Dường như khi trở thành một chàng trai mười tám tuổi, không chú bé nào là không phấn khởi. Đối với tôi cũng vậy, đó là một ngày kỳ diệu vô cùng.
Tôi còn nhớ trước đó hai năm, khi một đứa bạn cùng lớp hí hửng khoe: "Thế là năm nay tao mười tám tuổi", tôi đã ghen tị một cách khổ sở với hạnh phúc của nó. Mặc dù lớn xác như nó, đi học trễ hơn bạn bè hai, ba năm, chẳng được cái vinh dự gì ngoài mỗi "ưu điểm" to con nên được cô chủ nhiệm phân làm lớp trưởng. Tuy nhiên mười tám tuổi vẫn cứ là mười tám tuổi, vẫn cứ là cái tuổi oai vệ, đáng ao ước và đầy bí mật đối với bọn nhóc tì như tôi. Lúc đó, tôi đã cay đắng vô cùng khi nhận ra rằng mình phải phấn đấu đến hai năm đằng đẵng nữa mới được như nó.
Thế rồi mải học hành, mải vui chơi, tôi quên béng mất sự mong ngóng nôn nao của mình. Đùng một cái, nó tới lúc nào chẳng hay, cái tuổi mười tám ấy. Nó tới và nhe răng cười với tôi, vào một buổi sáng rực rỡ đầy ắp nắng hồng và hương thơm.
Mười tám tuổi, tôi có hai niềm vui rộng lớn, hai bước đi quan trọng trong cuộc đời: một chân bước vào ngưỡng cửa người lớn, và một chân chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa đại học.
Cửa người lớn thì rộng, trẻ em tới tuổi cứ xộc vào tự do, chẳng ai cấm cản hay soát vé. Nhưng cửa vào đại học thì không phải dành cho tất cả mọi người. Muốn vào phải thi mà phải thi đậu kia!
Quê tôi không có trường đại học. Hồi nhỏ tôi học cấp một ở trường xã, những ngày lười đi học bị mẹ vác roi rượt chạy tới tận cổng trường. Lên cấp hai, phải ra trường huyện. Lên cấp ba, lại ra tỉnh lỵ. Trường tỉnh chỉ mới mở lớp mười. Tôi tính học xong lớp mười sẽ xin ra thành phố học tiếp. Nhưng tôi vừa học xong lớp mười, trường mở thêm lớp mười một. Tôi học hết lớp mười một, trường lại mở lớp mười hai. Tôi đã học lê lết hết trường này đến trường khác nhưng thật tôi chưa thấy trường nào dễ thương như trường tôi đang học. Làm như ban giám hiệu sợ tôi buồn nên cứ mở hết lớp này đến lớp khác cho tôi học.
Nhưng đến khi học hết lớp mười hai thì tôi đành phải giã từ tỉnh lỵ. Lúc đó, tôi đã thi đỗ tú tài hai với hạng bình thứ, một thứ hạng thường thường bậc trung nhưng cũng đủ cho tôi dọn đường vào đại học.
Những học sinh tỉnh lẻ miền Trung như tôi, muốn vào đại học phải chọn hai nơi: hoặc ra Huế, hoặc vào Sài Gòn. Tôi phân vân hoài không biết nên đi ra ngõ ngoài hay đi vào ngõ trong. Ba tôi lúc này ở xa, không góp ý gì cho tôi được. Là sĩ quan quân đội, ông bị điều động đi hết nơi này đến nơi khác, năm thì mười họa mới tạt về thăm gia đình. Ở nhà chỉ có mấy mẹ con tôi. Mẹ tôi thì suốt đời lo chuyện nội trợ trong nhà, đâu có rành ba cái chuyện "tiến thân" của tôi.
Tôi hỏi thì mẹ tôi hỏi lại:
- Vậy chớ thằng Hoa đi đâu?
Hoa là thằng bạn thân cùng lớp tôi hay dẫn về nhà chơi.
- Nó đi Huế! - Tôi đáp.
- Vậy thì mày đi Huế học cho có anh có em!
Cái kiểu mẹ tôi trả lời, muốn nghe cũng được, không nghe cũng không sao. Cái câu đó có nghĩa là: "Tùy mày!".
Tôi bỏ ra đường quốc lộ đứng trông Nam trông Bắc một hồi. Cuối cùng, tôi quyết định xuất hành về hướng Nam. Kệ, đi Sài Gòn cho biết, tôi nhủ bụng, còn Huế thì mình đã đến một lần rồi!
Chuyến đi Huế của tôi xảy ra cách đây năm năm. Lúc đó tôi mới mười ba tuổi. Đó là một chuyến đi chẳng thú vị gì và bắt đầu bởi một tai họa không đâu. Một bữa trưa, đang ngồi ăn cơm, thấy hai con chó giành nhau khúc xương, cắn lộn ầm ĩ dưới gầm bàn, tôi liền đưa chân... can thiệp. Con Bi lễ phép, thấy chân chủ thò ra, cúi đầu chào một cái rồi cụp đuôi lảng mất. Còn con Mi-nô đang say máu, tưởng chân tôi là cục xương, bèn nhe răng đớp một phát, máu chảy ròng ròng.
Bị chó nhà cắn tưởng chuyện bình thường, không dè hai ngày sau con Mi-nô tự nhiên lăn đùng ra chết, mõm sùi bọt. Mẹ tôi hoảng lên, nghi con Mi-nô bị dại, bắt tôi đi chích thuốc.
Thuốc trị bệnh chó dại của viện Pasteur lúc đó chỉ có ở Qui Nhơn hoặc ở Huế. Nhưng ở Qui Nhơn, tôi không có bà con thân thích. Chú Năm, em ruột ba tôi, là trung sĩ quân y, đang đóng ở Huế. Thế là tôi theo cô tôi lên đường ra đất thần kinh, bụng thon thót cứ sợ chết dọc đường.
Vừa ra đến nơi, tôi chưa kịp thở đã vội vã theo chú Năm đến bệnh viện. Cái bệnh viện đó lớn nhỏ như thế nào, bây giờ tôi không nhớ. Ngược lại, tôi nhớ mãi, nhớ đến già cái mũi kim to sụ lầm mũi chích vào da bụng tôi cái thứ thuốc đùng đục, đau muốn thấu xương. Mỗi khi chích thuốc xong, bụng tôi nổi lên một cục to bằng quả trứng gà, dọc đường từ bệnh viện về nhà tôi phải lấy tay xoa mãi.
