuối phòng.
Katharine phải mất một ít thời gian để chào hỏi mọi người, nhưng với sự dìu dắt cẩn thận của Bà Madden hay lo lắng, nàng rốt cuộc cũng được giới thiệu với tất cả. Không có gì quá phi thường trong cuộc họp mặt, chỉ là những người thông thường, và vài trường hợp, có người trông quá khiêm tốn và khúm núm vì họ làm việc quá cực nhọc. Bù lại ai cũng có đặc tính cởi mở và thân thiện với mọi người, hoàn toàn tự nhiên khác hẳn với cung cách nghi lễ hiện hành. Ngay lập tức, Katharine cảm thấy mình như đang ở nhà.
Nàng không có cơ hội để trò chuyện với Nancy hay Chris, vì Bà Madden đã cầm lấy tay nàng và mọi người lục tục kéo nhau nhập bữa tối.
Katharine, quá đói bụng vì cuộc hành trình dài và vì khí hậu rét buốt, ăn rất ngon miệng. Vì quá đông người nên không ai có thì giờ mà để ý tới cách nàng ăn uống. Madden, mặc một chiếc áo lạnh cài nút cổ màu xám đậm ngồi phía cuối bàn cũng ngồi cắt thịt ăn ngon lành. Nancy thì xa hơn chút nữa, quá ư là xa cách. Nĩa ở một tay, điếu thuốc lá trong tay kia, nàng vừa hút thuốc vừa ăn, hầu như không lắng nghe tới cuộc đối thoại của Sammy Emmet ở bên phải nàng. Theo bản năng, cặp lông mày của Katharine châu lại một cách lúng túng. Nhưng những người ngồi cạnh nàng, Walters và ngài Bác sĩ Edwards Nhỏ Bé, không cho nàng có thì giờ phản ứng lại.
“Cô nên nếm thử tí rượu dâu này Cô Lorimer,” Bác sĩ Edwards cong người tới trước mời mọc. “Đều là đặc sản gia truyền do Susan Madden nấu đó. Tôi bảo đảm với cô là nó sẽ làm ấm người mãi.”
Katharine nếm thử tí rượu cay cay và đồng ý là tuyệt hảo. Nàng mỉm cười với người đàn ông bé nhỏ.
“Ông phải đem theo một ít khi làm việc. Ở vùng này khí hậu khắc nghiệt quá khó mà làm việc.”
Ông nhìn chăm chăm vào nàng, mắt tròn xoe, rồi phá ra cười hớn hở không kém phần vui nhộn. “Cô hiểu lầm ý tôi rồi,” cuối cùng ông có vẻ thân thiện hơn. “Mọi người trong vùng gọi tui là Bác sĩ. Tui thì không có tí ti hiểu biết về y học gì hết. Tui chỉ có mỗi một quầy dược phẩm cỏn con ở góc phố Main Street cạnh Nhà Thờ Tin Lành thôi.”
Katharine trố mắt ngạc nhiên, có hơi lúng túng khi hiểu nhầm vị trí xã hội của người bạn ngồi kế cận. Nhưng ông ta cứ tiếp tục, không có gì là phiền lòng, vẫn giữ vẻ thân mật nhũn nhặn cố hữu.
“Chúng tôi không phải là tự cao tự đại ở đây lắm thưa Cô. Mặc dù Chris làm ăn khấm khá thật, nhưng anh ta không hề quên Joe Edwards này là người hay dẫn anh ta đi câu cá khi chỉ khoảng bảy tuổi.”
“Thật à?” Katharine hỏi với vẻ thích thú.
“Dĩ nhiên là tui có rồi. Khi Chris tới chơi với Bác Ben vào dịp nghỉ hè. Và tui nghĩ Susan làm lụng khó nhọc để trả tiền vé xe cho nó. Nhưng đâu có tệ? Chúng tui đi dạo quanh hồ, và lạy đức George! Cô thử nghĩ xem mặt của nó như thế nào khi mới câu được con cá pecca lớn lần đầu tiên!
°
Katharine mường tượng ra bức tranh cảnh vật lúc đó, một chiếc thuyền bạc màu vì nắng gió đậu lặng lờ trên mặt hồ gợn sóng, thanh cần câu làm bằng gỗ mại châu được thả lỏng, có con cá màu bạc nhảy loi choi trên sàn thuyền, và Chris với gương mặt trẻ thơ, đỏ ửng, háo hức kỳ lạ lẫn tò mò thích thú. Nàng chợt im lặng. Nàng thoáng thấy mối quan hệ gần gũi của Madden với nơi chôn nhau cắt rốn của mẹ chàng. Nàng hiểu rằng tại sao chàng được nhắc nhở, kính trọng và yêu mến đến như vật. Dù đã trưởng thành và thành công như bây giờ, chàng vẫn là con trai của Susan Emmet ở Graysville.
Khi bữa tối đã tan, mọi người trở lại phòng khách. Một bộ tứ chơi bài brit trầm tĩnh được mở ra ở một bàn, và tại bàn khác, một trò chơi vòng tròn vui nhộn được gọi là Những cái bánh quy hình thú. Katharine được anh chàng Sammy Emmet mời tới rang hạt dẻ ở cạnh lò sưởi.
Nàng ngồi xuống tấm thảm hoa, với không khí hòa nhã vui vẻ trong phòng bao quanh nàng. Cuộc vui diễn ra tại bàn tròn nhiều hơn, do Madden làm chủ toạ, trở nên nhanh chóng và sôi nổi. Một hay hai lần Katharine giật mình vì giọng của Chris có chút gì vui vẻ mang tính miễn cưỡng. Nhưng nàng không thể chắc chắn được, và sức nóng của ngọn lửa lò sưởi làm cho nàng gà gật, hết sức mệt mỏi. Nửa giờ sau, nàng chào buổi tối thầm lặng với Bà Madden và lỉnh về phòng mình.
