Dịch giả: Nguyễn Đức Dương
THỨ BA
( Từ sáng đến đầu hôm)

 Malcolm chỉ thức giấc lúc quá bảy giờ. Nhưng anh còn nằm thêm cả một tiếng đồng hồ nữa, cân nhắc mọi phương án có thể có. Cuối cùng anh quyết định: dù gì thì gì vẫn cứ theo phương án đã dự tính hôm qua. Anh ném một cái nhìn sang phía xa-lông. Cô ả đã lăn xuống sàn từ khi đêm, và lúc này vẫn đang còn trùm chăn ngủ, ngực phập phồng những hơi thở nặng nhọc.
 
Malcolm ngồi dậy và ì ạch một hồi mới đặt được ả lên giường. Ả vẫn chẳng thèm cựa quậy, y như tối hôm qua.
 
Cái vòi búp sen tự chế chẳng qua chỉ là một ống cao su được lắp thẳng vào đường dẫn nước. Vì thế, Malcolm đành phải tắm một thứ nước chỉ hơi âm ấm. Thậm chí, anh còn cạo được cả râu bằng một lưỡi dao bào mà chắc hẳn ai đó đã dùng rồi. Duy có chuyện đánh răng thì anh đành chịu thua: anh ghê cả người khi phải cho vào miệng chiếc bàn chải của người khác.
 
Malcolm liếc nhìn lần cuối cô gái đang ngủ trước lúc bước ra khỏi phòng. Khoản tiền một trăm đô-la đã thỏa thuận, anh mới trả được phân nửa. Anh biết chỗ tiền này cô ả sẽ đem dùng vào việc gì nên anh chẳng thích thú mấy khi phải nhét tờ giấy bạc năm mươi đô-la vào chiếc túi sách treo trong tủ áo. Suy cho cùng thì đấy cũng chẳng phải là tiền mồ hôi nước mắt gì của anh. Thôi thì mặc: của thiên trả địa!
 
Đi qua được khúc phố, anh tìm thấy một quán ăn kiểu Hot shop mà dân quanh vùng này đang ùn ùn kéo vào điểm tâm trước lúc đến giờ. Ăn sáng xong, anh ghé ngay vào một cửa tiệm Drug store gần đó, mua vài thứ đồ dùng lặt vặt rồi tạt vào một nhà vệ sinh vắng vẻ của một trạm bán xăng Gulf đánh răng. Lúc này đã 9:30 sáng.
 
Tìm được một chòi điện thoại công cộng, Malcolm ném vào mấy xu lẻ đổi được ở cái trạm Gulf ban nãy gọi đi hai nơi. Đầu tiên là gọi về phòng “Chỉ dẫn”. Khi hỏi được số máy, anh liền liên lạc với một sở nhỏ đặt trụ sở tại khi Baltimore.
 
- Phòng đăng ký xe hơi đây. Ngài cần giúp gì ạ?
 
- Tôi tên là Wintrop Asthas, nhà ở đường Alexandria, - Malcolm từ tốn đáp. – Tôi muốn phiền cô mách giúp địa chỉ của một người có nhã ý giúp tôi một cách rất đỗi vô tư, để tôi đến cảm ơn ông ta.
 
- Tôi chưa thật hiểu rõ điều ngài muốn nhờ.
 
- Chỉ là thế này thôi. Hôm qua, trên đường đi làm về, xe tôi tự dưng chết máy ngay giữa phố. Thì ra cái bình điện chết tiệt đã bị đổ nghiêng, bật tung nắp đậy. Tôi sửa đâu vào đấy nhưng vẫn không sao nổ máy được: a-xít trong bình điện đổ mất đi khá nhiều, chỉ còn đâu có phân nửa. Tôi đã toan bó tay, định dỡ bớt đồ đạc trong xe xuống rồi đẩy nó vào bên vệ đường thì bỗng dưng có một chiếc Mercedes đen chạy tới. Người ân nhân của tôi thấy thế, liền ghé mũi xe vào đẩy hộ cho đến khi máy của tôi nổ giòn. Làm thế, mũi xe ông ta có cơ trầy trụa hết, nhưng ông ta bất chấp. Tôi còn chưa kịp mở miệng cám ơn thì ông ta đã phóng xe, lao vút đi. May là tôi còn đọc kịp số xe. Thành ra, tôi muốn gửi đến ông ta một bức thiếp bày tỏ lòng biết ơn hoặc mời ông ta đi uống vài cốc rượu, hoặc có chút quà mọn gì đó gọi là tỏ lòng cảm kích. Ở cái đất Washington này chẳng dễ gì tìm được một người cư xử cao thượng như thế với một khách qua đường tình cờ đâu!
 
Cô gái ở đầu dây đằng kia cũng cảm động nói:
 
- Vâng, quả có thế thực, những người như thế, dễ có thắp đuốc lên tìm chưa chắc đã thấy. Dám dí mũi chiếc Mercedes của mình vào để đẩy giúp xe người khác! Thật là một tấm lòng vàng! Nghĩa là tôi hiểu – số xe ông ấy đã đăng ký ở Maryland chứ gì? Và ngài muốn nhờ tôi kiểm tra lại số đăng bộ xem chủ chiếc xe đó là ai, đúng không ạ?
 
- Vâng, đúng thế, đúng thế. Cô giúp được chứ?
 
- Chà…chuyện này lẽ ra không được phép đâu. Nhưng vì một chuyện như thế mà phạm lề luật thì đâu phải là một trọng tội, đúng không ạ? Ngài đọc giúp số xe đi, thưa ngài.
 
- Maryland. E – 49387.
 
- E – 49387. Có đăng ký đấy. Ngài chờ cho một lát nhé, tôi sẽ nói cho ngài hay tên họ và địa chỉ ông ta.
 
Malcolm nghe tiếng ông ta đặt máy xuống bàn. Ngay sau đó có tiếng chân vang lên. Rồi tiếng chân bị át đi trong tiếng “lách tách” của mấy chiếc máy đánh chữ. Một thoáng sau, tiếng chân lại bước đến bên máy.
 