Ngày này qua ngày nọ, liên tiếp hơn nửa tháng trời, cứ khoảng chín giờ sáng tôi lại đến bệnh viện chích thuốc, thoạt đầu chú Năm dẫn tôi đi, về sau tôi đi một mình. Những lúc rảnh rỗi trong ngày, tôi cũng theo chú Năm đi đây đi đó nhưng trong trí nhớ của tôi những thắng cảnh của Huế nhạt nhòa hơn mũi kim tiêm kia nhiều. Nhưng dù sao tôi cũng đã đặt chân đến Huế.
Còn Sài Gòn thì trước nay tôi mới chỉ nghe nói đến, mới chỉ đọc trong sách báo, xem trong phim ảnh. Trong trí tưởng tượng của tôi, Sài Gòn như là một nước nào đó, kỳ diệu và lạ lẫm. Hiếm hoi lắm mới có một người ở quê đi Sài Gòn. Khi về, họ kể trăm chuyện lạ lùng, người lớn con nít ngồi bu quanh nghe như nghe chuyện cổ. Có người đi khoảng nửa tháng về, tiếng nói nghe cũng đã khác. Thay vì nói "trời đất ơi", họ lại kêu "chèng đéc ơi", nghe lạ hoắc. Họ không nói "khát nước quá xá" như trước đây mà nói "khát nước quá à ơi". Như thằng Bảo con ông Năm Khang, đi Sài Gòn về ghé nhà tôi chơi,ó chuyện gì vậy, Quỳnh? - Tôi hỏi.
_ Khi nãy chị Trâm nói gì anh vậy? - Giọng Quỳnh buồn buồn.
Tôi chối phắt:
_ Chị Trâm có nói gì đâu!
Nhưng Quỳnh thừa biết tôi nói dối. Cô bé không hỏi nữa mà chỉ nói:
_ Anh đừng giận chị Trâm nghen! Tính chỉ bộp bộp như vậy nhưng chẳng có ác ý gì đâu!
Tự nhiên tôi thấy thương Quỳnh quá. Tôi quả quyết:
_ Anh không giận chị Trâm đâu, Quỳnh đừng lo! Trước nay anh chưa biết giận ai bao giờ!
Nói xong, tôi toát mồ hôi hột. Câu đầu thì có thể đúng nhưng câu sau rõ ràng là tôi nói dóc. Trước nay, tôi giận hàng tỉ người.
Nhưng Quỳnh không để ý tôi tới điều đó. Cô bé nhìn tôi bằng ánh mắt tin cậy:
_ Anh nói thật chứ?
Tôi gật đầu đại:
_ Thật mà!
Sau khi được tôi bảo đảm, trước khi tụt xuống gác, Quỳnh còn cười với tôi một cái, dễ thương không thua gì hôm qua. Nhưng lần này rút kinh nghiệm, trước khi Quỳnh kịp cười thì tôi đã cười trước, sợ khi Quỳnh cười xong, tôi chưa kịp cười đáp lễ, Quỳnh đã tụt xuống đất mất tiêu.
Chính vì sự kiện tồi tệ đó mà mặc dù hứa với Quỳnh là không giận Trâm, tối đó tôi buộc phải hoãn lại chuyến viếng thăm gia đình bác Tám cho đến khi có... quyết định mới.
*
Cái "quyết định mới" đó nó đến một cách rất tình cờ.
Một trong những công việc đầu tiên của tôi ở cái đất Sài Gòn này là mua một chiếc xe đạp.
Có xe đạp, tôi mới có thể đi lòng vòng trong thành phố cho quen đường quen sá, rồi đi thi, thi đỗ lại còn phải đi học. Đâu có thể bắt dượng tôi nghỉ làm để chở tôi đến trường hằng ngày được.
Tôi tính mua xe mới nhưng dượng tôi can. Dượng tôi bảo mua xe mới đắt tiền có khi lại gặp đồ dỏm, để mua từng bộ phận về ráp cho chắc ăn.
Hôm thì dượng tôi mua về cặp niềng, hôm thì cái pê-đan, hôm thì cái sườn xe, mỗi ngày một thứ.
Cái sườn xe cũ mèm, thoạt trông đã thấy ngứa con mắt, nhưng dượng tôi bảo ngó vậy chứ nó rất tốt, sườn mới ngoài tiệm không sánh được. Rồi dượng dúi vào tay tôi một lon sơn bảo tôi sơn lại sườn xe.
Tôi ngồi cạo cho hết lớp sơn cũ mất đúng một buổi. Xong tôi xoay trần ra, bắc đầu "tân trang" lại cái sườn.
Lần đầu tiên làm "thợ", trông tôi thật hách! Tôi hành nhỏ Lan Anh mệt xỉu. Chốc chốc tôi lại kêu:
_ Lan Anh ơi, châm giùm anh điếu thuốc!
_ Lan Anh ơi, rót cho anh cốc nước!
Nó chạy vô chạy ra, mặt nhăn như khỉ:
_ Bữa nay anh giống như một ông vua!
Tôi cười:
_ Tay anh dính đầy sơn, em không thấy sao?
Nó vừa kê cốc nước vào miệng tôi vừa nhận xét:
_ Em chưa thấy ai như anh! Làm có chút xíu mà quẹt sơn đầy người!
_ Lát nữa anh lấy xăng chùi!
Cũng may tôi cởi trần chứ không tiêu đời cái áo.
Tôi sơn cái sườn xe cẩn thận như hồi nhỏ tập vẽ bản đồ. Tôi o bế từng nhát cọ, tính sơn thật đẹp, chiều khoe với dượng tôi.
Đâu đó xong xuôi, tôi phơi cái sườn xe trước sân cho mau khô. Chốc chốc tôi lại chạy ra ngắm "công trình" của mình. Dưới ánh nắng mặt trời, màu xanh dương lấp lánh trông thật đẹp. Tôi phục tôi quá xá. Giờ chỉ còn nhờ dượng tôi kẻ thêm vài đường chỉ trắng chạy dọc thân xe nữa thôi. Thế là có thể gắn bánh vào, tra dĩa, lắp ghi-đông và yên tâm "phóc" lên yên!
Lần thứ ba ra thăm "công trình", tự nhiên tôi thấy có điều gì là lạ. Cái sườn xe bỗng dưng trông giống như con ngựa vằn!
