CHƯƠNG 29

Trời hoe hoe nắng. Cái nắng đầu xuân như ngỡ ngàng sau một mùa đông băng giá. Thấy có nắng, Chiêu Thánh lên tiếng gọi:
- Huyền ơi! Huyền! Huyền ơi, ra đây chị bảo này.
Trịnh Huyền đang loay hoay với mái gà xuống ổ, nghe tiếng Chiêu Thánh gọi, vội chạy túa ra sân.
- Thưa, có điều gì chị sai bảo em đấy ạ.
- Đây này, em đã nhìn thấy gì chưa?
- Ôi, thích quá! Thích quá chị Chiêu Thánh ơi. Tằm sắp nở ra cả rồi. May quá, mấy hôm nọ trời rét, em cứ sợ trứng ung hết. Đem xuống bếp để, em lại sợ nó chết sặc khói. Lứa dâu này là kịp đấy chị nhỉ. Để chiều nay em phải pha nước dải tưới thúc cho nó lên mau.
Chiêu Thánh khẽ lắc đầu:
- Chưa cần phải thúc đâu em ạ. Qua kỳ rét lộc này ấm lên, cứ gọi là hái không xuể. Em không nhớ năm ngoái đấy à, chị em mình cứ sợ thiếu lá, thúc mãi phân tro vào, dâu vuột lên rồi đứng lá. Đến lúc tằm ăn rỗi dâu quá lứa, tằm chê không ăn. Chị em mình chả phải đi hái khắp làng đấy ư. Theo chị, cứ để từ từ. Tằm lớn đến đâu, thúc dâu đến đó.
Thấm thoát Chiêu Thánh về ở mảnh đất bên chùa Bảo Quang này đã được hơn chục năm. Chiêu Thánh đã lập riêng một điện để phụng thờ vua cha và Phật tổ. Ngày hai buổi sớm chiều nàng tụng niệm. Nhưng vẫn giữ đều, tháng đôi lần vào các ngày rằm, mồng một sang chùa làm lễ vua cha. Càng lớn, Chiêu Thánh càng khôn nguôi thương cảm nỗi bất hạnh của cha mình. Nhớ mãi cuộc gặp vua cha lần cuối ở Điện chí kính. Những lời khuyên dạy của vua cha như còn văng vẳng. Cả những lời nguyền rủa các người trong phe cánh họ Trần, Chiêu Thánh vẫn còn nhớ rành rõ như mới hôm qua thôi. Nhất là ánh mắt lạnh lùng đầy căm ghét của vua cha đối với mẫu hậu. Đã nhiều lần Chiêu Thánh nguyện trước linh hồn vua cha và xin người tha thứ. Nàng không thể nào thực hiện được lời vua cha, rằng phải trừ khử hết phe cánh họ Trần. Chiêu Thánh tự biết, đó là do sự uất kết của vua cha, chứ tình thế bây giờ khác lắm rồi. Làm sao mà đảo ngược được thế cờ. Vả lại, Thái tôn ít lâu nay đã tự mình giữ lấy then máy quốc gia. Nhà vua đức độ, dân chúng được hưởng ơn mưa móc, còn ai nghĩ đến vua cũ nữa. Ngay đến các đại thần nhà Lý cũng quy phục nhà Trần, tỏ tài mẫn cán, một lòng một dạ thờ vua mới. Thôi thì vua nào cũng được, triều nào cũng xong. Đối với đám dân đen, họ không cần biết đến ai là người nắm giữ quyền hành. Cái mà họ cần là non nước thái bình. Không có giặc giã. Không lụt lớn, cháy to. Tô thuế giảm nhẹ. Lao dịch khoan thứ. Nhà nhà có bát ăn bát để. Khốn nỗi các điều đó, khởi nghiệp nhà Trần đã lo liệu rồi. Và họ làm được. Sống bên nếp chùa thanh tĩnh, sớm tối cầu việc phúc, Chiêu Thánh dần dần nhận ra được sự thật đau lòng đó. Và nàng chấp nhận như là lẽ đời phải vậy. Bởi thế, nàng không có gì ân hận, tủi buồn. Nàng an phận đến nỗi quên cả tấm thân danh giá, mà lam lũ trong việc chăn tằm, ươm tơ. Dệt lấy lụa mà dùng. Cày cuốc lấy lúa gạo mà ăn. Một thầy một tớ, sống cuộc đời đạm bạc, lấy câu kinh, tiếng mõ làm lẽ sống cho mình. Bạn bầu với cây cỏ cho qua ngày đoạn tháng. Thân không thế phát, nhưng tâm đã gửi trọn cửa từ bi. Ấy là nói về phần Chiêu Thánh.