- Ngài Asthas đấy phải không ạ? Tôi dò ra rồi, xe Mercedes màu đen, đăng ký dưới tên Robert T.Attwood, địa chỉ nhà riêng số 42, phố Elwood, tôi đánh vần từng chữ đây: A-t-t-w-o-o-d khu Chert-Chase. Những người ở khu ấy, ai cũng giàu nứt đố đổ vách cả ấy mà. Đó là một trong những khu thanh lịch nhất thuộc vùng ngoại ô Washington. Một vài vết xước trên xe hẳn chẳng mùi mẽ gì với những người như ông ấy. Nhưng dẫu sao tôi cũng thấy lạ. Thường thì những người như ông ấy họ chả bao giờ thèm ngó ngàng gì đến những nỗi hoạn nạn của thiên hạ đâu, thưa ngài. Chắc ngài hiểu tôi muốn ngụ ý gì rồi chứ?
 
- Vâng, tôi hiểu cô muốn nói gì. Xin cảm ơn cô, cảm ơn cô lắm.
 
- Gì mà ơn với huệ. Tôi rất lấy làm mừng được giúp ngài trong dịp may hiếm có này thôi. Nhưng chỉ mong ngài đừng lạm dụng cách này. Chắc ngài rõ tôi muốn nói gì chứ ạ? Ngài đừng lộ chuyện với ông Attwood đấy nhé! Ngài cần giúp gì nữa không?
 
- Xin cảm ơn cô. Tôi sẽ giữ kín.
 
- Chắc ngài ghi được cả rồi chứ? Robert Attwood, nhà số 42, phố Elwood, Chevy-Chase.
 
- Vâng, tôi đã ghi được cả rồi. Một lần nữa xin đa tạ cô.
 
Malcolm treo ống nghe, đã gấp mẩu giấy ghi địa chỉ họ tên vào túi. Vị tất anh phải cần đến nó mới nhớ được cái tên Attwood kia? Không rõ vì lẽ gì, nhưng anh lại quay trở lại cái quán ban nãy, gọi thêm một tách cà phê. Ngắm kỹ nét mặt của khác hàng ở đây anh biết chắc chẳng ma nào thèm để ý đến mình.
 
Trên quầy quán rượu chơ chỏng một tờ Washington Post số ra buổi sáng. Như một cái máy, Malcolm vồ lấy tờ báo, mê mải đọc. Bản thông báo gửi cho mình, anh tìm thấy ở trang 12. Đúng, họ đã quyết định hành động chắc ăn hơn. Bản thông báo dài gần mười phân, in bằng chữ đậm với nội dung như sau: “Thần Ưng, gọi điện về nhà ngay”.
 
Malcolm phì cười và thậm chí chẳng thèm liếc mắt sang cột báo bên cạnh, in cũng bản thông báo đó, bằng mật mã dưới hình thức kết quả xổ số đợt vừa qua. Nếu anh mà gọi điện về, thế nào họ cũng yêu cầu anh hoặc là về gấp, hoặc là ẩn nấp cho kín đáo hơn. Nhưng cả hai chuyện đó, lúc này anh đều không thích. Anh biết là họ không thể thông báo một tin gì khả dĩ lí thú với anh hơn, ngay cả bằng mật mã nữa. Vả lại lúc này, mọi chuyện đối với anh đều vô nghĩa. Những lời chỉ thị của họ đã mất hết toàn bộ giá trị của chúng kể từ hôm qua,sau cái sự kiện xảy ra trên đồi Capitol.
 
Malcolm chau mày, cố gạt hết mọi thứ đi để suy ngẫm cho thật thấu đáo dự tính anh đang ôm ấp. Nếu kế hoạch này mà không thành thì mọi thứ coi như hoàn toàn sụp đổ. Hơn nữa đối với anh, như thế có nghĩa là hết đời. Tuy nhiên, điều đó không hề khiến Malcolm xúc động bao lăm. Điều anh lo nhất lúc này là nếu thất bại, những tin tức quý giá đó sẽ mất đi mãi mãi. Nhưng anh không muốn ai đó sẽ biết được những tin tức quý giá kia trước khi anh thử thực hiện cái kế hoạch đang dự tính. Mà nếu vậy thì có cơ trễ nải mất. Cho nên anh phải tìm cách làm thế nào để tin đó đến muộn hơn.
 
Tấm biển hiệu chói sáng bên kia đường đã gợi cho chàng trai một ý hay. Anh liền bắt tay ngồi viết, lợi dụng mọi thứ giấy má đang có sẵn trong tay. Hai mươi phút sau, anh đã ghi xong mọi chuyện xảy ra trong năm hôm nay cùng những đánh giá về khả năng diễn biến tiếp theo sau đó rồi cho vào ba chiếc phong bì nhỏ xin được của một cô hầu bàn. Mấy mảnh giấy chùi miệng, anh gửi cho FBI còn những thứ giấy má moi được trong ví ra – cho CIA; riêng cho báo Washington Post thì là tấm bản đồ thủ đô Washington mà anh nhón được ban nãy ở trạm bán xăng Gulf. Đoạn, anh cho cả vào một chiếc phong bì lớn mua được ở cửa hiệu Drus store. Loay hoay mãi, Malcolm mới nhét được chiếc phong bì dày cộm ấy vào thùng thư. Ở mặt trước, anh đọc thấy dòng chữ: “Lần mở thứ hai: 14:00 giờ”. Lá thư để gởi cho ngân khoản của Malcolm tại một nhà băng mà chẳng hiểu vì lẽ gì cũng đóng cửa vào thứ ba hàng tuần, lúc 14:00 giờ. Như thế là, theo tính toán của anh, chiếc phong bì ấy chỉ được các viên chức ở nhà băng nọ bóc ra vào hôm sau và chuyển đến cho các địa chỉ ghi ở bên ngoài. Cho nên anh còn dôi ra ít nhất hai mươi bốn tiếng đồng hồ nữa. Trong khoảng thời gian ấy, anh sẽ thực hiện cái kế hoạch đã dự tính. Malcolm thở phào nhẹ nhõm: anh hoàn toàn không còn bị gì ràng buộc nữa – hết thảy những gì anh biết về vụ này đều đã được chuyển đến những nơi đáng được biết cả rồi…
 