Tôi bước lại gần và tái mặt khi nhìn thấy trên sườn xe hành chục vết xây xát, vết nào vết nấy to bằng ngón tay cái. Thế là tiêu ma cái "công trình" tim óc của tôi!
Tôi sửng sốt nhình quanh và chợt trông thấy thằng Tạo. Nó đang đi lững thững về nhà, trên tay vung vẩy một ngọn roi.
Tôi liền đuổi theo và bắt gặp nó chỗ cửa lưới. Thấy tôi, nó giấu biến cây roi ra sau lưng.
Tôi chìa tay ra, giọng hầm hầm:
_ Đưa cây roi ra!
Nó khăng khăng không chịu đưa. Tôi vòng tay ra sau lưng nó giật lấy cây roi. Cái thằng thật lì lợm, nó dùng cả hai tay giữ lấy cây roi, môi mím chặt. Tôi nổi sùng nghiến răng giật mạnh một cái. Thằng Tạo đành phải buông tay. Nó khóc thét lên.
Mặc cho nó khóc, tôi đưa ngọn roi lên sát mắt và đúng như tôi nghĩ, ngọn roi loang lổ những vệt sơn. Đích thị là nó đã dùng cây roi khốn kiếp này quệt vào cái sườn xe.
Tôi ngẩng đầu lên tính hỏi tội nó nhưng tôi chưa kịp mở miệng đã thấy quai hàm cứng đơ. "Bà chằn" không biết xuất hiện từ lúc nào, đang đứng sau tấm cửa lưới lặng lẽ nhìn tôi bằng ánh mắt sắc như đao. Vẫn dáng đứng hai tay chống nạnh với vẻ du côn muôn thuở.
Có lẽ tiếng khóc của thằng Tạo đã làm kinh động giấc ngủ của "bà chằn" trong hang sâu! Tôi nghĩ thầm và bất giác lùi một bước theo... bản năng sinh tồn!
Trâm hất mặt về phía tôi:
_ Anh ỷ lớn ăn hiếp con nít hả!
_ Tôi có làm gì nó đâu!
_ Không làm sao nó khóc?
_ Tôi mượn cây roi...
_ Anh mượn roi làm gì?
Tôi khịt mũi:
_ Để coi thử...
Trâm quắc mắt, hệt hai cái đèn pha:
_ Roi có gì mà coi?
Tôi chìa cây roi ra:
_ Chị coi đây nè! Tôi sơn cái sườn xe cả buổi, thằng Tạo nó lấy cây roi này nó quệt hư hết trơn!
Trâm lạnh lùng:
_ Hư thì sơn lại!
Cái kiểu ăn nói ngang như cua của nó khiến tôi tức nghẹn họng:
_ Chị... chị...
Đột nhiên Trâm cười toe:
_ Tôi bằng tuổi anh, anh đừng kêu tôi bằng chị!
Lần đầu tiên tôi thấy Trâm cười với tôi. Và cũng lần đầu tiên tôi nghe nó nói được một câu đàng hoàng. Cơn giận trong tôi đã giảm được phân nửa. Tôi hỏi lại:
_ Vậy chứ kêu bằng gì?
_ Kêu bằng tên thôi!
Trong khi tôi đực mặt ra thì Trâm hỏi tiếp:
_ Bộ anh giận tôi lắm hả?
Tôi ấp úng:
_ Đâu có.
Trâm lại cười:
_ Tôi hỏi chơi vậy thôi chứ con Quỳnh nó nói là anh không biết giận ai bao giờ.
Tôi giật thót, miệng ậm ừ cho qua:
_ Ừ... ừ...
Không để ý đến vẻ mặt sượng sùng của tôi, Trâm nói tiếp:
_ Tại tôi thấy bộ tịch anh khù khờ, tôi chọc chơi cho vui. Bữa nay trở đi tôi không ăn hiếp anh nữa đâu, nếu có cũng in ít thôi!
Nó chọc tôi, tôi rầu thúi ruột, vậy mà nó bảo cho vui. Nhưng nghe nó hứa sẽ bớt ăn hiếp tôi, tôi hơi mừng mừng. Vì vậy khi nghe nó rủ:
_ Tối nay anh qua nhà tôi chơi nghen!
Tôi gật đầu liền. Nếu Trâm không rủ, chẳng biết đến bao giờ tôi mới thực hiện được ý định của mình.
Nó còn "dụ khị" tôi:
_ Tối nay mẹ tôi làm kẹo đậu phộng, ngon lắm!
Tôi sáng mắt lên:
_ Tôi khoái kẹo đậu phộng lắm! Hồi nhỏ tôi ăn cắp, à không, tôi xin tiền mẹ tôi mua kẹo đậu phộng ăn hoài!
May mà tôi nói nhanh, giọng tôi lại hơi khó nghe, nên Trâm không nghe kịp, chứ nếu nó biết tôi hồi nhỏ hay ăn cắp tiền mẹ tôi, tôi chỉ có nước độn thổ. Nó chơi ác nó nói với Quỳnh nữa chắc tôi khăn gói về quê sớm.
Làm như Trâm đọc được ý nghĩ tôi hay sao, tự nhiên nó nhìn lên trời nói bâng quơ:
_ Giờ này con Quỳnh theo mẹ tôi đi giỗ rồi, tối mới về.
Trong khi Trâm còn đang nghiên cứu khí tượng trên trời, chưa kịp nhìn xuống đất, tôi len lén chuồn về nhà. Đứng lại đó, nó nổi hứng nhắc lại chuyện "Cô láng giềng" bữa trước, chắc tôi xỉu!
*
Lần đầu tiên qua nhà bác Tám, tôi không dám đi một mình. Dì tôi phải dắt tôi qua. Đi theo hộ tống tôi, còn có nhỏ Lan Anh.
Bác Tám trai lớn tuổi hơn dượng tôi. Dượng tôi kêu bác bằng anh. Bác Tám gái lớn tuổi hơn dì tôi. Dì tôi kêu bác bằng chị.
Bác trai làm nghề mộc, đi làm thuê cho người ta là chính, nét mặt rắn rỏi, tay chân gân guốc. Bác trai ít gần gủi với con cái bằng gác gái. Bác gái lo bán buôn, chợ búa. Phần bếp núc giao cho Trâm và Quỳnh. Thằng Tạo còn nhỏ, được đi chơi thả dàn. Chị Kim đi làm, được miễn việc nhà, khi rảnh rỗi được quyền nằm đọc tiểu thuyết. Sự phân công trong nhà đại khái như vậy.
