Chương 31

Tên tuổi Lê Ðức Thọ ngày nay không những được biết đến ở Việt Nam, mà cả trên thế giới. Hình ảnh Lê Ðức Thọ được in trong những cuốn từ điển bách khoa, với tiểu sử tóm tắt và sự nhấn mạnh về công trạng tìm kiếm hòa bình cho cuộc chiến tại Việt Nam trong cuộc hòa đàm Paris với Henry Alfred Kissinger(1) và được trao giải thưởng Nobel hòa bình cùng với ông ta trong năm đó.
Ở Việt Nam tên Lê Ðức Thọ gắn liền với vụ nhóm xét lại chống Ðảng, và rất nhiều vụ oan khuất khác do Ban Tổ chức Trung ương tiến hành.
Tôi tiếc không được biết Lê Ðức Thọ một cách gần gụi để có thể viết nhiều và viết kỹ về nhân vật một thời làm mưa làm gió trên chính trường Việt Nam. Hi vọng rồi đây sẽ có người làm việc này một cách nghiêm túc, bởi vì Lê Ðức Thọ là một hiện tượng đặc thù trong hình thái xã hội từng được gọi là xã hội chủ nghĩa.
Ý định của Lưu Quý Kỳ về việc cho ra một tờ báo châm biếm tương tự tờ Cá Sấu của Liên Xô để phê phán các hiện tượng tiêu cực, mà tôi có nhắc tới trong một đoạn trên, không phải là ý định suông. Ðiều Lưu Quý Kỳ không ngờ là ý muốn chân thành của anh đã dẫn tới tai họa. Lê Ðức Thọ xồng xộc đến tận Sở báo chí để tự mình uốn nắn ý nghĩ ngạo ngược của anh. Mà Lưu Quý Kỳ được Thọ coi như đệ tử ruột một thời. Tinh thần cảnh giác cao chưa một lần ngủ quên của Sáu Búa Lê Ðức Thọ không thể lơ là để xảy ra một sự lỏng dây xích như vậy.
Tôi có mặt ở đấy khi xảy ra sự việc.
Con người cao to, tóc bạc trắng, với giọng nói cố ý kéo dài bắt người nghe chờ đợi câu tiếp theo, để lại trong tôi ấn tượng nhạt nhẽo và khó chịu. Tôi dị ứng với những gì không thật. Trong Lê Ðức Thọ tôi nhìn thấy đầy rẫy của giả. Mọi người khúm núm, sợ sệt. Tôi nhìn Thọ dửng dưng, bằng con mắt lạnh lùng.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ở tuổi 30, chính quyền đã vững vàng, đám lãnh tụ đã học thuộc bài lên xe xuống ngựa xênh xang, đệ tử bâu quanh như ruồi thấy mật. Một chút khiêm tốn giả vờ, một chút bình dân đóng kịch, trộn với rất nhiều phô trương quyền thế, là nét nổi bật trong Thọ. Nói tóm lại, một tên hãnh tiến điển hình. Trong cuốn Sửa Ðổi Lề Lối Làm Việc ông Hồ Chí Minh gọi căn bệnh này là bệnh lãnh tụ.
Vào những năm đang được nói tới Lê Ðức Thọ là ủy viên Ban bí thư, ủy viên Thường vụ Trung ương Ðảng. Nhưng cả hai chức ấy chẳng có nghĩa gì so với một chức nghe khiêm tốn hơn, là Trưởng Ban Tổ chức Trung ương. Thọ giữ chức này ba mươi năm liền, kể từ khi ra Bắc.
Từ một cơ quan bình thường, mang nặng tính chất sự vụ, làm công việc quản lý cán bộ Ðảng thời Lê Văn Lương, Ban Tổ chức Trung ương trong tay Thọ nhanh chóng trở thành cơ quan siêu mật thám, nắm trong tay quyền lực cao nhất, mạnh nhất trong toàn bộ hệ thống Ðảng. Nó bao trùm tất cả, đứng trên tất cả. Nằm trong quyền điều khiển của nó có cả Bộ Nội vụ. Với thể chế Ðảng cầm quyền, tình hình đó là lẽ đương nhiên.
Ban Tổ chức Trung ương của Lê Ðức Thọ trong thực tế không chỉ nắm lý lịch đảng viên và cán bộ Ðảng, mà cả cán bộ chính quyền, từ cấp thấp nhất tới cấp cao nhất, theo một hệ thống dọc.
Mỗi cán bộ đều có một cuốn lý lịch, nó dính vào anh suốt đời, như một cái bướu. Mỗi lần xét lên lương, xét cho đi học, xét cấp nhà, thậm chí một cái phiếu mua xe đạp, là một lần lý lịch anh lại được mở ra, được tính đến. Giá trị con người tính bằng mức độ trung thành với Ðảng, hồng là hơn chuyên, đức là hơn tài. Lý lịch là chứng chỉ xác nhận giá trị xã hội của mỗi cá nhân thành viên, do đó nó quan trọng vô cùng. Lý lịch còn được cập nhật, được bổ sung liên tục bởi công an chìm và nổi, bởi cán bộ tổ chức, cán bộ bảo vệ, các bạn đồng sự, bởi ông hàng xóm hoặc ông tổ trưởng dân phố. Hết thảy đều được dạy dỗ để theo dõi lẫn nhau, được khuyến khích thu thập tin tức về nhau.
Nhân vô thập toàn, con người ta ai cũng có lúc mắc khuyết điểm, không lúc này thì lúc khác, không ở nơi này thì nơi kia. Nếu chẳng may khuyết điểm bị tổ chức phát hiện, nó sẽ được ghi nhận, được xếp vào hồ sơ, còn sau này có dùng đến hay không, dùng vào lúc nào, là chuyện khác.
Tại Hỏa Lò tôi ngạc nhiên thật sự khi Huỳnh Ngự, với nụ cười trịch thượng trên môi, chìa cho tôi xem bản liệt kê tất cả những gì tôi đã viết, đã in, trong đó có nhiều cái ba lăng nhăng chính tôi cũng quên bẵng từ lâu. ỉ thì cứ cho rằng từ năm 1961 khi tôi viết Ðêm Mất Ngủ bị Tố Hữu đánh, lúc ấy nghi ngờ tôi là có lý. Nhưng làm sao trong hồ sơ lại có cả những bài báo ngô nghê đăng trên tờ Nhân dân và Văn nghệ từ mãi những năm 1954-1955, khi tôi còn là một con chiên ngoan đạo? Thì ra khi có một bút danh mới xuất hiện những cán bộ tổ chức theo dõi văn nghệ liền ghi ngay vào sổ, và nếu có một chút nghi ngờ thì một hồ sơ liền được lập. Nếu không làm sao người ta có thể có những bản liệt kê những thứ tầm phơ như thế?