Còn Trịnh Huyền thì lại khác. Trịnh Huyền từ khi quan thừa chỉ bỏ kinh thành ra đi, nàng như bị hụt hẫng, như mất hẳn chỗ dựa tinh thần. Đôi lúc cũng âm thầm ngao ngán. Nàng phải nén dấu tình cảm xót xa đau để Chiêu Thánh đỡ buồn. Hoặc những khi trời đổi gió, chuyển mùa, Trịnh Huyền lại bồi hồi nhớ tới mẹ già. Thương mẹ thân góa bụa cô đơn, lại nghèo túng, lấy ai săn sóc, phụng dưỡng khi nắng hạ, lúc rét đông. Có lúc soi bóng trong gương nàng giật mình thấy nước do sạm mốc, và những vết rạn chân chim nơi khóe mắt, tự xót thương cho thân phận hẩm hiu. Nhưng nàng không hé một lời than, dường như nàng chấp nhận và đón đợi những gì cay đắng mà số phận giành cho nàng.
Ấy vậy, nhưng mỗi khi nhớ về cô chủ của mình, Trịnh Huyền cảm thấy yên phận. Bởi chưng, Chiêu Thánh thân lá ngọc cành vàng, mà kiên tâm chối bỏ cảnh lầu son gác tía, kẻ hầu người hạ, xe kiệu vào ra, yến tiệc linh đình. Dấn thân vào cảnh nông tang lam lũ. Chưa một lần nào nàng thấy cô chủ hé miệng than van. Nhiều khi thấy Chiêu Thánh ủ buồn, Huyền khuyên nàng nên vào cung thăm quốc mẫu. Chiêu Thánh đều thoái thác. Có nhẽ nàng cũng đã có đôi phần nguôi ngoai. Vì nếu như trước kia, mỗi lần Huyền nhắc tới quốc mẫu, thì Chiêu Thánh đùng đùng nổi giận, kể lể, khóc than suốt buổi không thôi. Bây giờ, nàng chỉ ư hừ cho qua chuyện. Trịnh Huyền nhớ cách đây vài năm, thái sư phu nhân có ghé thăm Chiêu Thánh vào lúc sẩm chiều. Và đêm đó, bà ở lại ngôi nhà tranh vách đất lạnh lẽo này với con gái. Bà tỏ ra xót thương cho con gái tự đầy thân vào cảnh khổ. Đôi lần bà gạn ép Chiêu Thánh trở về cung. Lúc đầu cô chủ Trịnh Huyền còn im lặng. Mãi sau nàng nói. Giọng trầm tĩnh của một người dường như không còn biết đến, hoặc giả không cần biết đến cảnh đời bon chen là gì nữa. Nàng nói:
- Phu nhân thử nghĩ xem. Bấy lâu nay phu nhân vẫn ở tại cung, phu nhân có sung sướng gì không. Ngay bây giờ đây, ghé chốn lều tranh tẻ nhạt này, có đúng là tình mẫu tử thôi thúc phu nhân ra đi. Hay chỉ vì trong lòng phu nhân có điều gì u uất? Phu nhân buộc phải ra khỏi cung để được phút giây giải thoát. Và vì thế, phu nhân mới lạc bước tới đây.
Quốc mẫu rùng mình run sợ về những lời nói tàn nhẫn của con gái. Những tiếc thay, nó là sự thật. May nhờ có bóng đêm che giấu giùm khuôn mặt nhợt nhạt, và cặp mắt thất thần của bà. Mãi lâu sau bà mới lên tiếng. Giọng bà lạc đi, như không còn tự chủ được nữa:
- Đúng như con nói. Ta tuy thân ở trong cung, mà tâm không bao giờ được thư tĩnh. Con quả là cao thượng. Như con bây giờ mới là người sung sướng. Bởi con đã làmi mấy năm nay nhà vua không được điều hành việc triều chính. Tất cả công việc đều thâu tóm trong tay Trần Tự Khánh, anh ruột của hoàng hậu Trần Thị Dung. Từ năm ngoái, (Quí Mùi - 1223) Trần Tự Khánh chết, quyền hành ấy được chuyển sang Trần Thủ Độ, em họ y - Anh em nhà nó ép ta phải ốm. Chúng bắt ta phải ký vào chiếu do chúng thảo sẵn, để chúng lừa bịp triều đình và sai khiến trăm họ.
Chúng giam hãm ta tại một căn nhà ẩn mãi phía sau nội điện, bốn mặt tường cao, hào sâu, lính canh nghiêm cẩn. Ngay việc ta đi lại thăm hỏi các con ta, chúng cũng cản trở. Thật sự chúng biến ta thành một tên tù.