…Chiều hôm ấy, Malcolm trà trộn vào đám du khách đứng nối đuôi nhau bên chân tượng đài George Washington, chờ đến lượt được trèo lên nóc ngắm quang cảnh thủ đô. Trong khi đó thì đám nhân viên mật vụ và cảnh sát, ai nấy đều lồng lộn lên, ngậm đắng nuốt cay sục sạo tìm anh khắp mọi xó xỉnh của thủ đô. Họ đã đụng đầu nhau không biết bao nhiêu lần trong khi chạy theo hết tin giả này đến tin giả khác về nơi Malcolm ẩn náu. Ba tốp nhân viên điều tra do ba cơ quan an ninh độc lập cử ra, đã cùng một lúc đỗ xe trước cửa một khách sạn nhỏ để kiểm tra những tin tức về nơi Malcolm trú ngụ mà họ nhận được một cách độc lập với nhau. Những tin tức ấy hóa ra cũng lại là tin giả. Bà chủ rốt cục chẳng hiểu đã xảy ra chuyện gì, ngay cả sau khi những tốp điều tra nọ bực tức ra về. Một viên chức làm ở tòa nhà Quốc Hội, diện mạo nom từa tựa như Malcolm đã bị một tốp nhân viên do FBI phái đi tuần tra phố xá Washington bắt giữ. Nửa tiếng sau, người ta đã xác minh được lai lịch của anh ta và ra lệnh thả thì ngay lập tức anh chàng lại bị bắt giữ để thẩm vấn – nhưng lần này là do cảnh sát đô thành tiến hành. Đám phóng viên báo chí đã làm cho các nhà chức trách vốn đã cáu tiết khi chưa bị họ quấy rầy phải phát chán lên bởi những cậu hỏi bất tận về vụ đọ sung bí ẩn trên đồi Capitol. Các cơ quan và các cục chuyên lo về công tác tình báo và an ninh, đã phải phát điên lên với những cú điện thoại của các nghị sĩ thượng viện, hạ viện và chính khách thuộc đủ mọi xu hướng và đại diện cho đủ mọi lợi ích, yêu cầu giải thích những tin đồn đang xôn xao khắp nơi về chuyện những thông tin mật có liên quan đến nền an ninh quốc gia bị rò rỉ. Dĩ nhiên, bất cứ ai nhận được những cú điện thoại đó cũng đều từ chối bàn bạc những vấn đề nêu trêu qua dây nói.
 
Kevin Powell lại cố giải bài toán về Thần Ưng và tìm kiếm Malcolm. Trong ngày xuân đẹp trời đó, những câu hỏi bí ẩn nọ vẫn tiếp tục giày vò ông giữa lúc ông đang lững thững dạo bước trên đường Capitol Đông. Không một gốc cây nào, không một ngôi nhà nào dọc hai bên đường phố này gợi nhắc cho ông dù là một lời giải đáp cỏn con đi nữa. Vì vậy, lúc 11:00 giờ, ông không còn đủ kiên nhẫn nữa, đánh thất thểu quay về gặp sếp – người chỉ huy thực thụ của toàn bộ chiến dịch săn tìm này.
 
Powell đến hơi trễ nhưng ông hối hả bước vào phòng làm việc của sếp, thì cái nhìn của người cao tuổi vẫn không hề tỏ ra chút gì là quở trách cả. Trái lại, hôm nay sếp càng tỏ ra hồ hởi hơn mọi ngày. Thoạt tiên, Powell nghĩ rằng thái độ niềm nở đó hẳn là chỉ dành cho ông khách lạ đang ngồi sau chiếc bàn con kia. Nhưng càng lúc ông càng hiểu rằng mình nhầm to: sếp vui vẻ một cách thực lòng.
 
Ông khách lạ nọ là một trong số những người cao to nhất mà Powell từng gặp trong đời. Của đáng tội, khi người ta ngồi, thì chẳng dễ gì đoán định nổi tầm vóc. Tuy nhiên, Powell vẫn nghĩ thầm: “Bỏ rẻ cũng phải cao đến hai thước mốt, hai thước hai!”. Dáng người bệ vệ, cân nặng phải tạ rưỡi là ít. Toàn thân bị bó rọ trong một bộ com-lê đắt tiền, cắt rất khéo. Mái tóc đen rậm chải chuốt rất công phu. Powoll nhận thấy cặp mắt nhỏ của ông ta đang thản nhiên, chăm chú ngắm nhìn mình như thế muốn lượng định tài cán, tư chất của ông vậy.
 
- A, Kevin, - người cao tuổi lên tiếng – tuyệt quá! Chúng tôi đang mong anh về góp chyện đây. Hình như anh đã quen biết tiến sĩ Lofts rồi thì phải?
 
Powell không quen riêng ông ta, nhưng anh có biết ít nhiều về công việc của vị tiến sĩ này. Crawford Lofts có lẽ là vị tiến sĩ chuẩn đoán bệnh tâm thần xuất sắc nhất nước. Tuy thế, chỉ một số nhân vật trong chính giới là biết tiếng ông ta. Hiện nay, tiến sĩ đang điều hành “Trung tâm phân tích và chuẩn đoán tâm thần học” trực thuộc CIA.
 