Dù có căm ghét hệ thống quản lý cán bộ ấy tới mức nào chăng nữa tôi vẫn phải khâm phục tính chất vô nhân và vô luân hoàn hảo của nó. Về hệ thống của Thọ cần có nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc trên hai bình diện: môi trường xã hội cần và đủ cho sự nảy sinh và tồn tại của hệ thống, cách vận hành nó. Ðảng cộng sản Việt Nam có quyền tự hào - trong lĩnh vực này kể cả Gestapo của Ðệ tam Ðế chế cũng khó sánh được với Ban Tổ chức Trung ương.
Bên cạnh Ban tổ chức Trung ương, Lê Ðức Thọ đặt ra Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương. Nó được lập ra để bảo vệ sức khoẻ cho các ủy viên Trung ương, nhưng chủ yếu là các Trung ương ủy viên cổ cánh, và trước hết là các ủy viên Bộ Chính trị. Theo quy định, cán bộ đã tham gia hoạt động cách mạng trước 9-1945 đều ntyle='height:10px;'>
- Văn Cao vốn thích nói thậm xưng. Nhưng thật sự là thế - tiết canh anh Phan đánh đông lắm, tôi chưa thấy ai đánh tiết canh tài bằng anh ấy.
- Ðánh thế nào?
Tôi nhẩn nha kể cho Huỳnh Ngự cách đánh tiết canh mà Phan dạy tôi. Ðành phải hy sinh bí quyết nhà nghề của anh để đưa Huỳnh Ngự ra xa cái đề tài nguy hiểm. Huỳnh Ngự nghe chăm chú, sau đó không vặn vẹo thêm nữa. Tôi đồ rằng trở về nhà y sẽ ghi công thức đánh tiết canh vào sổ tay.
Còn ai nữa là bác sĩ trong số người quen tôi? Mãi rồi tôi cũng nhớ ra bác sĩ Phan Thế Vấn. Nhưng với Vấn thì không thể nói rằng tôi quen. Chúng tôi có gặp nhau đôi lần ở nhà bạn bè, không nhớ là ở nhà Vũ Huy Cương hay nhà ai. Mọi người nhận xét Vấn là một tay Ivan. "Ivan" là một cách nói vui hồi ấy, chỉ một người không thích lối sống giáo điều, công thức, không chịu uốn mình theo khuôn phép của Ðảng, không cứ là một người theo Liên Xô, như bọn tự xưng mác-xít chân chính chụp mũ.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp Phan Thế Vấn ở Hà Nội. Anh hoạt động trong phong trào thanh niên học sinh. Năm 1956 anh được đi dự festival thanh niên và sinh viên thế giới ở Moskva. Ðó là vinh dự lớn cho một thanh niên trước kia ở trong vùng tạm chiếm, cho dù có hoạt động cho kháng chiến.
Vấn thì có thể bị bắt, tôi đoán.
Tôi không gặp Vấn lần nào nữa trong thời gian ở Bất Bạt, cũng như trong thời gian ở tù nói chung. Gặp lại anh tại Sài Gòn năm 1989, tôi hỏi có phải anh đã gọi tôi hồi ở Bất Bạt không thì anh nói không. Tôi ngạc nhiên: vậy còn ai trong những người bị bắt là bác sĩ? Hay đó là một bác sĩ quân y nào mà tôi không quen, nhưng biết tôi. Anh nhìn thấy tôi qua một khe hở phòng anh và anh muốn cho tôi biết tôi không đơn độc. Mà cũng có thể không phải thế. Nhưng nếu đây là trò của công an thì tại sao bị phát hiện nói chuyện với tôi anh ta lại bị chuyển đi ngay?
Trong trại giam - xà lim này, quản giáo bộ đội đối với chúng tôi tử tế hơn quản giáo Hỏa Lò. Họ mở cửa, đóng cửa, cho chúng tôi với nét mặt vô can - người ta bắt anh chứ không phải tôi bắt anh, tôi với anh không thù không oán, tôi cũng chẳng muốn thế này.
Trong nhà tù nét mặt, cách đối xử của quản giáo ảnh hưởng đến tâm lý người tù nhiều lắm. Một bộ mặt lầm lì, một cái nhìn hằn học cũng gây ra stress.
Tôi nhanh chóng làm quen được với một anh tù nhà bếp làm công việc gánh cơm cho các xà lim. Khi cho tôi ăn sáng, anh tù trẻ, mặt mũi sáng sủa, được phép đến sát cửa sổ để đưa cho tôi vài củ khoai hoặc mấy khúc sắn. Bữa trưa anh đặt phần cơm trên bể nước.
Anh tù thì thào cho tôi biết anh bị tòa quân sự kết án ba năm tù vì tội để xe bọc thép lăn xuống vực, làm chết đồng đội. Quen rồi, tôi mới lân la hỏi anh về những người tù không phải phạm binh trong trại.
- Tôi có thấy hai ông già. - anh nói.
- Một trong hai ông già là cha tôi đấy.
- Cụ nhà trông thế nào?
- Cụ tôi hói đầu.
Mỗi cuộc nói chuyện xảy ra nhiều nhất một lần trong một ngày, mà cũng chỉ giới hạn trong vài ba câu. Phải nói cho nhanh. Dứt lời, anh lại lặc lè quang gánh chạy đi.
- Cụ hói đầu có sẹo ở bụng, phải không? - một buổi sáng khác anh hỏi.
- Ðúng. Cụ tôi đấy. Cụ bị cắt mật.
Trong xà lim nóng, cha tôi cởi trần, nhờ đó anh bạn trẻ nhận ra đặc điểm.
- Còn cụ kia?
- Là thiếu tướng Ðặng Kim Giang.
- Cha mẹ ơi, vậy mà tôi không biết.
Hôm sau, anh móc trong lưng quần ra gói Tam Ðảo, ngó trước ngó sau rồi ném vào phòng:
- Cụ gửi cho anh.
Thì ra anh tù đã tự động báo cho cha tôi biết anh liên lạc với tôi.
Tôi xem xét cẩn thận gói thuốc. Nó có vẻ còn nguyên lành. Ðể ý thật kỹ thì thấy nó có bị bóc ra rồi dán lại. Tôi mân mê từng điếu. Không thấy gì. Ðó là gói thuốc kiểm tra. Cha tôi vốn cẩn thận. Ông không hấp tấp tin ai, trong hoàn cảnh này lại càng phải cẩn thận.
Một tuần sau, tôi lại nhận được gói thuốc nữa. Trong gói thuốc lần này có một điếu đáng ngờ. Dốc thuốc ở hai đầu đi tôi được một mẩu giấy cuộn tròn, trong đó có những hàng chữ nhỏ li ti:
"Nợ nước đời tôi trả đã tròn
Việc nhà gửi mẹ với đàn con
Trăm năm đầu bạc đành sai hẹn
Thủy chung tôi giữ tấm lòng son.
Con học thuộc mấy câu thơ này rồi đốt đi. Nếu bố không trở về thì đây là mấy lời cuối cùng bố gửi mẹ. Nói với mẹ bố xin mẹ tha lỗi vì đã làm khổ mẹ, nhưng bố không thể sống khác được. Cố gắng tập khí công, tập yoga để giữ sức khỏe chờ một ngày tươi sáng. Ðêm tối rồi sẽ qua, ma quỷ rồi phải chạy trốn mặt trời trí tuệ, cái ác sẽ phải quỳ gối trước lòng nhân ái. Bố của con."