Ngẫm nghĩ giây lát, thị nữ bèn tâu:
- Trình bệ hạ, quả là quan điện tiền Trần Thủ Độ có năng lui tới cung hoàng hậu. Nhưng các bậc bề trên bàn tính chuyện gì thì kẻ hầu hạ chúng con không được biết. Lưỡng lự một thoáng, thị nữ lại tiếp:
- Tâu bệ hạ, người có nhắn bảo gì quan thừa chỉ, con sẽ thưa lại. Quan thừa chỉ có nhờ tâu cùng bệ hạ rằng: “Người gắng giữ gìn tấm thân muôn quí, để còn lo việc lớn cho thiên hạ. Bêï hạ nhất nhất không được tỏ lộ một điều gì khinh xuất, bởi gia nhân và tai mắt họ Trần nhan nhản đầy triều”.
Nhìn về phía non Tản, mặt trời ánh lên một màu tím sẫm, thị nữ chắp tay vái nhà vua ba vái, rồi nói:
- Lạy trình bệ hạ, mặt trời đã gác núi phía tây, xin bệ hạ kíp trở về hậu điện kẻo quân canh nghi ngờ.
Nhà vua chợt hỏi:
- Vậy chớ bao giờ thì ngươi lại gặp ta?
- Tâu bệ hạ. Con không được phép vãng lai vào khu hậu điện. Xin cũng cứ vào giờ này thi thoảng bệ hạ dạo chơi quanh đây, nếu có tin tức gì con sẽ tìm cách bẩm báo để bệ hạ tỏ tường - Xin bái biệt. Nói xong thị nữ vái dài rồi vụt biến mất, khiến Huệ tôn ngơ ngác, vì chưa kịp hỏi tên nàng.
Trở lại căn nhà vắng lặng như chốn mồ hoang, Huệ tôn sắp phải dùng bữa cơm chiều đạm bạc, thường do một tên lính tốt đưa vào. Nhìn mâm cơm, nhà vua không nén nổi cơn giận, bèn gọi tên lính quát mắng:
- Kẻ kia, về nói với chủ mày tàn ác vừa vừa chứ, không thì chết cả ba họ chúng bay đấy. Tiếc thay ta không nghe lời mẫu hậu, để cho cái dòng họ khố rách áo ôm nhà chúng mày lọt vào triều đình, để đến bây giờ chúng mày tác yêu, tác quái.
Tên lính tốt nhìn lại mâm cơm vua, bây giờ nó mới nhận ra là sơ sài đạm bạc quá. Thật chẳng hơn gì bữa cơm lính. Nhưng biết làm thế nào, nó là lính chỉ biết tuân theo lệnh của người trên. Nó còn được quan đô áp dặn, nếu nhà vua có thét mắng hoặc hờn dỗi không ăn thì cứ việc trả lời: “Khắp nơi loạn lạc, triều đình không thu được thuế. Dân trong nước chết đói gần hết rồi. Nay mai quân giặc sắp ùa vào kinh thành. Đến gạo hẩm, cơm tấm cũng chẳng có mà ăn”. Tuy đã được quan đô áp căn dặn, tên lính tốt cũng không dám hé răng cãi lại nhà vua. Trái lại, nó còn thấy nhen lên một cái gì đó ở trong lòng, như là sự thương cảm ở tình người. Nó chỉ thương ông vua mất hết quyền bính, thân phận như một tên tù.
Đuổi tên lính và bắt nó bê cả mâm cơm đi rồi, nhà vua nằm thở. Bây giờ ngài mới thấy thấm mệt. Vừa đói, vừa mệt, nghĩ lại lời quan thừa chỉ dặn, nhà vua thấy hối hận: “Việc ta mắng nhiếc những kẻ họ Trần kia, quả là khinh xuất. Kẻ kia sẽ ra sức tìm cách ám hại những bầy tôi còn trung thành với nhà Lý”.