Hôm tôi qua, bác trai và bác gái tiếp đón niềm nở và thân mật. Sau khi hỏi chuyện học tập của tôi, và dặn tôi "thường xuyên qua chơi, muốn qua lúc nào cũng được", hai bác quay qua nói chuyện với dì tôi.
Chính thức đón tiếp tôi là những nhân vật bằng vai phải lứa. Ngồi quanh cái bàn bày sẵn kẹo đậu phộng là chị Kim, Trâm, Quỳnh và tôi. Lan Anh và thằng Tạo thì chạy tới chạy lui trong nhà, thỉng thoảng xề lại gần bàn nhón một miếng kẹo, miếng nào miếng nấy thật to, trông phát tức.
Dòm ba chị em, tôi âm thầm xếp hạng: Quỳnh số một, chị Kim số hai, Trâm số ba. Đó là căn cứ theo bề ngoài, còn bề trong thì tôi chưa biết. Nhưng theo nhận định "khách quan" của tôi, có lẽ Quỳnh vẫn chiếm số một. Tôi nhớ lại buổi trưa hôm trước, Trâm trù ẻo tôi thi rớt, còn Quỳnh bênh tôi chằm chặp. Vả lại, người có nụ cười dễ thương như Quỳnh thì xét bề trong bề ngoài, tứ bề tám hướng, bề nào cũng nhất.
Chị Kim hỏi tôi:
_ Chương vô đây, tính thi vào trường nào chưa?
_ Dạ, em tính thi vào sư phạm.
_ Chà, tính làm ông giáo hén! Chừng nào ra trường em về quê chị dạy đi! Quê chị thiếu thầy giáo dữ lắm!
Cái "quê chị" ở đây tức là Mỹ Tho, nơi bác gái vẫn đi đi về về buôn hột vịt. Gia đình bác Tám trước ở dưới, mới dời lên Sài Gòn được mười mấy năm nay. Họ hàng của bác ở Mỹ Tho còn khá đông.
Chị Kim kêu tôi về dưới quê chị dạy học, chắc là thuận miệng nói chơi thôi nhưng tôi lại nghĩ khác. Tôi nghĩ "sâu sắc hơn: về Mỹ Tho dạy học, đương nhiên là phải "làm rể" ở đó! Chứ tôi quê ngoài Trung tự nhiên đâm đầu xuống Mỹ Tho làm chi! Sung sướng với viễn cảnh đó, tôi gật đầu liền:
_ Dạ, ra trường xong là em về đó liền!
Trâm ngồi bên cạnh tôi tằng hắng một tiếng làm tôi hết hồn. Tôi tưởng nó định nói "Chắc gì thằng chả thi đậu" như bữa trước. Nhưng không, lần này nó nói nhẹ hơn:
_ Tướng anh làm thầy giáo, học trò sức mấy mà sợ!
Quỳnh từ nãy đến giờ lo ăn kẹo, không nói tiê'ng nào, thỉng thoảng cười với tôi một cái bằng... mắt, bây giờ thấy tính mạng tôi đang bị đe dọa, liền lên tiếng:
_ Học trò dữ như chị mới không sợ thầy chứ học trò nào lại không sợ!
Trâm cười tỉnh:
_ Mày đừng có nói oan cho tao! Tao mà dữ! Tao hiền thấy mồ!
Rồi Trâm quay qua tôi:
_ Phải không anh Chương?
Nó hỏi kiểu đó, tôi đành phải gật đầu.
Trâm ngó Quỳnh, cười hích hích:
_ Thấy chưa!
Chị Kim nói:
_ Con Trâm bắt chẹt người ta trắng trợn quá! Em phải cảnh giác với nó nghe Chương!
Tôi ngồi cười cười, không nói gì. Xa nhà, nhớ mẹ, nhớ quê, nhớ bạn bè, bây giờ ngồi giữa một gia đình ấm cúng, nhìn mấy chị em cười đùa vui vẻ, lòng tôi cũng đỡ cô đơn.
Tôi ngồi nói chuyện với ba chị em Quỳnh khá lâu. Đến khi mấy dĩa bánh trên bàn đã hết sạch, cả bình trà cũng không còn một giọt, tôi đứng dậy cáo từ. Lúc này ba mẹ Quỳnh đã đi ngủ. Dì tôi và Lan Anh cũng đã về tự hồi nào.
Trâm và Quỳnh tiễn tôi ra tới tận chỗ cửa lưới. Khi Trâm vừa quay vào, Quỳnh đột ngột dúi vào tay tôi một gói giấy nhỏ:
_ Cho anh đó!
Tôi sững sờ chưa kịp hỏi thì Quỳnh chạy vụt vào nhà. Có lẽ trong một thoáng, cô bé cảm thấy mắc cỡ về hành động của mình.
Gói giấy nóng hổi trong lòng tay tôi như một con chim non. Tôi đứng lặng trước hiên có đến mười phút để tận hưởng niềm vui bất ngờ đó.
Vào nhà, tôi rón rén tre1o lên gác và hồi hộp mở gói giấy ra. Một chiếc bánh. Một chiếc bánh xinh xắn. Chắc là hồi chiều đi ăn giỗ, Quỳnh đã thó chiếc bánh để dành tặng tôi.
Chiếc bánh xanh xanh đỏ đỏ nom thật hấp dẫn, nửa khuya đói bụng, tôi đã tính "giải quyết" gọn cho rồi nhưng cuối cùng tôi dằn lòng được. Đằng nào đây cũng là tặng vật của Quỳnh, cô bé phải cất công mang từ "phương xa" về cho tôi. Tôi phải coi nó như một món ăn... tình cảm chứ đâu có thể xơi tái nó như chiếc bánh mua ngoài chợ được.
Nghĩ vậy, tôi đành nuốt nược bọt đặt chiếc bánh trên giá sách, chỗ trang trọng nhất. Tôi sẽ không ăn, tôi sẽ bảo quản nó như bảo quản trái tim tôi, để mỗi ngày nhìn thấy nó, tôi sẽ nhớ đến Quỳnh và nhớ rằng Quỳnh luôn nghĩ đến tôi, kể cả lúc... ăn giỗ. Chiếc bánh sẽ nằm ở đó, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, trang trọng và thiêng liêng, bất diệt và gợi nhớ như một biểu tượng đầy ý nghĩa.