Sau khi gọi thêm cho Powell một tách cà phê nữa, người cao tuổi quay sang phía ông, nói tiếp:
 
- Tiến sĩ Lofts hiện đang giúp chúng ta khảo nghiệm về trường hợp Thần Ưng. Suốt mấy hôm nay, tiế sĩ đã gặp gỡ và trò chuyện với đủ mọi loại người để tìm hiểu thêm về chàng trai ấy. Tiến sĩ cũng đã nghiên cứu hồ sơ cá nhân của anh ta, công việc của anh ta, thậm chí còn sống hàng mấy giờ liền trong căn hộ anh ta nữa. Nếu tôi không nhầm thì người ta quen gọi công việc đó là “tái tạo hình ảnh thực” của đối tượng nghiên cứu. Tiến sĩ, xin ngài đích thân giảng giải cho chúng tôi về những khoản đó; như thế, chúng tôi sẽ dễ hình dung hơn.
 
Powell lấy làm ngạc nhiên với cái âm hưởng dịu dàng trong giọng nói của ông tiến sĩ – hộ pháp nọ.
 
- Tôi nghĩ ngài đã nói gần hết cả rồi đấy thôi. Cái chính mà tôi đang cố hình dung là Malcolm sẽ hành động, sẽ ứng xử ra sao tròng tình thế này hoặc tình thế khác, bằng cách chú ý đến quá khứ và hiện tại của anh ta. Tôi tạm đưa ra mấy kết luận: chàng trai ấy sẽ ứng xử một cách hết sức bất ngờ và đầy sáng tạo vì bị chi phối bởi cảm hứng tức thời. Do vậy, anh ta sẽ chẳng đếm xỉa gì đến mọi lời dặn dò, chỉ vẽ của ngài, một khi những lời chỉ vẽ, khuyên bảo đó không hợp với những điều anh ta mong muốn.
 
Rõ ràng là tiến sĩ Lofts không thích thú mấy với việc khuếch trương sở trường của ông ta dù vì bất cứ lý do gì. Điều đó cũng khiến Powell kinh ngạc. Và ông cũng không ngờ rằng vị chuyên gia lỗi lạc ấy lại ngừng lời đường đột như vậy.
 
- Thế ngài sẽ làm gì để giải quyết vấn đề này? – Powell hỏi giọng lắp bắp và ông cảm thấy mình lố bịch hết sức khi nghe thấy câu hỏi đầy vẻ tùy hứng của chính mình.
 
Tiến sĩ Lofts đứng dậy định ra về. Đúng, ông ta cao phải đến 2,15 mét là ít.
 
- Tôi đã phái các nhân viên của chúng tôi đến các khu vực khác nhau trong thành phố, nơi mà tôi có cảm tưởng là Malcolm sẽ xuất hiện. Nếu ngài cho phép, tôi muốn xin được trở lại với các cộng sự của tôi để xem công việc tiến triển đến đâu rồi.
 
Tiến sĩ Lofts lịch sự gật đầu chào người cao tuổi và Powell rồi rời ngay phòng làm việc.
 
Powell đưa mắt nhìn sếp:
 
- Ngài nghĩ sao? Ông ta có hy vọng thành công không ạ?
 
- Không đâu, cũng chẳng hơn gì so với bất kỳ ai. Thì chính ông ta cũng hiểu thế mà lại. Ông ta vấp phải cả một đống các nhân tố thường xuyên biến động. Vì thế cũng chẳng biết làm gì khác hơn là đưa ra những lời giải đoán dựa trên những suy luận thuần túy lô-gíc. Hiểu được những khả năng hạn hẹp của chính mình là đức tính quý giá nhất của ông ta, Kevin ạ.
 
- Thế thì cần gì phải nhờ đến ông ấy, thưa ngài? Vì ta có thể xin thêm bao nhiêu nhân viên tùy theo tình hình đòi hỏi kia mà, cần gì phải cầu cứu trung tâm nghiên cứu tâm thần học nữa.
 
Ánh mắt người cao tuổi lóe ra những tia sáng ranh mãnh nhưng giọng nói của ông vẫn khá lãnh đạm:
 
- Nhưng việc đó chính là để khỏi cản trở chúng ta xin thêm “thợ săn”, dĩ nhiên là nếu đám “thợ săn” đó biết săn lung theo nhiều kiểu khác nhau. Tôi tha thiết tìm Malcolm nên tôi không bỏ qua bất cứ cơ hội nào, dù là nhỏ đến bao nhiêu đi chăng nữa. Nào, bây giờ anh kể đi, công việc đến đâu rồi?
 
Powell vắn tắt trình bày với sếp những việc mà các cộng sự của ông đang tiến hành. Những thông tin đó thực ra vẫn chỉ là những gì họ đã biết từ lúc mở đầu chiến dịch. Nghĩa là không nhích thêm lên được bước nào…
 
… Lúc 16:30, Malcolm quyết định: đã đến lúc phải ra tay xoay một chiếc xe. Anh cân nhắc trong óc hàng loạt cách thức “đánh thó” một phương tiện giao thông, nhưng lại nhanh chóng lần lượt loại bỏ từng phương án một vì nhìn chung đều quá mạo hiểm. Vận may đã nhập thân vào “Binh đoàn Hợp chủng quốc” và một thứ sản phẩm cụ thể của một nhà máy rượu ở bang Kentucky, giúp Malcolm giải quyết dễ dàng bài toán nan giải nọ.
 
Giá không có “Binh đoàn Hợp chủng quốc” và cuộc hội thảo toàn quốc của tổ chức đó về đề tài “Thanh niên và nạn ma túy” thì Alvin Phillips chắc hẳn sẽ không bao giờ có dịp về thăm thủ đô và càng không có được cái vinh dự đến tham quan đài kỷ niệm tổng thống George Washington. Thủ lĩnh của tố chức đó tại bang Indiana đã chọn chính Alvin đi dự cuộc hội thảo toàn quốc nọ và đài thọ mọi khoản chi phí, để anh ta được dịp tìm hiểu mọi tác hại có thể có của các chất ma túy đối với thanh niên. Người ta đã cấp cho chàng trai một giấy ra vào để đến tham dự bất cứ cuộc họp mặt nào tổ chức trong dịp hội thảo. Mẩu giấy đó, ngoài những quyền lợi khác, còn cho phép anh ta không phải đứng vào hàng người rồng rắn nối đuôi nhau bên chân đài kỷ niệm mà có thể leo tót lên tận ngọn chiếc “bút chì” tạc trên đó. Ác thay, tối qua chàng ta đã đánh mất mẩu giấy quý hóa kia. Tuy nhiên, Alvin lại cảm thấy có nghĩa vụ phải xem bằng được cái tượng đài bề thế này, dù chỉ là đứng từ xa mà nhìn để mai kia còn có cái mà múa may ba tấc lưỡi với đám trai trẻ ở nhà.
 