Đêm phủ lên kinh thành một màu huyền đục. Bốn bề im lặng. Tiếng chó sủa thưa dần. Tiếng dế, tiếng trùng bật lên rền rĩ như tiếng những oan hồn than khóc. Đĩa đèn của nhà vua ngọn bấc đang lập lòe, ông biết dầu đã cạn. Nhà vua nghiến răng như muốn nghiền nát kẻ nghịch thần bạo ngược. “Y không cho ta lấy một người thiếp hoặc một tên nô để sai khiến. Đến dầu thắp, y cũng chỉ phát cho ta từng đêm. Mà cũng chỉ đến giờ này là lụi bấc. Chao ôi, đạo vua tôi đến thế là cùng! Lại còn con mụ vợ ta nữa. Gần một năm nay mụ không còn đoái tưởng gì đến ta. Quyền bính trong hoàng gia một tay mụ thâu tóm. Quyền hành nơi triều chính do em mụ thống lĩnh. Ta ngu tối vì quá tin kẻ ngoại tộc, đến nỗi trở thành trò cười cho chúng nó. Chị em nhà mụ lúc nào cũng cặp kè với nhau. Bên ngoài, chúng che dấu dưới những điều to lớn như việc nước, việc nhà. Kỳ thự bên trong thì chúng tư thông với nhau. Nghĩ tới đây, nhà vua rùng mình ghê tởm, ngài vội nhắm mắt lại, miệng nam mô niệm Phật. Vì chính ngài không dám tin rằng, con người ta dám làm những điều luân thường bại lý như vậy. Ngọn bấc chợt bừng sáng lên rồi phụt tắt. Đúng lúc, ngoài chòi quan điểm ba tiếng trống sang canh. Tuy căm tức nhưng Huệ tôn thầm khen cho tên rót dầu thật là tài, và tên lính đánh trống cũng thật đúng giờ. Vì đêm nào cũng vậy, cứ vào lúc ngọn bấc phụt tắt là trống sang canh ngoài hoàng thành lại điểm.”
Bình tâm, nhà vua nhớ lại cuộc gặp giữa ngài với quan điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ, không lâu trước ngày đức vua bị bức phải ký vào chiếu nhường ngôi.
Bữa đó trời nóng, nhà vua cởi trần, ngồi đánh cờ một mình. Vì gần một năm nay, Huệ tôn không được ló ra ngoài, không được tiếp xúc với ai, kể cả vợ con. Buồn đến nẫu ruột, tưởng như chứng loạn tâm lại tái phát, nhà vua phải bầy ra chuyện giải khuây, bằng cách đánh cờ. Cuộc cờ đã gần mãn, rút vào thế. Một bên là tốt nhập cung, chỉ cần thọc một nước xe nách là bên kia hết cờ. Một bên chịu nước xe lệch. Nhà vua đang mãi mê lo cho thế cuộc đôi bên, thì Trần Thủ Độ xộc vào. Ông bước đi hùng dũng, thanh trường kiếm đeo trễ một bên hông. Nhà vua chợt ngửng lên. Thủ Độ lướt nhanh trên bàn cờ, rồi nhìn thẳng vào khuôn mặt nhợt nhạt của Lý Huệ tôn, ông nói:
- Tâu bệ hạ, tàn cuộc rồi, đánh ván khác thôi!
Huệ tôn nén giận đáp lời qua giọng nói run run:
- Chẳng cần đánh thì nhà ngươi cũng thắng ta rồi.
- Vậy là bệ hạ đã nắm được cái nhẽ mạnh, yếu ở đời. Tôi xin đi thẳng vào việc.
- Ngươi cứ nói.
Huệ tôn vẫn ngồi trên chiếc giường sơn then, mắt lơ đãng ngắm nhìn vài chiếc quân ngà lạc lõng, kỳ thực tâm trí nhà vua đangở ngước nhìn, tai lắng nghe tiếng sáo bổng trầm dịu dặt, từ trời cao dội xuống như một thứ nhạc tiên. Góc kia là một cụm tới ba bốn cây đu. Từ xa đã nhìn thấy những dải yếm hồng, những tà áo nâu, quấn quít tung bay trên nền trời. Những tay đu giỏi đánh giật tung ròng rọc, bụng chấm lá cờ giải treo trên đỉnh cột đu. Họ cứ vờn như thế tới vài ba lần, để khách xem dưới gốc đu thả sức reo hò, rồi họ mới thò tay ra giật lấy lá cờ. Khi bàn tay của người tranh giải chớm đặt vào mép lá cờ, khách xem nín thở hồi hộp, vừa mừng vừa lo. Khi lá cờ tuốt ra khỏi cán, và chạc đu đung đưa theo nhịp chậm dần, thì tiếng reo hò tưởng như long lở cả kinh thành. Biết bao nhiêu trò chơi khác như đua thuyền, kéo co, vật, đấu võ, múa khiên, múa rồng, chọi gà, chọi chim, chọi trâu, đua ngựa…
Trên đây là những trò chơi dân dã mở ra cho dân chúng kinh kỳ, và dân các lộ kéo về dự hội. Còn tại sân Long Trì lại có cuộc chơi riêng của giới quí tộc cung đình. Đó là môn đánh cầu được coi là môn chơi quí phái của giới thượng võ. Trên chiếc sân rộng ở hai đầu đông, tây dựng hai cầu môn. Trước cầu môn là một chiếc giá để cắm cờ có hai mươi bốn lỗ. Cuộc chơi tính điểm theo cách, nếu quân bên nọ đẩy được cầu qua vòng cầu môn bên kia thì được tính một điểm. Viên thông sự xá nhân bèn cắm một lá cờ vào giá. Bên nào giành trước được đủ hai mươi bốn lá cờ, bên ấy thắng cuộc.