Tôi ngồi chiêm ngưỡng "món ăn tình cảm" của mình một cách ngây ngất, đầu óc tưởng tượng lung tung rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Sáng hôm sau, vừa mở mắt ra tôi đã ngóc đầu dậy dòm lên giá sách. "Kỷ vật" của Quỳnh chuột tha mất tiêu.
Tôi thẫn thờ suốt cả buổi sánh, trong lòng giận mấy con chuột kinh khủng. Nỡ nào thừa lúc tôi ngủ bọn chúng lại xơi mất "món ăn tình cảm" của tôi. Phải chi tôi có thể hóa thành mèo, tôi sẽ thộp cổ cái bọn vô giáo dục đó, dạy cho chúng biết rằng bánh không phải lúc nào cũng dùng để ăn mà có khi còn dùng để biểu lộ một tình cảm khó nói nào đó. Có phải vậy không Quỳnh?
*
Kể từ bữa đó, tôi qua chơi nhà bác Tám khá thường xuyên. Chẳng bao lâu tôi nghiễm nhiên thành một người thân trong gia đình.
Trâm đã giữ lời hứa. Nó bớt ăn hiếp tôi hơn. Thỉnh thoảng tôi mới bị nó sai vặt.
Nếu khi đang ngồi học bài trên gác, tôi nghe nó kêu om sòm ngoài cửa:
_ Anh Chương ơi anh Chương!
Tôi thò đầu xuống:
_ Gì vậy Trâm?
_ Anh đang làm gì đó?
_ Học bài.
Nó ra lệnh:
_ Anh đem sách vở qua nhà tôi ngồi học rồi trông nhà cho tôi đi chợ chút! Nhà tôi đi hết trọi rồi!
Thế là tôi phải lồm cồm leo xuống khỏi gác, đi trông nhà cho nó.
Có những ngày Lan Anh theo dì tôi ra chơi ngoài tiệm thuốc tây, buổi trưa tôi phải tự mình thổi cơm.
Một hôm, Quỳnh qua chơi, thấy tôi lui cui nhóm bếp, khói bay mù mịt, nước mắt ròng ròng, liền hỏi:
_ Chứ Lan Anh đâu rồi?
Tôi nhấp nháp cặp mắt cay xè:
_ Nó đi chơi ngoài tiệm thuốc, trưa không về.
Quỳnh níu tay tôi:
_ Vậy anh qua ăn cơm với tụi em đi!
Đang đói bụng, tôi chịu liền. Lại khỏi đánh vật với mấy thanh củi chết tiệt, lử đâu không thấy, chỉ thấy toàn khói!
Buổi trưa ở nhà bác Tám chỉ có Trâm, Quỳnh và Tạo. Không có người lớn, tôi ăn liền tù tì một hơi bốn bát cơm. Nhưng tôi chưa kịp nuốt xong miếng cuối cùng, Trâm đã "phân công":
_ Lát nữa, anh Chương rửa chén nghen!
Không lẽ từ chối, tôi đành gật đầu, miếng cơm trong miệng đắng nghét.
Quỳnh liếc Trâm:
_ Chị chỉ giỏi tài ăn hiếp anh Chương!
Trâm rụt cổ:
_ Tao đâu có ăn hiếp! Không tin mày hỏi ảnh coi!
Tôi ngó Quỳnh:
_ Để lát anh rửa cho! Ba cái chén ăn nhằm gì! Hồi nhỏ anh rửa hoài!
Nói xong, tôi giật thót người vì cái thói ba hoa của mình. Quỳnh cười:
_ Nói vậy chứ anh để em rửa!
Tôi không chịu:
_ Anh rửa.
Quỳnh giảng hòa:
_ Thôi, anh và em rửa!
Tôi chưa kịp nói đồng ý thì cái đầu đã gật rồi. Thú thật là tôi chưa ai trên đời thông minh sáng tạo như Quỳnh. Lúc rửa chén, vì cứ ngồi nghĩ mãi đến cái "thông minh sáng tạo" đó, tôi tuột tay đánh rơi cái dĩa xuống sàn nhà kêu "xoảng" một tiếng, nghe bắt lạnh xương sống.
Trong khi Quỳnh cười khúch khích thì tôi điếng hồn ra sau lưng. Từ trên giường, không biết Trâm tót xuống đất hồi nào và đang đứng chống nạnh giữa nhà.
_ Anh có biết cái dĩa đó bao nhiêu tiền không? - Giọng Trâm lạnh như băng.
Tôi đỏ mặt vì ngượng:
_ Không biết! Chắc khoảng, năm, sáu trăm, để tôi mua đền.
Đột nhiên Trâm đổi giọng, nó cười hì hì:
_ Cái dĩa có hai chục bạc hà! Anh khỏi đền, mai mốt qua phụ rửa chén cho chị em tôi là được rồi.
Tôi thở phào. Nó nói nó bớt ăn hiếp tôi nhưng nó hù kiểu đó chắc có ngày tôi đứng tim tôi chết.
Tối đó, tôi đang ngồi học bài bỗng nghe tiếng gõ cộp cộp vào vách phía nhà bác Tám. Lúc này khoảng mười giờ, dì dượng tôi và Lan Anh đã ngủ, nhà dưới tắt đèn tối om, cửa khóa chặt.
Thoạt đầu, không để ý, tôi cứ ngồi tĩnh. Lát sau, lại nghe tiếng gõ vang lên. Tôi thận trọng bò lại sát vách. Phát hiện Quỳnh đang đứng dưới khoảnh sân, trái tim tôi như muốn rớt ra khỏi lồng ngực.
Cô bé vẫn chưa thấy tôi, lại tiếp tục gõ vào vách.
Tôi kêu khẽ:
_ Quỳnh!
Quỳnh giật mình ngó lên. Thấy tôi, Quỳnh nở một nụ cười thật tươi.
_ Em kêu anh hả? - Tôi hỏi, giọng hồi hộp.
Quỳnh giơ cao hai cục gì đó trăng trắng:
_ Cho anh cái này nè!
_ Gì vậy?
_ Yaourt.
_ Ở đâu vậy?