Tôi ứa nước mắt. Cầu Trời Phật cho cha tôi sống được đến ngày gặp lại mẹ tôi và chúng tôi.
Nhờ anh bạn tù tốt bụng, tôi chuyển được một bức thư cho cha tôi. Tôi hứa với cha sẽ thực hiện lời người dặn. Ðến đó liên lạc giữa hai cha con chấm dứt.
Thỉnh thoảng Huỳnh Ngự gọi tôi ra, không phải để hỏi cung mà hỏi thăm sức khỏe. Y lúng túng lắm mỗi lần bị tôi hỏi về thời hạn giam giữ. Nó kéo dài quá rồi, vượt qua mọi giới hạn rồi. Không thể cứ một mực gầm thét, mà y biết là vô ích. Chính y cũng cảm thấy mệt. Giờ đây, như một y tá bên giường bệnh, y an ủi tôi, nói những lời sáo rỗng về lòng tin ở lượng khoan hồng của Ðảng, Ðảng sáng suốt, Ðảng là cha mẹ vv... Tôi thậm chí ái ngại cho y - y không đến nỗi quá ngu để không biết tí gì về pháp luật. Nhưng y không biết phải xử sự thế nào. Sự vi phạm pháp luật của các ông chủ y quá trắng trợn.
Trong những ngày ở xà lim Bất Bạt tôi thỉnh thoảng lại nhớ tới một câu nói của Hoàng:
- Tôi không muốn dọa anh. Dọa anh cũng chẳng được, tôi biết. Tôi tin anh dũng cảm, anh không sợ - anh đã bắt tay Thần Chết nhiều lần, như anh nói. Nhưng anh chưa biết đấy thôi - ở đời có nhiều cái còn đáng sợ hơn cái chết.
Hoàng đúng.
Chúng tôi không bị đánh đập, không bị giết. Chúng tôi chỉ bị chôn sống mà thôi.
Tôi không tưởng tượng nổi mình có thể sống trong một cái cũi hẹp, đúng hơn là một cái huyệt kim tĩnh kiên cố, với một tấm phản, một cái bô, một ống bương đựng nước. Không phải vài ngày, vài tháng, mà hàng năm. Một mình.
Trong một lần đi cung tôi gặp cô bộ đội dắt đứa con trai. Cháu bé chừng ba tuổi, lũn cũn bên mẹ. Nó nhìn tôi, nhoẻn cười. Tôi cười đáp, lấy tay vẫy. Nó cũng vẫy lại. Thằng bé mới kháu làm sao! Tôi ngây người ngắm nó. Như thể nó là một kỳ quan của thế giới. Như thể trên đời này tôi chưa từng nhìn thấy một đứa bé. Tôi đi chậm lại để được ngắm nó lâu hơn. Tôi cảm thấy mắt tôi rưng rưng.
- Ði nhanh lên! - viên quản giáo giục.
Mặc. Tôi đi ngang cháu bé. Tôi nhìn thấy những lông tơ trên đôi má phính mịn màng của nó. Tôi đi qua nó. Thật chậm. Cháu ngước nhìn tôi, đôi mắt trong veo, miệng lại nhoẻn cười. Người mẹ trẻ bồng nó lên tay. Cô nhìn tôi, cái nhìn đầy thương cảm.
Tôi ngoảnh lại, vẫy cháu bé. Nó vẫn nhìn theo, bàn tay tí xíu vẫn vẫy.
- Nhanh lên!
Viên quản giáo lại giục.
Ðứa bé xa dần.
Tôi đã biết ăn dè, tiêu dè. Khốn nạn, thì ra cuộc đời còn có cái dè khác - nhìn dè.
Một hôm, bên ngoài có tiếng cuốc lục cục, xoèn xoẹt trên mặt đất. Nhìn qua khe cửa sổ khép chặt, tôi thấy những bàn chân người đen đủi bước tới bước lui - đó là tù ở trại chung được đưa vào khu xà lim làm vệ sinh. Khi họ đi khỏi, cửa sổ lại được mở. Trước mặt tôi là một khoảng đất trống, không còn lấy một nhúm cỏ. Ngay trước cửa sổ phòng tôi chừng hai mét có một cây con mới được trồng, loe hoe mấy cái lá.
Thế là màu xanh cuối cùng của sự sống bị tước nốt. Mặt đất bệch ra những sỏi cùng đá. Tôi buồn xỉu.
Sau nhiều ngày sống lay lứt dưới nắng quái dữ dội, đặc biệt dữ dội ở trung du, cái cây quặt quẹo tưởng bị thiêu chết rồi đã đứng thẳng dậy, ngang ngạnh, bất khuất. Tôi thường ngậm nước trong miệng để phun cho nó. Việc tưới cây kiểu này chẳng dễ dàng - phải biết cách khéo léo để phun cho mạnh, phun cho xa và phải phun trúng.
Tôi đã ở đấy với cái cây từ lúc nó bé tẹo cho tới khi nó tỏa bóng mát. Trong cái huyệt kim tĩnh ấy.
Cái cây con ngang bướng cũng là ân nhân của tôi trong những năm tháng bị giam cầm. Nó dạy tôi phải biết nghiến răng lại mà sống.
Người "đồng vụ" đầu tiên mà tôi gặp ở đây là Trần Minh Việt. Chúng tôi háo hức thông tin cho nhau.
Ðể hình dung tù xà lim nói chuyện với nhau bằng cách nào, trước tiên phải kể đến cái tường ở Bất Bạt. Không hiểu tên khốn kiếp nào đã sáng tạo ra lối vẩy xi măng lên tường như thế? Phải là một tên kiến trúc sư cực kỳ đểu cáng, với trái tim thú dữ, mới làm ra được một bức tường ghê tởm như vậy. Nó xù xì, đầy gai nhọn và sắc. Người tù ngồi mỏi không dám dựa lưng vào đấy, dựa vào lưng sẽ rớm máu. Dùng tay gõ vào tường có thể gây thương tích. Tôi phải bọc vải vào tay mà gõ.
Cái khó là chúng tôi không sao thống nhất được ám hiệu truyền tin. Trước Cách mạng Tháng Tám tôi là một sói con(8) ở bầy Hồng Ðức. Anh sói già Vương Trọng Thành chẳng những dạy dỗ chúng tôi trở thành những đứa trẻ từ tâm với phương châm "mỗi ngày làm một điều thiện", mà còn dạy chúng tôi biết nhiều cái vặt vãnh mà hữu dụng khác, trong đó có ngôn ngữ morse. Trần Minh Việt chưa bao giờ là sói, là hướng đạo sinh, anh không biết đánh morse như thế nào. Thành thử chúng tôi đành dùng thứ tín hiệu thủ công, trong đó các chữ cái cứ dài mãi ra theo thứ tự, chẳng hạn chữ a gõ một tiếng thì chữ k phải gõ mười tiếng, chữ v gõ hai mươi mốt tiếng. Giữa các chữ là một khoảng lặng, kết thúc một từ là một tiếng gõ thật mạnh. Nói chuyện như vậy rất chậm. Thế mà trong một tháng ở bên cạnh nhau tôi đã thông tin cho anh được hết những gì xảy ra bên ngoài kể từ tháng 7 cho tới tháng 12 năm 1967. Khi anh được biết về thông báo số 1, số 2 của Lê Ðức Thọ, Trần Minh Việt đập rầm rầm vào tường:
- Ðồ chó đẻ! Thằng khốn nạn!