Cầu là một quả bóng tròn bằng da, trong nhồi lông căng phồng, bắt đầu cuộcc hơi, quan nội thị mở chiếc hộp vàng, lấy ra quả cầu da sơn đỏ, ném xuống sân Long Trì. Nhạc nổi lên rộn rã. Quân hai bên lần lượt cưỡi ngựa ra sân. Bên đông quân vàng, bên tây quân tía. Đuôi ngựa gióc thắt màu sắc phục của mỗi bên.
Tướng Lê Tần cưỡi con ngựa bạch dẫn đầu quân tía. Tướng Khuê Kình cưỡi con ngựa hồng cầm đầu đám quân vàng. Mỗi tướng tay cầm một cái trượng dài, hai đầu cong và bẹt dùng để lấy cầu. Tay kia cầm cương ngựa. Hai tướng dẫn quân mình ra trước mỗi cầu môn. Trống chiêng khua vang dội. Thái tôn uy nghi trong bộ triều phục, cưỡi con ngựa ô long phủ yên cương vàng. Nhà vua một tay nắm cương ngựa, tay kia xách chéo cây trượng dài, tế ngựa tới trước quả cầu thì nhạc ngừng bặt. Nhà vua thúc cho ngựa lồng lên rồi ngoái lại dùng cây trượng gẩy cho quả cầu tung lên. Trống chiêng lại nổi lên từng bừng. Hai tướng dẫn theo cả một lũ người ngựa ùa ra tranh cầu. Cuộc chơi bắt đầu. Nhà vua bèn lui về kỳ đài ngồi với các đại thần để xem cuộc tranh tài cao thấp…
Dân chúng kinh kỳ không chỉ có nô nức đi xem các giáo phường diễn, hát, mà còn tham dự đủ các trò vui. Nhưng có nhẽ điều gợi cho người kinh sư óc tò mò nhất, là việc cung cấm mở cửa trưng bày các của hồi môn của công chúa, và đồ dẫn cưới của Trung Thành vương. Thôi thì đủ thứ áo quần, vóc lụa, nhiễu gấm sang trọng của Trung Hoa, Ba Tư, Tây Trúc như muốn đua tranh với một số hàng nội địa như the, lụa, đũi, lĩnh… của các vùng cửi canh nổi tiếng như La, Bưởi, Sài …
Những đồ trang sức bằng vàng, bạc chạm trổ tài hoa của các tay thợ nổi tiếng Đồng Sâm, Hàng Bạc. Nào vòng cổ, vòng tai, vòng tay, đai áo, mũ miện la liệt tới hàng trăm thứ, nom lóa cả mắt. Những loại hồng ngọc, bích ngọc, lưu ly, kim cương được nạm vàng thành những hoa tai, vòng cổ, hoặc những con giống nhỏ xinh, khiến người xem không hết kinh ngạc về sự sang giầu, xa phí của chốn quyền môn. Ngoài những đồ lụa, tơ, vàng, ngọc ra, còn phải kể tới áo quần, chăn ủ, lồng ấp bằng các loại lông thú, như hổ, báo, chồn, rái cá… Lại nữa, các đồ gốm sứ rất phong phú như Bát Tràng, của Đông Sơn. Từ những bức tranh sứ về cảnh thuỷ mặc, hoặc tứ dân, hoặc lục súc tranh công, tới các lọ hoa, chậu cảnh, độc bình, thạp, thố, tới các loại chén, bát, đĩa, mâm và các con giống bằng sứ gốm nhiều màu, nhiều cảnh. Những đồ sứ gốm của ta, đặt cạnh đồ sứ gốm của các thời Đường, Tống từ vóc dáng, tới hoa lá, men màu, mỗi bên có một nét đẹp riêng, chẳng thể nào lấn át được nhau. Qua đồ gốm sứ lại tới đồ đồng. Nào mâm, chậu, nồi, xanh, chảo… tới các đồ thờ như cây nến, đỉnh và tượng phật. Đây mới chỉ nói tới của hồi môn. Còn các đồ dẫn cưới, tuy không nhiều bằng, nhưng cực kỳ sang quí, chỉ có thể kiếm được ở các vương quốc giàu có ngoài Đại Việt như La Mã, Trung Hoa, Ba Tư, Thổ Phồn…
Từ bữa nhà vua mở đại hội, Quốc Tuấn không ra khỏi nhà. Không phải chàng tráng sĩ được hâm mộ nhất kinh thành này đang ham mải luyện rèn kiếm cung, hoặc nghiên cứu binh thư đồ trận gì. Con tuấn mã theo thói quen sáng nào cũng được chủ dắt ra khỏi tàu ngựa, thắng yên cương và phi nước đại tới Giảng Võ đường, lượn một vòng quanh trường võ rồi đi vào các bài tập nhảy vượt chướng ngại như: gò, đống, sông, suối. Nhưng đã ba sáng nay, sau một hồi hí dài con ngựa lại gục đầu lắc bờm, đập móng ngóng chờ chủ. Dù người giám mã có vỗ về, nựng nịu thế nào thì con tía mật cũng không chịu bước chân ra khỏi tầu. Và nó ăn uống cũng chểnh mảng.