_ Mua chứ đâu! Em với chị Trâm đi chơi về, mua cho anh đó!
Tôi cười:
_ Thưởng công anh rửa chén hồi trưa hả?
Quỳnh chun mủi:
_ Anh làm bể dĩa, không phạt anh là may chứ ở đó mà thưởng!
Tôi thò tay qua lỗ hổng nhưng làm sao với tới hũ yaourt.
_ Anh không lấy tới đâu! - Quỳnh nói - Phải kiếm sợi dây!
Tôi nhìn quanh căn gác, không thấy một sợi dây nào có thể giúp tôi được. Chợt tôi nghĩ ra một cách. Tôi tháo nguyên cái mùng, thòng một đầu dây xuống.
Sợi dây ngắn, đầu dây vẫn còn cách tầm tay Quỳnh khoảng bốn tấc. Tôi đành phải tuồn thêm một phần cái mùng qua lỗ hổng cho sợi dây dài thêm ra.
Quỳnh ngạc nhiên:
_ Cái gì trên kia vậy?
_ Cái mùng.
Quỳnh vừa cột hai hũ yaourt vừa cười khúch khích.
Lát sau, Quỳnh giật sợi dây:
_ Xong rồi, anh kéo lên đi! Em vô nhà đây!
_ Cám ơn Quỳnh nghen!
Vừa nói tôi vừa thận trọng kéo hai hũ yaourt lên.
Tôi cầm hai hũ yaourt trong tay, quay lại bàn học, tính mở sợi dây ra. Bỗng tôi sững người khi thấy một cặp mắt đang nhìn tôi một cách kỳ dị. Không biết tự hồi nào, Lan Anh đứng thò đầu lên gác lặng lẽ quan sát những hành động quái gở của tôi.
Nó ngơ ngác hỏi:
_ Anh thò cái mùng ra ngoài chi vậy?
Tôi trả lời bằng cách một tay cầm sợi dây mùng, còn tay kia buông ra. Hai hũ yaourt treo toòng teng trong khoảng không.
Lan Anh reo khẽ:
_ Hay quá hén! Anh "câu" nó ở đâu vậy?
Tôi ưỡn ngực:
_ Chị Quỳnh mua cho anh!
Lan Anh chớp mắt:
_ Chỉ đứng ở dưới sân phải không?
_ Ừ.
Lan Anh có vẻ khoái trò "câu cá" này lắm. Nó gạ tôi:
_ Hôm nào chỉ kêu anh, anh để em "câu" giùm cho nghen!
_ Ừ.
Nói xong, tôi bỗng giật mình;
_ Sao em biết chị Quỳnh kêu anh?
Nó rùn cổ:
_ Sao không biết! Em nằm chưa kịp ngủ bỗng nghe tiếng gõ cộp cộp, lát sau có tiếng nói chuyện đâu trên này. Thế là em leo lên coi thử chuyện gì.
Hóa ra là vậy. Tôi tháo sợi dây, đưa cho nó một hũ yaourt:
_ Em ăn đi! Em hũ, anh hũ!
Lan Anh tụt xuống đất đi lấy muỗng rồi leo lên ngồi cạnh tôi. Hai anh em vừa ăn vừa rù rì nói chuyện.
Xưa nay tôi không ăn được các món có mùi sữa. Yaourt tôi lại ghét nhất hạng. Vậy mà lúc này tôi ăn từng muỗng một cách ngon lành. Bởi đó là tặng vật của Quỳnh. Đáng lẽ tôi phải xếp hai hũ yaourt này vào loại... món ăn tình cảm, chỉ để trưng bày chứ không được ăn. Nhưng khổ một nỗi, tôi tình cảm chứ mấy con chuột khốn nạn kia đâu có tình cảm. Tôi trưng ra một cái, mấy hũ yaourt lập tức chạy theo cái bánh bữa nọ liền!
*
Hôm đi thi đại học, đề bài hỏi năm câu, tôi trả lời được bốn câu rưỡi. Trên đường về, bụng tôi cứ thấp tha thấp thỏm. Dự thi tới một ngàn hai trăm thí sinh, nhà trường chỉ tuyển có năm mươi mống, tôi không lo sao được!
Dì tôi trấn an tôi:
- Cháu đừng lo! Cháu làm được bốn câu rưỡi, biết đâu mấy đứa khác chỉ làm được ba câu rười, bốn câu thì sao!
Tôi cũng mong mọi chuyện xảy ra đúng như dì tôi nói. Tôi khờ, biết đâu có người khờ hơn!
Nghĩ thì nghĩ vậy, lòng tôi cũng chẵng vui vẻ hơn chút nào. Thấy tôi buồn buồn, Trâm hỏi:
- Mấy bữa nay anh làm sao vậy? Bộ đi thi làm bài không được hả?
Tôi chối phắt:
- Đâu có! Tại mấy bữa nay tôi nhớ nhà!
Trâm nheo mắt:
- Con trai gì mà yếu xìu vậy!
Tôi cười cười không đáp. Chẳng thà để nó chê tôi "yếu xìu" vì nhớ nhà còn hơn để nó biết tôi sợ thi rớt.
Với Quỳnh thì tôi chẳng giấu chút gì.
Khi Quỳnh hỏi:
- Anh đi thi làm bài được không?
Tôi thở dài:
- Người ta ra năm câu, anh làm được có bốn câu rưỡi.
Quỳnh khen tôi:
- Vậy là giỏi quá rồi còn gì! Gặp em, em làm chẳng được câu nào!
Nghe Quỳnh khen, tôi vừa thinh thích vừa buồn cười. Quỳnh học lớp chín, đi thi đại học làm không được câu nào là chuyện đương nhiên, sánh với tôi sao được mà sánh!
Rồi chừng thấy tôi không được vui cho lắm, Quỳnh lại rủ:
- Chủ nhật này, anh đi Nhà Bè chơi đi!
- Đi với ai?
- Đi với em, chị Trâm và chị Kim.
- Nhà ai ở bên đó vậy? - Tôi lại hỏi.
- Nhà dì Tư em.
Tôi tính nhẩm trong đầu: nhà Quỳnh có hai chiếc xe đạp, chiếc của tôi nữa là ba, bốn người mà đi ba chiếc, hẳn tôi phải chở một người. Chở ai đây?
Tôi làm bộ đần độn:
- Bốn người mà có ba chiếc xe, làm sao đi cho đủ?