Không bao lâu thì Nancy cũng về phòng, xông vào vẫn với điếu thuốc lá không ngừng rít trên môi.
“Mừng vì được giải thoát?” nàng hỏi cho có lệ.
“Giải thoát từ đâu?” Katharine hỏi lại với vẻ ngạc nhiên.
Nancy không trả lời. Nhưng nàng nhún vai một cách lúng túng.
“Nancy!” Katharine kêu lên đầy ngụ ý. “Con không thích nơi này à?”
Nancy hơi nhướng đôi lông mày. “Thì cũng tuyệt mà dì yêu. Có hơi khôi hài một chút.”
“Khôi hài?” Katharine xẵng giọng lập lại.
Nancy gật đầu. Nàng nhận thấy Katharine không nắm bắt ý nàng trọn vẹn, và điều này làm cho nàng cáu. Nàng bắt đầu giọng lè nhè:
“Có quá nhiều vải bọc ghế dì yêu. Và những người họ hàng tội nghiệp kia ăn uống thật nhiều cũng như cười với bất cứ chuyện gì. Và những cô thôn nữ khúc khích, và có quá nhiều đoạn trích (trong kinh thánh), như cái ở trên đầu giường kìa.”
Mắt Katharine dõi theo hướng của Nancy chỉ tới một cái khung vuông có thêu chữ trên vải treo trên tường.
“Đó không phải là trích đoạn trong kinh thánh,” nàng nói ngắn gọn. “Đó chỉ là một mẫu thêu, với những đường kim thật tinh xảo.”
“À, sao cũng được,” Nancy nói lại với vẻ bất cần, “nó không phải thuộc tuýp thưởng thức của con. Một tuần lễ tại nơi này chắc làm con phát điên lên mất. Con có cảm giác như họ đang nghi ngờ con bởi vì con ở trên sân khấu. Mỗi lần con châm điếu thuốc là y như rằng họ ngó con như thể con phạm tội gì đó không tha thứ được. Không có lấy một cuốn phim nào coi ra hồn trong cái tỉnh lỵ nhỏ bé quê mùa này. Tại sao Chris lại không dẫn những người họ hàng ngu xuẩn như vậy tới Cleveland nếu chàng muốn họ có ảnh hưởng tới chúng ta? Cám ơn Đức Trên Cao chúng ta sẽ về lại New York vào ngày kế.”
“Nancy!”
“Ồ, con xin lỗi, dì Katharine!” Nancy dịu lại ngay lập tức. Miệng nàng hạ giọng lại, rồi nàng đứng đó, mắt mở to tràn đầy những ăn năn hối lỗi. “Con biết là con nhạy cảm và không thoả mãn bây giờ. Con đáng lẽ không nên tới đây mà phải chờ sau buổi diễn. Con cảm thấy thương hại cho Chris quá. Nhưng tại giờ phút này, con không thấy vui vẻ chút nào. Con có hứng thú cho chuyện khác kia.”
“Cho cái gì?”
“Cho vở kịch, dĩ nhiên rồi. Ồ, dì không thấy sao dì Katharine, nó có ý nghĩa với con biết dường nào, con muốn thành công biết bao nhiêu? Con có Chris rồi, con biết mà, và con hạnh phúc, rất là hạnh phúc với chàng. Nhưng con cũng muốn cái kia luôn, con muốn thành công trong sự nghiệp, ôi, một sự nghiệp tuyệt vời!”
Katharine vẫn im lặng, gần như rã ra từng mảnh bởi sự hăng say trong giọng nói của Nancy. Lần đầu tiên nàng thấy đích xác chiều cao và sâu trong tham vọng của Nancy. Một làn sóng nhỏ làm mất tinh thần chợt trào lên trong nàng. Nancy muốn danh vọng. Nhưng nàng có khả năng để chiếm nó hay không? Sắc đẹp, trí thông minh, và tài năng thì nàng có thừa. Nhưng phẩm cách hay lảng tránh kia, chiều sâu và chín muồi của nó một mình có làm cho một nữ diễn viên trở nên xuất sắc, Nancy có hay không? Bất thình lình Katharine cảm thấy lo sợ, thật lo sợ cho Nancy.
“Con không nghĩ rằng con đòi hỏi quá nhiều trong cuộc sống à?” nàng hỏi với một giọng trầm trầm.
“Có lẽ,” Nancy gật đầu. “Nhưng mà, dì Katharine, con nhất định phải có nó.”
Tiến lại gần, nàng hôn Katharine chúc ngủ ngon, rồi giây phút sau nàng rời khỏi phòng.
Katharine vẫn đứng lặng yên cạnh cửa sổ, dáng nàng vẫn không có động tĩnh, môi nàng mím chặt lại. Ngoài trời, cảnh ban đêm tĩnh lặng tuyệt đẹp, xung quanh nàng bao phủ một bầu không khí yên ắng và nét hiền hoà không khuấy nhiễu. Nàng cứ muốn đi tới chỗ Nancy, để nói chuyện với nàng, để an ủi nàng, để giữ chân nàng lại. Nhưng nàng cố kiềm giữ mình, nhận thấy như vậy có vẻ không khôn ngoan. Nàng cảm thấy mình có vẻ lạc hướng và lo ngại nhiều. Nàng thở dài và lặng lẽ vào giường ngủ.