Trong thư phòng của Quốc Tuấn, những “Tôn tử binh pháp”, “Ngô gia binh pháp”, “Tôn tử thập gia chú”… xếp chồng đống lên nhau, mờ mờ bụi phủ.
Quốc Tuấn làm gì? Chàng ở lì trong cung, đi quanh quẩn trong bốn bức tường, như một con sư tử vừa bị nhốt vào cũi. Chàng ngao ngán nghĩ về cảnh người yêu sắp đi lấy chồng. Chàng đã yêu mê mệt công chúa Thiên Thành - Bông hoa rực rỡ nhất của Thăng Long hoa lệ. Sắp tới ngày cưới - Thiên Thành còn nói với Quốc Tuấn: “Thiếp sẵn sàng bỏ kinh thành đi trốn cùng vương”. Nhưng trốn đi đâu? Và tại sao phải đi trốn? Quốc Tuấn, một con người trí dũng, tự tin không chấp nhận một cuộc đi trốn. Không cùng nhau đi trốn, nhưng cũng không thể để mất nàng vào tay Trung Thành vương được.
Quốc Tuấn cũng mệt mỏi, cũng tù túng, chẳng khác gì con tuấn mã của chàng. Tất cả những dằn vặt của Quốc Tuấn không lọt qua mắt của công chúa Thụy bà. Vừa là cô ruột, vừa là mẹ nuôi, bà hiểu tâm trạng Quốc Tuấn, cũng như bà biết mối tình thầm lén giữa Quốc Tuấn và em gái bà. Song duyên phận của Thiên Thành đã được đích thân hoàng thượng chọn lựa. Nay đã tới lễ kết tóc, sao có thể đổi thay được nữa. Đôi lần bà đã toan khuyên can Quốc Tuấn. Rồi lại nghĩ: cứ để lễ cưới của Thiên Thành qua đi, Quốc Tuấn khắc biết tự xử. Còn như bây giờ, mọi sự khuyên bảo, chẳng khác gì tưới thêm dầu vào ngọn lửa si tình đang bùng cháy trong lòng chàng, nên Thuỵ bà vẫn cứ im lặng dõi theo.
Điều làm cho Quốc Tuấn băn khoăn, giữa lúc cần gặp gỡ Thiên Thành nhất, thì nàng đã được đón vào ở ngôi biệt điện trong cung Nhân Đạo vương. Mặc dù nàng đã hứa không chung thân với Trung Thành vương. Nhưng làm sao chàng có thể yên tâm được. Thiên Thành đến ở trong cung nhà Nhân Đạo vương, để tiến hành lễ kết tóc với Trung Thành vương, có khác chi đem mỡ đặt trước miệng mèo.
Quốc Tuấn cứ loay hoay suy đi tính lại mãi, chưa biết định liệu ra sao. Nom chàng ủ dột như một con ngựa chiến bị trọng thương, đứng rũ bờm tiếc nuối cảnh tung vó chốn sa trường giữa rừng thương, biển lửa. Quốc Tuấn vẽ ra hàng trăm kế trong đầu, song nó cứ mông lung mờ ảo như khói như sương, chưa biết liệu tính ra sao. Giữa lúc đó tên gia nô đẩy cửa bê mâm cơm chiều vào dâng Quốc Tuấn. Chàng đã toan vẫy tay cho y trở lui, giống như bữa sáng, bữa trưa chàng đã làm. Nhưng chẳng biết thế nào chàng lại vẫy tay gọi y vào. Tên gia nô hớn hở đặt mâm cơm vào kỷ, chắp tay đứng hầu.