Hai tháng sau bỗng nhiên tôi bị chuyển đi nơi khác. Không lý do. Chắc chắn không phải việc chúng tôi liên lạc với nhau bị lộ.
Chúng tôi mỗi ngày một thô lỗ thêm cùng với thời gian bị nhốt. Một hôm tôi nghe tiếng Lưu Ðộng(9) oang oang vang động cả một vùng:
- Cút mẹ mày đi! Ðừng có mang mấy thằng mất dạy nhà mày ra dọa tao. Bảo cho thằng Lê Ðức Thọ khốn kiếp của chúng mày biết, tao ỉa vào mồm nó! Cả cái thằng Lê Duẩn ăn cứt nữa! Tao nguyền rủa con đĩ ngựa đẻ ra nó. Tiên sư chúng mày! Tổ bố chúng mày!
Nghe Lưu Ðộng chửi thật đã con ráy! Tiếng Lưu Ðộng ồm ồm không lẫn với tiếng người khác được. Nền văn hóa làm cho con người bớt thật đi, bớt được là mình đi trong sự bộc lộ cảm xúc. Thỉnh thoảng phải được sống nguyên sơ, sống hoang dã như thế mới sướng. Tôi còn muốn nghe Lưu Ðộng chửi nữa, nhưng đang chửi ầm ầm anh bỗng im bặt. Cơn giận dữ bùng lên qua nhanh, anh thấy ngượng với mình, thấy mình xử sự không xứng với tư cách trí thức.
Từ trong khúc ngoặt, viên y sĩ công an mặt xám ngoét, chạy như ma đuổi. Lính gác rầm rập chạy tới. Các cửa sổ đóng lại rầm rầm. Tôi ngồi trong bóng tối, lắng tai nghe những tiếng động từ bên ngoài. Có vẻ như không có gì xảy ra.
Chúng không đánh Lưu Ðộng. Nếu chúng đánh anh tôi phải nghe thấy - căn cứ tiếng chửi vọng tới phòng tôi thì anh ở gần tôi, cách một ô là cùng. Từ đó tôi không nghe tiếng Lưu Ðộng nữa - anh đã bị chuyển đi ô khác.
Tại trại Bất Bạt, chúng tôi còn được hưởng chế độ phơi nắng. Ðó là một chế độ đặc biệt, được dành riêng cho tù nhân xét lại. Nó không phải giờ đi dạo của tù nhân các nước khác mà ta thường thấy trên duyên. Tiếng mỗi cuốn sách bị quăng xuống sàn trong yên lặng giội vào tim tôi. Ðược cha mẹ giáo dục từ nhỏ thái độ kính trọng đối với sách báo, và nói chung đối với mọi sản phẩm của trí tuệ, tôi không ngớt ngạc nhiên trước hành động vô văn hóa của bọn mật thám ngày trước và bọn công an bây giờ. Về mặt này chúng không khác nhau. Dường như chỉ riêng có loại chúng sinh đặc biệt này là thích dày đạp lên trí tuệ. Chỉ có chúng mới cảm thấy lạc thú được phỉ nhổ trí tuệ.
Cuối buổi khám xét chúng thu được một bị lớn gồm tất cả những gì có chữ viết - bản thảo, thư từ, sổ ghi chép của tôi và của vợ tôi. Cả những băng ghi âm và bộ đầu từ dự trữ cho máy ghi âm chúng cũng thu tuốt.
- Máy ghi âm đâu? - Huỳnh Ngự hỏi.
- Bán rồi. - tôi đáp.
Y không bằng lòng thấy tôi trả lời trống không. Nhưng y hỏi trống không thì tôi cũng trả lời trống không. Lịch sự với y chỉ có thiệt.
- Ghê thật, dám chơi máy ghi âm. - y dài giọng
- Anh có biết phải có giấy phép mới được chơi máy ghi âm không?
- Không biết. Tôi dùng chứ không chơi.
- Trừ các cơ quan, tư nhân không ai được phép sử dụng máy ghi âm. Quy định của Nhà nước là thế, rõ chưa?
- Tôi chưa được thấy quy định này trên báo chí.
- Không phải quy định nào cũng cần phải đăng báo.
Nhân chứng hình thức cho cuộc khám xét là bà tổ trưởng dân phố, người quen của chúng tôi. Bà này tính tình hiền lành, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra, ngồi yên một góc với vẻ mặt buồn phiền vì phải tham gia vào việc làm bất nhẫn. Bà quay mặt đi, tránh nhìn cảnh đang diễn ra. Bây giờ, đứng giữa sân Hỏa Lò, trong lãnh địa của y, Huỳnh Ngự bé nhỏ khuỳnh khuỳnh hai tay chống nạnh, cái mặt quắt vênh lên: - Tôi hỏi: anh đang mần chi? - Các anh đưa tôi đến đây bảo đợi thì tôi đứng đây tôi đợi, chứ còn làm gì? - tôi nhún vai đáp - Ðợi ai, đợi cái gì, để làm gì, thì lại không thấy nói. Ðứng chán, tôi đi dạo. Anh muốn biết tôi làm gì à? Thì đấy, tôi đang ngắm cảnh. Xem nó có gì khác trước... - Nè, anh đừng có láo nghen! Anh chưa từng bị bắt, vô Hỏa Lò khi mô mà phách lối: coi nó có chi thay đổi? Ơ hay, cái lối gì thế này? Câu chuyện giữa chúng tôi vừa mới bắt đầu, hà tất phải giở giọng quát nạt? Một thứ đòn phủ đầu, có lẽ thế. Về sau mới biết tôi hiểu lầm từ láo của Huỳnh Ngự - ở quê hương y nó có nghĩa là không đúng sự thật chứ không phải hỗn láo. Còn thói lớn giọng, như sau này tôi được biết, là cố tật của y.
- Tôi sẽ giải thích cho anh hiểu: tôi đã vào đây một lần vào năm 1939 - không phản ứng, tôi thản nhiên đáp - Hồi ấy Mặt trận Bình dân(9) ở bên Pháp vỡ, bên này bọn thực dân tổng khủng bố. Cha tôi bị bắt. Bọn mật thám giở đủ ngón tra khảo không ăn thua, chúng cho phép mẹ tôi mang con vào thăm, hi vọng cha tôi sẽ đổi ý. Nhưng ông vẫn im lặng. Tôi còn nhớ chỗ này có một bức tường ngăn, còn ở góc đàng kia có một giàn nho điếc... Huỳnh Ngự hiểu ẩn ý trong câu nói. Y khịt mũi mấy cái, tìm câu đối đáp. Tìm không ra, y sẵng giọng: - Nè, anh có hiểu anh đang đứng ở nơi mô không đó? Nơi ni kêu bằng Hỏa Lò, biết nó là cái chi không? Biết, hả? Nói thiệt cho anh hay: anh bị bắt rồi đó! Tôi bật cười: - ỷa, anh tưởng đến giờ tôi còn chưa biết sao? Anh báo khí chậm: tôi biết ít nhất cũng cách đây hai tiếng đồng hồ rồi! - Theo tui!