- Sao anh ngây thơ quá vậy? Thì chị Kim chạy một chiếc, chị Trâm một chiếc, còn một chiếc anh chở em!
Trời ơi, cái câu tôi thấy khó nói ác liệt vậy mà Quỳnh nói nghe dễ ợt, nghe cứ tự nhiên như không! Mai mốt gặp Quỳnh những câu kho khó như vậy, chắc tôi phải nhờ Quỳnh nói giùm tôi.
Tưởng là mọi chuyện thuận buồm xuôi gió, ai dè sáng chủ nhật tôi vừa dắt xe ra, Lan Anh lại nằng nặc đòi đi theo. Nó đi theo cũng chẵng chết ai, càng thêm vui, ngặt vì nó cứ ra rả cái "điệp khúc":
- Anh Chương chở em đi với nghen!
Khiến tôi tức lộn ruột. Anh Chương chở em đi thì lấy ai chở chị Quỳnh hở em?
Tôi than thầm một câu thống thiết. Tuy nhiên ngoài mặt tôi vẫn làm bộ tỉnh, thậm chí tôi còn nhe răng cười ruồi một cái.
Chị Kim nhìn tôi:
- Chương cho nó đi theo cho vui.
Tôi đang phân vân chưa biết tính sao, Trâm đã nhanh chóng phân công:
- Tôi chở con Quỳnh, anh Chương chở nhỏ Lan Anh, bà Kim già rồi được quyền chạy một mình!
Tôi chưa kịp hó hé, nó đã hô:
- Thôi khởi hành! Trễ giờ rồi!
Thế là mọi người lục tục lên yên. Quỳnh ngồi sau lưng Trâm, quay sang tôi cười một cái, không biết là có phải để chia buồn cùng tôi! Tôi cười hết muốn nổi nhưng để đáp lại, tôi ráng nhe răng, cười như khỉ. Còn Trâm thì phớt tỉnh, nó khuýnh tay, dân bàn đạp, dẫn đầu. Chị Kim đi giữa, sau cùng là tôi.
Lan Anh nhẹ tênh mà tôi cảm giác như chở một hòn núi. Đầu óc trống rỗng, tôi chạy tà tà chẳng chút hào hứng.
Tới Ngã Bảy, thình lình Trâm ngừng xe lại.
Chị Kim trờ tới hỏi:
- Gì vậy?
Trâm tặc lưỡi:
- Con Quỳnh nặng quá, qua anh Chương chở đi! Tôi chở nhỏ Lan Anh, khỏe hơn!
Vừa nói, Trâm vừa nháy mắt với tôi. Tôi đỏ mặt ngó lơ chỗ khác.
Tới lúc đó, tôi mới biết Trâm là một đứa rất dễ thương. Hóa ra nó đã biết tình cảm của tôi từ lâu. Khi nãy nó cố tình phân công trái "nguyện vọng" của tôi chắc là để chọc tôi "cho vui", nói theo kiểu của nó.
Quỳnh nặng gần gấp đôi Lan Anh mà sao từ khi Quỳnh qua ngồi sau lưng tôi, chiếc xe bỗng nhẹ hẫng, lúc nào cũng như muốn bay tuốt lên mây.
Tôi không biết Nhà Bè nằm ở đâu. Hồi nhỏ nghe câu hát:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về!
Tôi đã khoái Nhà Bè. Bây giờ có Quỳnh ngồi sau lưng, tôi càng khoái Nhà Bè gấp bội.
Tôi đoán chừng Nhà Bè ở xa lắm. Xe ra tới ngoại ô rồi mà chị Kim bảo còn đi nữa. Cứ xa nữa đi, Nhà Bè ơi! Xa tha hồ, xa mặc sức, để tôi có thể chở Quỳnh đi đến cuối đất cùng trời!
Nhưng dường như Quỳnh không tin vào khả năng đi dến "cuối đất cùng trời" của tôi cho lắm, cô bé ngồi phía sau cứ hỏi cầm chừng:
- Anh Chương mệt chưa?
Tôi vừa thở hổn hển vừa đáp:
- Chưa.
Vạt áo đẫm mồ hôi sau lưng tôi hình như đang nói điều ngược lại. Cho nên Quỳnh lại lên tiếng:
- Khi nào anh mệt thì ngừng lại, em qua ngồi xe chị Kim.
Tôi khăng khăng:
- Anh đã bảo chưa mệt mà!
Nói xong, tôi cong lưng nhấn mạnh bàn đạp. Chiếc xe chạy vù vù. Tôi phải chứng minh cho Quỳnh thấy lời nói của tôi lúc nào cũng đi đôi với việc làm.
Đột nhiên, Quỳnh đập khẽ vào lưng tôi:
- Anh ngừng lại đi!
Tôi bặm môi đạp riết, miệng gầm gừ:
- Anh đã bảo là anh chưa mệt kia mà!
Quỳnh lại giật áo tôi:
- Không phải! Anh ngừng lại em nói cái này cho nghe!
Tôi thắng xe cái "rét" và quay đầu lại:
- Có chuyện gì vậy?
- Anh quanh xe lại chỗ khi nãy đi!
Bỏ mặc chị Kim và Trâm đi tà tà phía trước, tôi quay xe chở Quỳnh đi ngược lại hướng cũ.
Đi dược một đoạn, Quỳnh lại bảo:
- Ngừng lại đi!
Tôi ngừng xe lại.
Quỳnh hỏi:
- Anh thấy gì không?
Tôi dòm dáo dác:
- Thấy gì đâu?
Quỳnh chỉ tay vào khu vườn bên kia đường:
- Cây sứ kia kìa!
Tôi nheo mắt dòm cây sứ, giọng khi dể:
- Thì cây sứ chứ sao! Ngoài quê anh thiếu gì!
Quỳnh dậm chân:
- Nhưng mà anh có thấy chùm hoa trên kia không?
Tới đây, tôi bắt đầu hiểu ra:
- Em muốn anh hái xuống cho em chứ gì?
Quỳnh cười.
Tôi áp tay lên ngực, thở một hơi dài:
- Hái hoa thì nói đại là hái hoa ngay từ đầu! Em làm anh hồi hộp muốn đứng tim!
Quỳnh dẩu môi:
- Em kêu anh ngừng lại, ai bảo anh cong lưng chạy thục mạng chi!