Quốc Tuấn uống một hơi hết ba bát rượu, thấy đã nong nóng phía vành tai. Chàng đưa cặp mắt sáng rực nhìn về phía cửa sổ, thấy trắng xoá một trời trăng. Lòng bâng khuâng nhớ tới Thiên Thành, Quốc Tuấn đứng dậy toan lao ra cửa. Tên gia nô hốt hoảng kêu:
- Bẩm tiểu tướng, người chưa dùng cơm.
Như sực tỉnh, Quốc Tuấn lại ngồi xuống mỉm cười. Gia nô xới cơm. Chàng miễn cưỡng ăn mà hồn như phiêu lãng đâu đâu. Chợt ngẩng nhìn gia nô, chàng khẽ gọi:
- Nô!
- Dạ. Bẩm tiểu tướng dậy con điều gì ạ?
- Nếu vào cảnh ngộ ta, mi sẽ làm gì?
Gia nô ngơ ngác nhìn tiểu chủ, rồi đáp với vẻ hết sức tự nhiên:
- Bẩm, nếu con ở cảnh ngộ của tiểu tướng, thì con đã uống cạn be rượu kia, và ăn hết mâm cơm này từ lâu rồi ạ.
Quốc Tuấn bật cười, hơi gắt:
- Đồ con tườu. Ta có hỏi mi việc ăn uống đâu.
- Dạ, bẩm tiểu tướng, con tưởng người ở vào cảnh ngộ nhịn đói suốt một ngày, thì bây giờ phải ăn thôi chứ còn có chuyện gì nữa?
- Nô! Nghe ta hỏi đây.
- Dạ, con đang nghe.
- Mi có biết chuyện ta với công chúa Thiên Thành không?
- Dạ, trước con biết lơ mơ ạ.
- Thế còn bây giờ thì sao?
- Dạ, bây giờ thì tiểu tướng đã nhịn đói suốt cả một ngày, còn bên cung, công chúa đang mở hội. Công chúa trang điểm rực rỡ, đẹp như một nàng tiên và chỉ mong cho chóng tới ngày làm lễ kết tóc với Trung Thành vương.
- Đồ súc sinh! Quốc Tuấn đập tay xuống kỷ, quát lớn:
- Có đúng như mi nói không?
Tên gia nô làm ra bộ ngơ ngác, khép nép thưa:
- Bẩm tiểu tướng, sao lại không đúng ạ. Cả kinh sư này ai mà không biết chuyện ấy.
Dường như Quốc Tuấn đã nhận ra sự thật cay đắng, chàng dịu giọng hỏi gia nô:
- Cứ cho rằng, điều mi nói là thật đi.
- Dạ, bẩm tiểu tướng, gia nô vội cướp lời Quốc Tuấn - Bẩm tiểu tướng, hiển nhiên là thật rồi chứ còn giả nữa hay sao. Còn hai ngày nữa là đến lễ kết tóc rồi.
- Thôi được, Quốc Tuấn mệt mỏi thừa nhận - Cứ cho rằng đó là sự thật đi. Nhưng nếu ngươi ở vào cảnh ngộ ta, người sẽ làm gì?
Mặt gia nô ngây ra với vẻ đần độn. Một thoáng y ngó ra cửa, nhìn thấy trăng rằm dãi trắng cả trời đêm. Y gật gù với vẻ thận trọng, như nói với chính mình:
- Nếu vào cảnh ngộ con. Dù có xả thân con ra thành trăm mảnh, con cũng không bỏ người đẹp.
Nom bộ mặt nghiêm trang của y, Quốc Tuấn hiểu y nói thật lòng. Chàng tự nghĩ: “Vậy là nhân cách ta không bằng tên nô bộc”. Trong óc chàng vụt lóe một âm mưu. Chàng quay ra nói gia nô:
- Mi dọn ngay đi. Quốc Tuấn chỉ tay vào mâm cơm - Ta mệt, đêm nay ta muốn đi nghỉ sớm.
Gia nô vừa ra khỏi cửa, Quốc Tuấn vội mặc áo quần gọn ghẽ, nai nịt chặt chẽ, rồi dắt thanh đoản đao vào thắt lưng, tắt đèn lên giường nằm. Chừng canh ba, chàng nhỏm dậy rồi lao vút vào đêm sáng nhòe trăng.
Mờ sáng, gia nô về bẩm với công chúa Thụy bà các việc xảy ra trong đêm. Công chúa hốt hoảng, mặt tái mét như không còn giọt máu, hấp tấp lên kiệu vào ngay nội điện.
Nội tẩm cửa vẫn còn đóng im ỉm, nhà vua chưa tỉnh giấc vàng. Do dự một lát, Thụy bà giơ tay đập cửa thình thình.