Còn nếu như không có cái thứ nước trong vắt, cay cay của nhà máy rượu ở bang Kentucky kia thì Alvin hẳn đã không chân nam đá chân chiêu đúng vào lúc ấy. Số là để góp phần bài trừ nạn nghiện ma túy, nhà máy nọ có nhã ý biếu không cho mỗi đại biểu tham dự cuộc hội thảo một chai Whisky thượng hảo hạng. Chiều hôm đó, bộ phim tài liệu chiếu chiêu đãi đã khiến Alvin buồn bực, vì nó chứng minh rất đỗi hùng hồn rằng ma túy thường chỉ đẩy những thiếu nữ măng tơ đến những hành vi vô đạo đức, đến nỗi anh chàng nốc sạch chai rượu kia ngay từ khi còn ngồi trong khách sạn. Thứ Whisky đó khiến Alvin khoái khẩu đến mức chàng liền mua thêm một chai nữa để “đè bẹp cơn say” theo lối “dĩ độc trị độc” và ăn mừng xứng đáng ngày bế mạc cuộc hội thảo. Và ngay từ lúc chưa kết thúc các phiên họp tàn thể, anh chàng đã kịp “đánh vơi” mất đi già nửa, rồi lên đường đến đài kỷ niệm ngay tuy chân cẳng có phần hơi lảo đảo.
 
Thực ra, không phải Malcolm đã cất công đi tìm Alvin mà chính là chàng trai tỉnh lẻ nọ đã tự nguyện nhập bọn với đám du khách chờ tham quan đài kỷ niệm. Khi đã đứng vào hàng, anh chàng liền bô bô với hết thảy những ai chịu khó nghe mình rằng sở dĩ anh ta đành phải phơi mình dưới cái nắng đáng nguyền rủa này chẳng qua chỉ vì lòng yêu nước mà thôi. Lẽ ra anh ta cũng chẳng phải xếp hàng thế này đâu, mà trèo tót lên tận cái đỉnh đài kia rồi nếu như anh ta không bị một con nỡm đường đầu xó chợ, quỉ tha ma bắt rút mất chiếc ví, trong đó anh cất tấm thẻ ưu tiên quỷ quái ấy. Anh ta dĩ nhiên đã nói ngon nói ngọt với con bé rằng trong ví không có xu nào; nó chỉ đựng toàn những tờ tín phiếu do “Binh đoàn Hợp chủng quốc” cấp cho những thứ mà ai cũng có thể bỏ tiền ra mua để thực hiện những chuyến viễn du thú vị. Của đáng tội, con bé có bộ ngực tuyệt quá, mà tài tình thật, bỏ qua thì kể cũng hoài. Khốn nỗi chung qui cũng tại anh ta – ai bảo cứ muốn lôi nó vào chiếc ô-tô mới tậu?
 
Vừa nghe đến hai tiếng “ô-tô”, Malcolm đã lập tức “chia sẻ” ngay với chàng trai khốn khổ nỗi thù hận bọn con gái ăn sương và tỏ lòng ái mộ nồng nhiệt với “Binh đoàn Hợp chủng quốc” bang Indiana, với Whisky Kentucky và với chiếc Chrysler mới tậu của Alvin. Sau vài lời nhận xét chung, anh liền nói cho Alvin hay người đang trò chuyện cùng anh ta là một cựu chiến binh, từng tham gia một trong những cuộc chinh chiến vì tổ quốc Hoa Kỳ và - thật là kỳ ngộ - cũng rất máu me chuyện xe pháo.
 
- Nào, anh bạn, ta làm thêm mỗi thằng một chai nữa đi Alvin nhé!
 
- Thật chứ? Cậu cũng rành xe hơi lắm hả?
 
Nghe nói đến những điều trọng đại như vậy, Alvin tạm quên chai rượu trong chốc lát. Tuy nhiên, tình bạn mới nẩy nở không lý lại cản trở họ muống mừng?
 
- Cậu có muốn được nhìn tận mắt một con “tuấn mã bằng thép” thực thụ không? Tớ vừa tậu nó đấy - một chiếc Chrysler mới toanh nhé! Tớ lái thẳng một mạch từ Indiana về đây đấy anh bạn ạ. Đằng ấy đã đến Indiana của tớ bao giờ chưa ấy nhỉ? Thế nào cũng phải đến chơi với tớ một bận! Thăm mình với bà lão nhà mình một thể. Của đáng tội, chẳng sắc nước hương trời gì lắm đâu, nhưng trông cũng chẳng đến nỗi nào. Tớ với cậu không khéo cùng tuổi đấy! Nhìn tớ, ai dám bảo ngoài ba mươi chứ? À quên, tớ đang nói đến đâu ấy nhỉ? Nhớ rồi, bà lão nhà mình. Bà lão tốt tuyệt trần. Phải cái hơi béo nhưng không sao, tớ đã nói là…
 
Lúc này, Malcolm đã khôn khéo lôi Alvin ra khỏi đám đông và đưa anh ta đến chỗ bãi đỗ xe. Đã năm, sáu lần anh ghé miệng vào chai rượu của Alvin. Nhưng hai môi vẫn mím chặt. Anh chỉ vờ phồng má ra, làm như nốc những ngụm rượu lớn, rất khoái trá. Anh không muốn để cho rượu làm mất đi sự linh hoạt của những phản ứng mà mình cần có tối nay. Nhưng đến lượt Alvin thì anh ta uống thả cửa. Khi họ đến được chỗ đỗ xe, chai rượu chỉ còn không đầy ba lóng tay.
 