Y hầm hầm ngoắc tay ra hiệu cho tôi đi theo. Tôi lẳng lặng theo y đi về phía ngôi nhà dài và thấp, đối diện với cổng Hỏa Lò.
Gần tới nơi Huỳnh Ngự đi chậm lại, nói với tôi:
- Nói thiệt cho anh hay: cơ quan an ninh thật ra cũng chưa muốn bắt anh mô! Loại cán bộ tép riu như anh bắt làm chi cho uổng công. Ðảng đã ra thông báo cho các anh thời gian để các anh tự khai báo. Nhiều người đã đến xin Ban tổ chức Trung ương cho được thú tội, họ có sao mô. Họ vẫn sống yên lành với vợ với con. Còn anh thì bị. Anh bị là bởi anh không biết đều. Nghĩ mà coi: trước Ðảng, anh là cái thứ chi? Anh chẳng là cái thá chi hết trọi. Một con muỗi mắt. Một hạt cát... Nhân tiện tui cũng cho anh hay: đích thân anh Sáu(10) ra lịnh bắt anh đó!
Tôi bật cười:
- Anh thật sự nghĩ rằng nếu tôi được Trưởng ban Tổ chức Trung ương đích thân hạ lệnh bắt thì hân hạnh nhiều hơn hay sao? Ai hạ lệnh bắt thì cũng thế cả thôi, anh hay anh Sáu, anh Ba, anh Năm(11), hay anh nào khác. Chưa tới lúc các anh phải đổ lỗi cho nhau.
Huỳnh Ngự đứng phắt lại:
- A! Anh láo! - y gầm lên, nếu như cái giọng the thé của y có thể gọi là gầm - Vào đến đây rồi mà vẫn còn láo! Anh nhớ lấy: đây là Hỏa Lò! Hỏa Lò, anh hiểu chưa?
Lần này tôi không lầm. Chữ láo mà y dùng lúc này chính là hỗn láo.. Chúng tôi bước vào một căn phòng không cửa, cửa một hàng song sắt có thể đẩy qua đẩy lại. Hai tên cô hồn đã có mặt, như từ dưới đất chui lên. Không hiểu chúng vào bằng đường nào, từ bao giờ. Chúng xun xoe bên Huỳnh Ngự, nhưng Huỳnh Ngự gạt ra. - Cởi quần áo!
Giọng nói hách dịch của Huỳnh Ngự làm tôi lộn ruột. Trước nay chưa có ai nói với tôi bằng cái giọng như thế.
Tôi quắc mắt nhìn y, cởi phăng áo bông, nhưng không đưa cho Huỳnh Ngự mà quăng nó xuống sàn, trước mặt y.
Y lườm tôi rồi lẳng lặng nhặt lên, lật qua lật lại, lộn trái các túi áo, bỏ các vật tìm thấy lên bàn: chùm chìa khóa, khăn mu-soa, ví tiền, các thứ giấy tờ lặt vặt... Tôi có thói hay ghi những điều cần nhớ lên những mẩu giấy bất kỳ rồi sau đó để vãi lung tung. Trong mấy mẩu giấy Huỳnh Ngự thu được có một mẩu tôi ghi lại những số biển đăng ký xe đạp của lũ cá chìm(12). Tôi ghi lăng nhăng chơi, chứ chẳng để làm gì. Tôi cũng có ý định chuyển cho các bạn để các bạn chú ý xem họ có bị theo dõi không, bởi vì bọn công an mật thường thay đổi nhau theo dõi các đối tượng, nhưng chưa kịp.
Trông cái cách Huỳnh Ngự lần từng đường chỉ ở nẹp áo bông, tôi nghĩ hẳn y ngờ tôi có mang một cái gì đó đáng ngờ trong người, một bức thư mật chẳng hạn. Nhưng chẳng có cái gì hết. Vừa khám y vừa chun mũi lại, chỉ dùng ngón cái và ngón trỏ, còn những ngón khác vểnh lên, như sự đụng chạm với quần áo của tôi làm y gớm. Tôi nhớ tới tên mật thám Pháp khám nhà chúng tôi năm 1939, cung cách cũng y như vậy. - Cởi nốt! Tôi lột nốt sơ-mi, quần, quăng tuốt xuống đất. Ðứng mãi cũng mỏi, Huỳnh Ngự ngồi thụp xuống, lần mò khám xét đống áo quần dưới chân tôi. Trong bộ cánh mùa đông bằng dạ đen hai cổ tay gày gò với những ngón tay khô xác thò ra ngoài hai ống tay áo cũn cỡn, trông y giống một con ruồi trâu. - Há mồm!
Tôi há mồm. Cặp mắt nhỏ và khô của Huỳnh Ngự nghiêng ngó qua tròng kính viễn nhìn sâu vào hốc miệng tôi. Chẳng lẽ y thực sự nghĩ trong đó có gì? Y có vẻ mặt thất vọng. Cuộc bắt cóc giữa đường được tổ chức chu đáo, một cách bất ngờ nhất, đã không mang lại kết quả.
Trên người tôi chỉ còn áo may-ô, quần đùi. Ðể chơi chướng, tôi cởi tuốt tuột vứt xuống cho y. Căn phòng không có cửa, gió thông thống. Trong bộ cánh Adam tôi phải cố gắng để không run rẩy. Mùa đông đến muộn, thời tiết mấy ngày qua đặc biệt khó chịu, nay nóng mai lạnh. Mới hôm trước còn nóng như đầu thu, hôm nay từ nửa đêm về sáng trời đột nhiên trở rét. Càng về chiều nhiệt độ càng xuống thấp. Một anh công an đứng bên bàn ái ngại nhìn tôi rồi lẳng lặng bỏ ra ngoài. Quay lại, anh ta đưa cho tôi bộ đồng phục tù mới tinh: áo cánh, quần dài chân què, với những sọc lớn màu huyết dụ trên nền nâu non. Thứ quần áo tù này tôi đã nhìn thấy trên báo, trên người các phi công Mỹ. Nhưng báo chỉ in đen trắng, không biết màu gì. Huỳnh Ngự cho anh ta một cái nguýt dài. - Cảm ơn anh. - tôi nói. Bộ quần áo mới tinh, còn chua mùi hồ. Tôi lóng ngóng mặc. Không hiểu nhà thầu nào đã may thứ quần áo kỳ cục này: áo không cúc cài, quần không dải rút, hồ lại quá dày làm cho nó cứng như mo nang. Trong phòng không có gương, nhưng tôi cũng hình dung ra hình ảnh tức cười của tôi trong bộ cánh mới: áo vắt chéo vạt lại cho kín mà vẫn hở ngực, quần thắt lá tọa kéo cả hai ống lên cao để lộ đôi cẳng chân. Không thấy gì đáng ngờ trong số đồ vật thu được, Huỳnh Ngự chuyển sự chú ý qua bông hồng Nam Dương. Y gỡ tờ pơ-luya mà anh Lưu bọc cuống hoa (anh thích làm đẹp cho bất cứ cái gì), soi nó lên nền trời xám xịt. Bỏ kính ra, đeo kính vào chẳng thấy gì, y sai một tên cô hồn bật đèn để soi lên ánh điện. Cũng chẳng có gì ở trong đó. Một trong mấy tên phụ tá dùng ngón trỏ và ngón giữa cặp lấy tờ giấy, nhẹ nhàng bỏ nó vào một bao polyethylen, hẳn để đem đi xét nghiệm. Cảnh tượng diễn ra trước mắt tôi giống đoạn tả vụng về trong một cuốn truyện trinh thám rẻ tiền.