Giao xe cho Quỳnh giữ, tôi nhanh nhẹn băng qua đường.
Cây sứ nằm trong một khu vườn rộng bao quanh một căn nhà cửa đóng im lìm. Chắc là chủ nhân đi vắng. Hai cánh cổng được khóa bằng dây xích. Rào quanh khu vườn là một hàng duối xanh um.
Tôi loay hoay một hồi mới vẹt được một lỗ hổng, lồm cồm chui vào. Nhà này không nuôi chó. Nếu có, chúng đã xé xác tôi tự đời nào.
Tới gốc sứ, tôi cặm cụi trèo lên. Chùm hoa mọc tít trên cao. Cành sứ dòn, dễ gãy, tôi đặt chân một cách thận trọng. Trèo không khéo té lộn đầu xuống đất như chơi.
Trèo được nửa chừng, tôi dòm sang bên kia đường, thấy Quỳnh đang ngó sang. Cô bé vỗ tay động viên tôi. Tôi càng khoái chí trèo nhanh như sóc.
Bẻ được chùm hoa, tôi hí hửng ngậm ngang miệng. Nhưng tôi chưa kịp tụt xuống bỗng nghe tiếng xe máy nổ ầm ầm trước cổng. Tôi điếng hồn khi nhận ra đó là một cặp vợ chồng đứng tuổi, chắc là chủ nhân căn nhà.
Người vợ bước lại mở cổng, người chồng dắt xe vào, không ai nhìn thấy tôi đang đeo toòng teo trên cây.
Đinh ninh thoát nạn, chờ hai vợ chồng vừa qua khỏi, tôi vội vã tụt xuống đất.
Nào ngờ nghe tiếng sột soạt, người vợ quay lại. Nhác thấy tôi, bà ta hốt hoảng la lên:
- Ối trời ơi! Ăn trộm!
Người chồng nhanh chóng bật chống xe đánh "tách" một cái và nhảy bổ lại phía tôi:
- Đứng lại! Đứng lại!
Tôi đứng chôn chân tại chỗ, mặt xanh lè. Không hiểu sao ngay lúc đó tôi chẳng có ý định chạy trốn.
Người chồng bóp chặt vai tôi:
- Cậu là ai? Cậu ăn trộm gì đây?
Nếu lúc đó, tôi cố tình vùng ra, tôi đã vùng ra được và chạy thoát. Nhưng còn kẹt Quỳnh ở ngoài. Vả lại, tôi không muốn mang tiếng là ăn trộm. Do đó, tôi cố thanh minh:
- Cháu không phải là ăn trộm.
- Chứ cậu vào đây làm gì?
Tôi ngượng ngịu chỉ chùm hoa sứ rơi dưới đất:
- Chái hái cái này.
Nét mặt người chồng dãn ra, trông có vẻ nhẹ nhõm hơn khi nãy. Tuy nhiên, ông ta vẫn bình luận một câu độc địa:
- Vậy cũng có khác gì ăn trộm!
Tôi đỏ bừng mặt vì xấu hổ.
Người vợ chỉ tay ra đường:
- Cậu đi với cô bé kia phải không?
Tôi ngó ra. Quỳnh đã dẫn xe qua bên này đường tự lúc nào. Cô bé đang đứng sát cổng, tôi thút thít:
Tôi gật đầu:
- Em cháu đó! Nó kêu cháu hái chùm hoa này cho nó!
Người vợ hất đầu:
- Thôi, cậu đi đi!
Tôi cúi xuống nhặt chùm hoa sứ đưa cho bà ta:
- Cháu trả!
Người vợ mỉm cười:
- Tặng cậu đó! Nhưng lần sau nhớ không được chui vào vườn người ta khi chủ nhân đi vắng nghe chưa!
Tôi cầm chùm hoa lầm lũi đi ra.
Quỳnh vẫn còn khóc. Cô bé ngước nhìn tôi bằng đôi mắt ướt:
- Người ta không làm gì anh chứ?
- Không làm gì hết! Người ta chỉ mắng anh thôi!
Vừa nói, tôi vừa đưa chùm hoa cho Quỳnh.
- Em hết thích chùm hoa này rồi!
Tôi trố mắt:
- Sao kỳ vậy?
Quỳnh sụt sịt:
- Tại nó mà anh bị mắng!
Tôi mỉm cười:
- Ăn nhằm gì chuyện đó! Hồi nhỏ anh bị...
Đang nói, tôi tốp lại kịp. Chút xíu nữa là tôi khoe hết thành tích bất hảo với Quỳnh.
Cắm chùm hoa lên giỏ xe đằng trước, tôi chở Quỳnh phóng hết tốc lực. Giờ này chắc Trâm và chị Kim đã đi xa lắm rồi.
Chạy được một lát, tôi đã thấy hau người đứng đợi bên đường.
Thấy tôi xuất hiện, chị Kim hỏi:
- Chương bị pan xe hả?
Tôi lắc đầu chưa kịp trả lời đã nghe tiếng Quỳnh thút thít sau lưng. Cô bé khóc dai dễ sợ.
Trâm ngó Quỳnh:
- Làm gì khóc vậy? Anh Chương ăn hiếp mày phải không?
Quỳnh tấm tức:
- Chút xíu nữa là người ta bắt mất anh Chương!
Trâm liếc tôi:
- Sao vậy? Bộ anh đi ăn trộm hả?
Nó nói chơi mà trúng phóc. Tôi đành phải sượng sùng kể lại câu chuyện khi nãy.
Lan Anh cười hích hích, nó dọa tôi:
- Em về méc mẹ anh Chương đi ăn trộm bị người ta bắt!
Tôi nháy mắt với nó:
- Tại chị Quỳnh chứ bộ!
Chị Kim bảo:
- Con Quỳnh là chúa xúi bậy! Mai mốt Chương đừng thèm nghe lời nó!
Trâm quay sang Quỳnh:
- Thôi, đừng lè nhè nữa! Người ta dễ chứ gặp tao, tao nhốt anh Chương, bắt rửa chén đúng một tuần mới thả!
Xuống tới nhà dì Tư, mắt Quỳnh vẫn còn đỏ. Cho đến khi tôi trèo lên cây mận sau nhà (lại trèo cây!) hái từng chùm trái đỏ au, chín mọng liệng xuống cho Quỳnh chụp, lúc đó gương mặt cô bé mới bắt đầu tươi lên.