Malcolm và Alvin vừa đi vừa sôi nổi trò chuyện về đám thanh niên bị chúa nguyền rủa và những trò nghiện ngập ma tuý quỷ quái của họ. Họ nói nhiều đến những cô gái, đám gái tơ chuyên khiêu vũ theo những điệu nhạc rộn rịp của dàn nhạc binh trong những dịp lễ lạc trọng thể và những trò mua vui cho công chúng tại bang Indiana. Đúng thế, làm tất cả chỉ vì cái thứ ma tuý đáng nguyện rủa ấy. Làm tất! Malcolm nhắc khéo cho cậu bạn mới rằng anh biết có thể tìm ở đâu hai cô gái xinh đẹp chỉ chờ cơ hội để làm bất cứ trò gì anh thích, miễn là được thưởng thức cái món cần sa đáng nguyền rủa ấy. Alvin ngắt lời bạn và hỏi, giọng buồn buồn:
 
- Đằng ấy biết thật đấy chứ?
 
Alvin ngẫm nghĩ một lúc, khi Malcolm (“John”) cam đoan với anh ta đúng thế thực. Malcolm cố lái câu chuyện theo hướng anh cần rồi lấy giọng thật thà như lúc xưng tội, nói cho Alvin biết là mình sẽ giúp cho anh ta tiếp xúc với những cô gái đó, để lúc về bang Indiana quê nhà, anh ta có thể kể lại với dân ở đó người ta đã làm gì trong thực tế với thanh niên và các chất ma tuý ưa thích của bọn họ. Thực thế! Vì các cô gái đó hiện giờ đang ở tại “chốn chung chạ” nên chắc hẳn mọi chuyện sẽ ổn hơn nếu chỉ một mình anh, “John”, đi gặp họ rồi chở họ về đây. Tiếp đó, cả bốn người sẽ đưa nhau về khách sạn của Alvin để trò chuyện cho thoải mái. Thật thế. Nếu họ trò chuyện ở đó thì tốt hơn nhiều so với ở đây, ngay trước mắt thiên hạ. Khi chỉ còn bốn người, anh ta có thể dễ dàng tìm hiểu việc tại sao họ lại sẵn sàng làm tất cả, sẵn sàng làm t-ấ-t c-ả chỉ vì cái món cần sa đáng nguyền rủa ấy. Alvin trao cho Malcolm chìa khoá, khi họ đã đến bên chiếc xe mới, bóng loáng nước sơn.
 
- Bình đầy xăng đấy, tha hồ chạy. Này, cậu không cần tiền sao, John? – Alvin nắn túi và lôi ra chiếc ví đầy căng. – Này, cần từng nào lấy từng ấy; con quỷ cái hôm qua chỉ lôi mất chiếc ví đựng tín phiếu thôi mà.
 
Malcolm cầm chiếc ví. Trong lúc Alvin nâng chai rượu bằng hai cánh tay run rẩy kề lên môi, người bạn mới của anh ta đã thó hết sạch giấy tờ, kể cả tấm thẻ đăng bộ của chiếc Chrysler mới tậu. Rồi anh trao lại chiếc ví cho Alvin.
 
- Này, cầm lấy, - anh nói – mình nghĩ họ chẳng muốn đòi tiền của cậu đâu, Alvin ạ. Ít ra là ngay lúc này.
Anh mỉm cười, cái cười của kẻ mưu mô. Khi nhìn thấy nụ cười ấy, Alvin cảm thấy tim mình đập nhanh thêm. Nhưng lúc này, anh ta đã quá say rồi, đến mức vị tất đã đủ sức để bộc lộ trên nét mặt một cảm xúc nào khác nữa.
 
Malcolm mở cửa xe. Trên ghế sau nằm chơ chỏng một chiếc mũ lưỡi trai nhàu nhò màu xanh. dưới sàn là một hộp các-tông vuông vắn đựng sáu lon bia mà Alvin trữ sẵn phòng khi bị cơn khát dày vò. Malcolm chụp chiếc mũ lên đầu bạn, đổi cho hắn cái hộp bia để lấy chai rượu rỗng. Anh nhìn khuôn mặt đỏ rừ và cặp mắt lờ đờ của Alvin. Đã mấy tiếng đồng hồ dang nắng rồi nên anh ta lúc này đã sẵn sàng ngả lưng xuống cỏ, thưởng thức bia lon. Malcolm mỉm cười và chỉ bãi cỏ:
 
- Khi chở mấy cô ấy về, tớ sẽ ra thẳng bãi cỏ kia tìm cậu đấy. Rồi ta cùng về khách sạn nhé! Cậu sẽ nhận ra chúng mình ngay vì cả hai ngực đều đầy đặn lắm. Không khéo cậu chưa thanh toán xong chỗ bia này, tớ đã về đến nơi rồi cho mà xem. Đừng lo gì. 
 
Anh thân mật đẩy Alvin về phía vườn hoa, sau khi anh ta lảo đảo ôm lấy bạn, hôn mấy cái rõ kêu rồi từ từ buông ra. Rời bãi cỏ, Malcolm còn nhìn thấy người bạn mới một lần nữa qua tấm gương chiếu hậu: Alvin đã ngồi thụp ngay xuống bãi cỏ, dạng hai chân ra, ôm lấy thùng bia, cách xa tất cả những đám du khách đang ngồi nghỉ chân trong vườn hoa. Malcolm còn chưa kịp ngoặt tay lái rẽ sang phố khác thì cậu bạn đã mở cái hộp giấy, háo hức lôi ra một lon bia và chậm rãi nhấp từng ngụm lớn. 
 