Huỳnh Ngự hỏi tôi: - Bông hồng ni ở mô ra? Tôi nhún vai. Y dằn giọng lặp lại câu hỏi. - Một người bạn tặng tôi.
Ngó nghiêng bông hồng thêm một phút, y nheo mắt nhìn tôi:
- Mật hiệu, hử?
Cái lối nhìn thấy gián điệp ở bất cứ chỗ nào của các nhà thực hành chuyên chính vô sản làm tôi ngán quá. Biết trả lời tên này thế nào cho y vừa lòng? Tôi ném cho tên Sherlock Holmes(13) nội hóa một cái nhìn khinh bỉ.
- Bông hồng ni ở mô ra, tui hỏi anh?
- Tôi nói rồi: một người bạn tặng tôi.
- Ai?
Nói hay không nói cho cái thằng quan cách mạng này biết bông hồng là của anh Lưu? Biết thế này chẳng nhận bông hoa cho xong. - Tôi đợi mãi cây hồng mới trổ bông này để tặng cụ nhà. - anh Lưu nói khi cắt cho tôi cành hoa - Phải là người sành thưởng hoa như cụ mới đánh giá được công sức tôi chăm bẵm cây hồng quý. Tiếc quá, đến lúc có được bông đầu tiên thì cụ lại bị rồi. Thôi thì anh thay mặt cụ nhận món quà mọn này cho tôi, kể như tôi thực hiện được ý mình muốn.
Trong cái sân rộng bốn thước vuông đầy ắp cây cảnh, dưới ánh sáng mờ mờ lọt qua tấm ni lông rách, trông anh gày quá, xanh quá. - Tôi rất quý cụ. Hồi 45 cụ nhà ta có cấp cho tôi một cái giấy ra vào Bắc bộ phủ để chụp ảnh Cụ Hồ đấy. Cụ nhà khoáng đạt lắm, đối với văn nghệ sĩ thì ba chê(14) được...Chà, thật là buồn. Tôi không sao hiểu nổi: những bậc tiền bối cách mạng ngày trước vào sinh ra tử có nhau, sao mà bây giờ lại có thể tàn nhẫn với nhau đến thế? Cụ Hồ bây giờ ở đâu? Tôi còn giữ được tấm phim chụp Hồ với cụ nhà ta đứng bên nhau trên tàu Dumont Durville năm 46, khi tàu vừa cập bến Hải Phòng...Tôi sẽ in tặng anh một tấm... - Cảm ơn anh. Bây giờ nó không còn giá trị gì đối với tôi nữa. - À nhỉ, thế mà tôi không nghĩ ra.
Liệu tôi nói ra tên anh Lưu tên nhà quê này có làm phiền anh không? Anh đang mang bệnh, gia đình đang gặp khó khăn, có thể nói là túng quẫn. Nhưng không nói ra còn lôi thôi hơn. Chúng nó theo dõi tôi từng bước, chúng nó đã biết tôi đến nhà ai trong buổi sáng nay. Chắc chắn, nếu nghi ngờ chúng sẽ đến tận nhà anh Lưu, sẽ cật vấn anh, sẽ khám xét...Giữa lúc anh đang ốm đau! Sau một lát ngần ngừ, tôi nói:
- Có gì đáng giấu đâu. Bông hồng do một nghệ sĩ nhiếp ảnh tên là Trần Văn Lưu tặng tôi. Các anh có thể xác minh chuyện này dễ dàng.
Có vẻ cái tên Trần Văn Lưu chẳng nói lên điều gì với y.
- Trần Văn Lưu, hử? Ðược!
Y hí hoáy ghi sổ tay.
Bọn này có thể làm phiền anh lắm, tôi nghĩ. Mình ngu hay hèn khi nói ra tên anh? Trần Văn Lưu là một lãng tử chính cống trong nghệ thuật. Cả cuộc đời anh, anh không ngớt mơ ước về một salon ảnh nghệ thuật của riêng anh, trong đó anh sẽ là chúa tể các thứ ánh sáng làm ra Cái Ðẹp. Ðến ngày đó anh sẽ trở thành Mạnh Thường quân cho chúng tôi, đám nghệ sĩ thất cơ lỡ vận, hay là "thất cơ lơ vận" theo cách nói đặc biệt Hà Nội của anh. Chúng tôi chờ mãi cái ngày mai tươi sáng, khi "salon Trần Văn Lưu" ra đời. Tiếc thay, nó chẳng bao giờ ra đời cả. Không, chúng chẳng làm được gì hơn một vài lần gọi Trần Văn Lưu đi thẩm vấn. Anh sẽ có thêm một chuyện cười để kể cho bè bạn. Sẽ có vô số người bảo đảm cho anh, rằng với chính trị anh không có quan hệ thân tình.
Tôi nhớ lần chót chúng tôi uống cà phê với nhau ở quán Lâm Toét trên đường Nguyễn Hữu Huân. Chẳng hiểu ai gieo vào đầu Trần Văn Lưu và Bùi Xuân Phái(15) ý nghĩ sản xuất mực bút máy để bán. Thời kỳ này mực bút máy tốt rất hiếm. Bùi g bênh vực Khmer Ðỏ. Cả thế giới lên án Khmer Ðỏ vì tội ác diệt chủng. Người Kampuchea đã hoan hỉ đón quân đội Việt Nam vào Kampuchea đánh đuổi Khmer Ðỏ. Nhưng không phải vì thế mà họ hoan nghênh quân đội Việt Nam chiếm đóng nước họ. Hai việc khác nhau không thể nhập một, không thể lấy cái tốt nọ để che cái xấu kia.