Ngỡ có biến, Thái tôn vội choàng lên người chiếc áo vóc, quơ lấy thanh trường kiếm phía đầu giường, rồi nhón gót nhìn qua hàng con tiện phía trên cánh cửa bức bàn.
Chỉ thấy có một mình công chúa Thụy bà, nhà vua bèn mở cửa ra hỏi:
- Có việc gì mà chị vào cung sớm thế? Sao mặt chị tái nhợt thế kia?
Thụy bà, giọng run run:
- Không ngờ Quốc Tuấn nó điên cuồng, rồ dại, đêm qua, dám vượt rào lẻn vào chỗ Thiên Thành ở. Nhân Đạo vương đã bắt giữ lại rồi. Sợ nó bị giết. Xin bệ hạ thương cho, sai người đến cứu!
Thái tôn “hừm” một tiếng, rồi quở:
- Quân càn giỡ!
========.
Viết xong tại Giảng Võ
Ngày 24 tháng 11 năm 1988

Xem Tiếp: ----

Truyện BÃO TÁP CUNG ĐÌNH Lời Tòa soạn Tựa CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 CHƯƠNG 14 CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 16 CHƯƠNG 17 CHƯƠNG 18 CHƯƠNG 19 CHƯƠNG 20 CHƯƠNG 21 CHƯƠNG 22 CHƯƠNG 23 CHƯƠNNói xong, Trần Thủ Độ cười sằng sặc, khiến Lý Huệ tôn càng hoang mang khiếp sợ.
Với giọng bạc nhược, nhà vua nói:
- Ta thật sự không biết làm gì trong lúc này, mong ông hết lòng giúp ta.
Trần Thủ Độ bèn thò tay qua tấm áo tía đại trào, nơi thêu cái đầu hổ phù trước ngực, rút ra một tờ chiếu thảo sẵn. Đọc xong, nhà vua thất kinh hỏi:
- “Sách lập Chiêu Thánh làm hoàng thái tử”. Lạ quá! Lạ quá! Biến hoàng nữ thành hoàng nam, trong đời ta chưa từng thấy, mà lịch sử các đời cũng chưa từng có.
Trần Thủ Độ cười khẩy:
- Chúng ta là những người làm ra lịch sử, bệ hạ thử xét xem, trước bệ hạ đã có triều đại nào, chỉ hai cha con kế tiếp trị vì thiên hạ, đã biến đổi được một dân tộc hùng anh như Đại Việt này thành một lũ ăn mày. Cũng chỉ trong vòng mấy chục năm cha con bệ hạ đã tiêu diệt tới nửa số dân của mình bằng đói kém, dịch bệnh. Nếu bệ hạ tiếp tục nắm giữ ngôi trời, tôi tin với tài năng và trí tuệ của bệ hạ, chẳng bao lâu bệ hạ sẽ hoàn tất sứ mệnh diệt chủng!
- Sao khanh quá nặng lời. Chẳng qua chỉ tại tiên đế ham mải các thú vui, còn ta thì bệnh tật dày vò…
Với lòng khinh bỉ, Trần Thủ Độ rút chiếc bút lông thỏ đã quết son gài sau búi tóc đưa cho nhà vua.
Lý Huệ tôn xăng xái rót vào chén trà vài giọt nước xấp xấp ngọn bút lông, ông xoay xoay tờ chiếu rồi nắn nót viết ba chữ tên mình. Đoạn ông đẩy tờ giấy ra xa rồi lẩm nhẩm đọc lại lời văn, và ông dừng lại rất lâu nơi ba chữ ký, tuồng như ông có vẻ mãn nguyện vì vừa làm được một việc độc nhất có ích trong đời…
Vừa đói, vừa mệt, vừa chập chờn hãi sợ, Huệ tôn chìm mình vào giấc ngủ muộn.
=====
(1). Họ Trần xuất thân từ nghề đánh cá ở vùng biển Nam Định, Thái Bình, Huệ tôn gọi với ý khinh miệt.
(2), (3). hai miền đất khi nhà Trần dời từ Chí Linh về để lập nghiệp. Phủ Long Hưng thời Trần nay là huyện Hưng Hà - Thái Bình. Tức Mạc nay là đất ngoại thành Nam Định.
(4). Tháng 7 năm Kỷ tỵ (1209), Cao tôn giết Bỉnh Di vô tội. Bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc phá cửa Đại thành đánh thẳng vào cung, lập hoàng tử Thầm em ruột Huệ tôn lên làm vua. Huệ tôn phải chạy loạn về thôn Lưu Gia, phủ Long Hưng, gặp nhà Trần phò giúp từ đây.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: báo bình định
Được bạn: ms đưa lên
vào ngày: 12 tháng 3 năm 2007

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--