Thùng xăng sau xe gân như còn đầy nguyên. Malcolm rẽ sang con đường vòng cung, chạy quanh đô thành. Anh dừng xe lại một lúc bên một hiệu ăn nhỏ dành cho khách qua đường trong khu Chevy-Chase, ăn một khúc bánh mì kẹp pho-mát rồi tiện thể tạt luôn vào nhà vệ sinh của cửa hiệu. Nhân ngồi trong đó, anh cũng lôi khẩu súng ngắn ra kiểm tra. 
 
Nhà số 42 đường Elwood quả là một dinh cơ thênh thang. Từ ngoài phố nhin vào, khách qua đường chẳng thấy gì khác hơn là bóng toà nhà gác đồ sộ hai tầng thấp thoáng sau những hàng cây cổ thụ cành lá um tùm. Muốn đến được toà nhà phải đi qua một cánh cổng sắt vững chãi: rồi một lối đi hẹp, lượn khúc quanh co trong một vuông đất rộng thênh thang cũng là tài sản của chủ nhân. Người hang xóm gần nhất của Attwood cũng ở cách đó đến nửa cây số. Ba mặt còn lại của toà nhà đều được cây cối rậm như rừng bao bọc. Khoảng đẩt ở mặt tiền, cây cối có phần quang hơn, Malcolm chỉ liếc mắt nhìn qua chứ không dám đỗ hẳn xe lại để quan sát kỹ cái dinh cơ bề thế ấy nên anh chỉ biết một điều: toà nhà quả đồ sộ thật. Đó là một sai lầm không thể tha thứ. 
 
Anh ghé vào một cây xăng nhỏ, ở cách đường khá xa, kiếm một tấm bản đồ của khu vực này. Anh cả mừng khi biết mặt sau toà nhà là những ngọn đồi thấp không có ai sinh sống. Anh kể với người bán xăng mình là một nhà điều học, chuyên sưu tầm những loài chim quý. Trong kỳ nghĩ phép năm nay, anh tình cờ phát hiện được ở đây một con chim lạ, sắc lông rất ưa nhìn, có giọng hót tuyệt hay, muốn bắt vê nuôi. Người bán xăng liền miêu tả cặn kẽ cho “nhà điều học” mọi đường ngang, ngõ tắt không ghi trên bản đồ, khả dĩ giúp anh tìm được giang sơn của con mồi tuyệt diệu nọ. Malcolm mừng thầm: có một com đường nhỏ chạy ngang qua sát sau lưng toà nhà số 42, phố Elwood kia! Thật vừa khéo!
Nhờ người bán xăng tận tâm nọ, Malcolm tìm được khá dễ dàng con đường đang ao ước ấy. Tuy toàn hố rãnh, không rải nhựa và chỉ còn trơ một ít đá dăm, nhưng may thay vẫn còn đi lại được. Loanh quanh một hồi dưới chân những ngọn đồi thấp, rồi men theo những khe suối nông choèn, chàng trai bắt đầu ra đến những lối mòn ngang dọc, mấp mô, mà xưa kia hẳn là đường đi của các đàn gia súc chăn thả trong vùng. Rừng ở đây rậm đến mức tầm mắt của anh chỉ nhìn được những gì ở cách hai bên vệ đường chừng bảy, tám thước.
Nhưng rồi rốt cục chàng trai vẫn gặp may. Lên đến đỉnh ngọn đồi tiếp theo, anh đã nhìn thấy toà nhà cần tìm, nhô cao lên giữa những ngọn cây cổ thụ lớn ở mé tay trái, cách chỗ anh đang đứng khoảng năm trăm mét. Malcolm rời ngay đường, cho xe rẽ vào một lối mòn đầy gò đống, hố rãnh rồi tiến thẳng đến một khoảng đất trống khá rộng.
Rừng cây đứng lặng như tờ; nền trời bắt đầu nhuốm ánh đỏ của chiều hôm. Malcolm bước vội, lách người qua những gốc cổ thụ cao to. Anh biết phải đến thật gần toà nhà trước khi đêm đến; nếu không thì chẳng còn biết đường nào mà lần trong bóng tối.
Chàng trai phải cật lực mất nửa tiếng đồng hồ. Khi nắng chiều tắt dần và hoàng hôn buông xuống, anh đã trèo lên được tận đỉnh một ngọn đồi cao và cơ ngơi của nhà Attwood lúc này đã ở ngay dưới chân đồi, cách chỗ anh đứng chưa đầy ba trăm mét. Malcolm ngồi thụp xuống cố thở đều cho lồng ngực căn phồng làn không khí trong lành tươi mát. Anh cố ghi nhớ thất kỹ mọi cảnh vật chung quanh, khi mắt vẫn còn nhận rõ chúng trong ánh chiều dần dần tắt. Anh thấy thấp thoáng trong mấy khung cửa sổ những bóng người đi lại. Mảnh sân rộng thênh thang được vây quanh bởi một bức tường đá khá cao. Sau nhà, chơ vơ một nếp kho nhỏ cũ kỹ.
Malcolm nằm chờ cho trời tối hẳn…
 