Sự kiện Khmer Ðỏ tấn công vùng biên giới Tây Nam hoàn toàn không phải là lý do để Việt Nam đưa quân sang chiếm đóng đất nước người khác(13). Không một người Việt Nam nào muốn đưa con em mình đi chết ở đó. Nhưng bất chấp dư luận, Duẩn - Thọ cứ xua quân sang. Làm gì nhau tốt? Rồi để quân lại đó, cũng làm gì nhau tốt? Ðảm bảo cho hành động phiêu lưu quân sự này đã có Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt-Xô, thực chất là hiệp ước liên minh quân sự, ký ngày 3.11.1978. Ông chiếm Kampuchea đấy, thử đụng vào ông coi thử? Ðàng sau ông là Liên Xô hùng mạnh với tiềm lực nguyên tử dồi dào, thằng nào muốn đụng đầu với Liên Xô cứ việc nhảy vào. Cũng giống như vụ Liên Xô chiếm đóng Afganistan, thế giới phản đối om xòm, nhưng chẳng ai dại gì thò tay vào ổ kiến lửa. Kể cả nước Mỹ.
Ai cũng thấy rằng sau những cuộc chiến tranh dai dẳng trên đất nước mình, các nhà lãnh đạo Việt Nam lẽ ra phải đủ tỉnh táo để chỉ làm một cuộc chiến tranh hạn chế khi Khmer Ðỏ cả gan vượt biên giới, tàn sát người Việt. Cùng lắm, có thể truy kích chúng, với mục đích răn đe, rồi rút quân về. Có thể để lại trang bị, vũ khí giúp nhân dân Kampuchea chống lại bọn diệt chủng. Gia dĩ có thể đào tạo cán bộ giúp họ. Và chỉ thế mà thôi. Nhân dân Kampuchea sẽ ghi ơn các chiến sĩ Việt Nam. Thế giới sẽ hoan nghênh Việt Nam biết xả thân giúp đỡ hàng xóm láng giềng trong cơn hoạn nạn.
Cuộc chiến tranh không tuyên bố ở Kampuchea đã xảy ra. Nó là cuộc chiến tranh không tuyên bố vì Quốc Hội không được hỏi ý kiến về cuộc chiến tranh này. Không hề có một cuộc biểu quyết nào tại Quốc Hội về việc đưa quân đội ra ngoài biên giới. Nhà nước Việt Nam không hề tuyên chiến với nước Kampuchea. Quốc Hội là cơ quan quyền lực tối cao của quốc gia, nhưng nó chẳng có quyền gì cả. Quốc Hội do Ðảng nặn ra, là tay sai của Ðảng, hơn nữa còn là tay sai bị khinh rẻ, đến nỗi Ðảng không cần dùng đến nó cho một việc hợp pháp hóa thông thường.
Thiếu tướng Hồ Quang Hóa, ủy viên Trung ương Ðảng, người được Thọ đưa lên và cũng do Thọ mà trở thành vật hiến tế trong vụ Xiêm Rệp (Siam Reap)(14) nói rằng vụ này cũng như mọi việc lớn việc nhỏ khác ở Kampuchea, đều do Lê Ðức Thọ chỉ đạo. Thái thú Lê Ðức Thọ phế truất Tổng bí thư kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Pen Xô Van(15). Thái thú Lê Ðức Thọ đưa cô y tá Quân khu 7 Miên Xam On vào Trung ương Ðảng Nhân dân cách mạng Kampuchea. Cô gái dân tộc Kmer ở Việt Nam 26 tuổi lên chức vèo vèo: làm Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, rồi ủy viên Bộ Chính trị. Cô lên nhanh như thế, theo các cán bộ Việt Nam có mặt tại Kampuchea hồi ấy, là nhờ thường xuyên ra vào ngôi biệt thự sau điện Chăm Ca Mon để được thái thú "dạy dỗ".
Cần phải làm rõ sự thật này một cách dứt khoát: cuộc chiến tranh ở Kampuchea là cuộc chiến tranh của Ðảng cộng sản Việt Nam. Không phải là cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam.
Liên minh Duẩn - Thọ đã biến một dân tộc hiền hòa thành quân xâm lược.
Cũng có thể cãi cho Lê Duẩn chút ít, rằng trong việc này ông ta không phải là đầu vụ. Còn đang say sưa với chiến thắng 1975 và những chương trình lớn, nhiều ảo tưởng hơn thực tế, Lê Duẩn hầu như mặc Thọ muốn làm gì thì làm. Ông ta cũng chẳng thiệt. Cuộc phiêu lưu Kampuchea do Thọ lo toan, xét cho cùng, vẫn cứ mang lại cho Lê Duẩn thêm một vinh quang. Mà vinh quang thì không bao giờ thừa.
Lê Duẩn không biết trong lòng Thọ đang nung nấu mưu đồ lớn. Nếu Thọ thành công trong việc dựng nên một chính phủ Kampuchea vâng lời Thọ thì Thọ sẽ có thêm một sức mạnh quyết định trong mưu toan nặn ra một Liên bang Ðông Dương. Trong Liên bang này Thọ sẽ là đồng chí trên hết các đồng chí. Ðến lúc đó Lê Duẩn sẽ chỉ là bí thư một nước thành viên mà thôi.
Ðám đệ tử Lê Ðức Thọ quá hí hửng về tiền đồ sáng lạn đã để lộ mưu đồ đó ra ngoài. Văn Cao có kể cho tôi nghe chuyện người của Thọ đã gặp những nhạc sĩ nào để gợi ý họ viết quốc thiều cho Liên bang Ðông Dương. Những nhạc sĩ nhận lời được Lê Ðức Thọ mời cơm tại nhà. Ông Bùi Công Trừng có lần nói với tôi: "Thằng Thọ nhiều tham vọng lắm, cháu ơi. Quan sát kỹ động thái của nó cháu sẽ thấy: mọi việc nó làm đều dẫn tới một cái đích - hất Lê Duẩn. Mà không phải chỉ nhằm cái chức tổng bí thư đâu, cái đó chưa đủ cho lòng tham của nó. Nó còn muốn làm tổng bí thư Liên bang Ðông Dương kìa". Như vậy, từ những nguồn tin khác mưu đồ của Thọ cũng đã tới tai Bùi Công Trừng. Ông không ưa Lê Duẩn, nhưng không vì thế mà ông ưa con chuột chũi đang đào hầm dưới ghế Duẩn.
Khi Lê Duẩn phát hiện được mưu toan của Thọ nhằm phế truất mình thì Lê Duẩn căm Thọ lắm lắm. Ðến mức thẳng cánh đuổi Thọ ra khỏi nhà trong lần Thọ đến chia tay với tổng bí thư đang hấp hối. Người trong gia đình Lê Duẩn cho biết Duẩn gọi vỗ mặt Thọ là "thằng phản bội".
Cũng theo tướng Hóa, Lê Ðức Thọ đã lẩn trốn trách nhiệm trước vụ Xiêm Rệp, cũng như nhiều vụ khác nữa, viện cớ bận họp, bận chữa bệnh.
- Anh hãy tìm cho tôi một kẻ dám chống lệnh ông Sáu vào thời gian ấy. - tướng Hồ Quang Hóa nói với tôi trong một bữa cơm ở Sài Gòn - Không ai được phép tự ý làm một việc gì nếu không có lệnh ông Sáu.
Cuộc phiêu lưu quân sự được tiến hành theo sáng kiến và sự chỉ đạo của Lê Ðức Thọ đã làm cho khoảng 52.000 chiến sĩ chết trận, 200.000 chiến sĩ bị thương(16). Chẳng những thế, nó còn làm cho dân tộc Việt Nam bị nhục nhã trước thế giới trong bộ mặt kẻ xâm lược, bị tẩy chay, bị trừng phạt.
Nước Việt Nam được gì, mất gì ở Kampuchea? Tại sao cho tới nay Ðảng cộng sản Việt Nam không dám nói tới, không có can đảm nhận lỗi trước những người láng giềng đau khổ để xóa đi một trang sử nhơ nhớp? Thọ đã chết trước khi phải ra đứng trước vành móng ngựa một phiên tòa liên tịch hai nước, với tư cách tội phạm chiến tranh.
Người duy nhất đủ tư cách thay mặt Thọ hôm nay là Lê Ðức Anh.
(1) Chính khách Hoa Kỳ, sinh năm 1923, cầm đầu phái đoàn Hoa Kỳ trong cuộc hòa đàm tại Paris năm 1973.
(2) Máy bay dành riêng cho các vị lãnh tụ.
(3) Theo hồi ức của ông Ngô Thế Tân, Việt kiều ở Pháp, chồng họa sĩ Nguyễn Thị Lựu, thì vào những năm 1926-1927 khi ông Tân còn là học sinh trường Canh nông Tuyên Quang thì vào "một đêm trăng mờ mở cuộc họp đông chừng vài chục người trong một khu rừng nhỏ. Không ai nhìn rõ mặt ai. Tóm tắt lại đây là đại diện một đảng có mục đích hoạt động bằng đủ mọi cách để lấy lại độc lập cho tổ quốc... Mãi đến năm 1956-1957 khi tôi ở Pháp trở lại Hà Nội anh bạn Vũ Ðình Huỳnh mới cho tôi biết người đảng viên bí mật nằm rừng tuyển mộ đảng viên ở trường Canh Nông hồi đó chính là anh...Nay anh đã khuất mà tôi cũng chẳng hay hồi ấy anh ở đảng nào..." Theo các nhà cách mạng thế hệ già Lê Ðức Thọ hồi ấy còn là học sinh.
(4) Tên thật của Lê Ðức Thọ.
(5) Cả ở đây là lớn, to, đầy.
(6) Bộ com-lê âu phục.
(7) Chỉ cấp thấp nhất trong các ngành, ở địa phương chứ không phải ở Trung ương.
(8) Bí mật, do hai chữ đầu b và m.
(9) Màn bí mật che phủ cái chết của Ðinh Ðức Thiện chẳng có lợi gì cho nhà cầm quyền. Nhưng người ta đã bị nô lệ cho thói quen không công khai và cam chịu tác hại của nó.
(10) Bí mật mà ai cũng biết.
(11) Mười Vân xuất thân là một nông dân với học lực lớp 4, bắt đầu được thăng quan tiến chức từ khi làm đội trưởng đội Cải cách ruộng đất tại Hòa Bình.
(12) Những người chạy trốn sự cai trị của cộng sản, di tản bằng thuyền, được thế giới gọi bằng cái tên "thuyền nhân" (boat people), đông tới một triệu rưỡi nhân mạng, là một vết nhơ không thể nào tẩy sạch trên mặt Ðảng cộng sản Việt Nam. Phần lớn thuyền nhân đi từ miền Nam Việt Nam nhằm hướng Mã Lai, Indonesia, số ít đi từ Hải Phòng, vùng mỏ Quảng Ninh nhằm hướng Hongkong. Có thể hình dung những người chủ trương "phương án 2" đã thu được một số lượng vàng lớn đến thế nào. Mười Vân có tội đã nâng giá "mở cửa" từ hai ba cây vàng lên tới mười, mười hai cây vàng cho một đầu người ra đi, gây nên cơn tức giận có lý ở cấp trên của y. Cho nên y bị đưa ra làm vật hiến tế cũng đáng.
(13) Theo những người lính từ chiến trường Kampuchea trở về kể lại thì thời gian đầu người dân Kampuchea rất vui mừng chào đón quân đội Việt Nam tiến sang tiêu diệt Khmer Ðỏ để cứu sống họ. Nhưng việc quân đội Việt Nam ở lì đó năm này qua năm khác đã gây ra một hậu quả xấu xa, nó trở thành quân đội xâm lược, một thứ lính lê dương, và người Kampuchea đã chống lại nó, từ quân Khmer Ðỏ cho tới cả quân của chính phủ bù nhìn Heng Xomrin.
(14) Vụ phản tình báo đã đưa vào xiếc Bộ chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam. Sự việc như sau: căn cứ vào tin đồn do Khmer Ðỏ, có sự chỉ đạo của các cố vấn Trung Quốc, tung ra thì hầu hết cán bộ lãnh đạo tỉnh Xiêm Rệp đều đã làm việc cho Khmer Ðỏ. Bộ chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam liền ra tay đàn áp, không cần hỏi ý kiến ban lãnh đạo Ðảng bạn. Hơn bốn chục cán bộ của chính quyền Hun Xen bị bắt, bị tra tấn thành thương tật, Bí thư tỉnh ủy tỉnh Xiêm Rệp tự sát. Trong thời kỳ này Lê Ðức Anh là Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam, Hồ Quang Hóa - tham mưu trưởng. Ðứng trên tất cả là Lê Ðức Thọ.
(15) Trước khi làm Tổng bí thư Ðảng cộng sản Kampuchea Pen Xô Van làm trưởng phòng quảng bá tiếng Khmer trong Ðài phát thanh Tiếng nói Việt Nam.
(16) Theo những nguồn tin quân sự đáng tin cậy.

Truyện Đêm giữa ban ngày Tự Bạch Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 c Pháp pas = không. Một cách nói thịnh hành năm vào những năm 40 tại Hà Nội.
(15) (1921-1988) Họa sĩ Bùi Xuân Phái rất nổi tiếng trong số những họa sĩ tiên phong cách tân hội họa Việt Nam. Ðặc biệt, với một loạt tranh các phố cổ Hà Nội, Bùi Xuân Phái trở thành người khám phá một thủ đô chưa ai biết. Vì những bức tranh này nhà văn Nguyễn Tuân đặt tên cho các phố cổ Hà Nội là phố Phái.
(16) Victor Tardieu, họa sĩ Pháp, từng đoạt giải hội họa Ðông Dương năm 1920. Là bạn học của các danh họa Rouault và Matisse. Ông đã tích cực vận động chính phủ bảo hộ cho thành lập trường Cao đẳng Mỹ thuật. Khóa đầu tiên của trường này (năm 1925) đã cho ra các họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Lê Thứ... Nguyễn Sáng, Diệp Minh Châu tốt nghiệp trường này năm 1940.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Mõ Hà Nội
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--
Truyện Cùng Tác Giả Đêm giữa ban ngày Miền Thơ Ấu