Robert Attwood ngồi dựa ngửa trong chiếc xa-lông ưa thích của lão. Trong khi thân thể lão đang bất động, thì đầu óc lão vẫn suy nghĩ rất lung về đủ mọi thứ chuyện. Lão chẳng muốn tiếp Maronic và đồng bọn của hắn chút nào vào tối hôm nay, nhất là lại tiếp tại đây, ngay trong tư dinh của lão. Lão biết bọn hắn đang lâm vào tình thế nguy ngập, bị sức ép ghê gớm của một loạt nhân tố bên ngoài. Lão cũng biết bọn họ sẽ cố buộc lão phải bằng lòng dấn thân vào một cách giải quyết đầy mạo hiểm: được ăn cả, ngã về không. Lúc này, Attwood còn chưa biết nên xử trí ra sao. Một loạt biến cố mới xảy ra gần đây đã làm thay đổi hẳn bức tranh chung. Hiện giờ, nhiều điều còn tuỳ thuộc ở cô ả nọ. Nếu hồi tỉnh, ả có thể nhận mặt được lão.. Kể cũng tiếc thật, nếu cơ sự lại xoay chuyền sang chiều hướng đó. Trong tình cảnh này mà phái Maronic mò vào quân y viện, thanh toán ả ta, thì mạo hiểm quá. Hơn nữa, bọn kia đã tăng cường mọi biện pháp an ninh để canh giữ cô ả rồi. Attwood bật lên một chuỗi cười gằn. Mặt khác, sự kiện cô ả sống sót có thể ảnh hưởng một cách rất lý thú và thuận lợi đến tiến trình các biến cố, nhất là về phương diện mối quan hệ giữa lão và Maronic. Attwood cười to hơn. Maronic chưa bao giờ bắn chệch đích; thế mà hôm đó hắn đã bắn trượt! Nói của đáng tội, chỉ một tí ti thôi, nhưng dẫu sao vẫn là  trượt. Không loại trừ khả năng người ta sẽ dùng cô như một nhân chứng sống để kết tội Maronic. Attwood còn chưa biết tính sao đây, nhưng lão tạm nhất quyết: cứ để cho Maronic vẫn đinh ninh trong bụng là cô ta đã chết rồi. Có thể sẽ dùng cô ả trong trò chơi ú tim này cả từ nay về sau nữa đây. Bây giờ, hẵng cứ để cho Maronic dốc toàn lực vào việc truy tìm Malcolm đã. Lão hiểu là Maronic, sở dĩ cứ nằng nặc đòi tổ chức cuộc gặp mặt tại đây, ngay trong dinh cơ lão, chẳng qua chỉ cốt muốn buộc chặt thêm lão vào công việc của hắn. Chắc chắn là Maronic sẽ cố thu xếp thế nào để cuộc viếng thăm này không thể lọt ra ngoài những cặp mắt tò mò của hàng xóm láng giềng; vì ít nữa những người này sẽ khai ra với cảnh sát, nếu tình thế chẳng may sẽ xoay sang hướng bất lợi đối với lão. Làm như vậy, hắn hy vọng rằng ít nữa sẽ nhờ cậy được vào sự trung thực vờ của lão. Attwood cười phá lên. Lão đã nghĩ ra được cách để biến những công sức của Maronic thành công dã tràng.  Có lẽ cô ả nọ chưa hẳn đã là người giữ vai trò cuối cùng trong vụ này. Nếu…
Thôi, em đi đây, anh nhé.
Attwood quay sang phía người đàn bà vừa nói, một mệnh phụ tóc hoa râm, dáng đẫy đà, mặt một bộ quần áo rất đắt tiền, cắt cực khéo. Lão đứng dậy, tiễn vợ ra cửa. Lệ thường, hễ cứ ở bên cạnh vợ, bao giờ lão cũng liếc nhìn những mũi kim nhỏ li ti chạy dọc hai bên mép vết sẹo dài trên cổ và ngay sát nơi chân tóc, mà một nhà phẩu thuật chỉnh hình đã khâu cho mụ, khi ông ta tiến hành một ca mổ tài tình để kéo căng da mặt ra làm cho mụ trẻ thêm ra đến vài tuổi. Attwood mỉm cười, nghĩ đến ca mổ đó và những giờ phút dài bất tận mà mụ vợ vẫn thường ngồi trong các mỹ viện sang trọng và thời thượng, cốt giữ cho nhan sắc khỏi phai tàn, nhằm mồi chài gã nhân tình trẻ măng mà lão biết khá tường tận.
Elein Attwood đã ngoài năm mươi, nghĩa là trẻ hơn chồng đến năm tuổi, nhưng lớn hơn gã nhân tình nọ đến những hăm tư tuổi.
Nghe hoà nhạc xong, chắc em ở lại đằng nhà Jane luôn đấy. Anh có muốn em gọi điện về không?
Chả cần đâu, em ạ. Nếu trước nửa đêm mà em chưa về, thì anh biết ngay là em đã nghỉ lại ở nhà cô ấy rồi. Đừng lo gì cho anh. Gởi lời chào Jane, nhé!
Hai vợ chồng ra khỏi nhà. Attwood hờ hững chạm khẽ đôi môi vào cái má bự phấn của vợ. Trên đường ra chỗ chiếc xe (một ô tô thể thao Mỹ chính cống, chứ không phải chiếc Mercedes đen kia) đang đỗ trên một lối đi rải nhựa ngay trước mặt nhà, hẳn mụ ta chỉ nghĩ đến gã nhân tình và cả một đêm dài đang chờ họ. Còn Attwood thì ngay khi cửa xe chưa dập lại, lão đã trở về với những ý nghĩ lao lung của lão về Maronic.
Malcolm đã chứng kiến toàn bộ cảnh tiễn biệt trước thềm, nhưng vì đứng khá xa nên anh không nhìn rõ mặt của hai vợ chồng. Việc vợ Attwood ra đi càng khiến anh thêm vững tâm. Malcolm quyết định: cố chờ thêm nửa tiếng nữa, rồi hẳng bắt đầu ra tay.
Nhưng chỉ mười lăm phút sau, tình thế đã đổi khác đi nhiều: anh nhìn thấy hai bóng người chậm rãi xuất hiện trên con đường rải nhựa. Họ tiến về phía ngôi nhà. Cả hai  đều như nhoà đi trong bóng tối dày đặc. Giá họ không đi mà cứ đứng nguyên một chỗ thì chưa chắc Malcolm đã nom thấy. Điều duy nhất mà anh còn nhận rõ được là trong hai người đó, một người thì cao lênh khênh và gầy nhom như quỷ đói. Anh cảm thấy dáng hắn quen quen, nhưng dù cố đến mấy cũng không sao nhớ nổi đả gặp hắn ở đâu. Hai bóng người dừng lại trước cửa, bấm chuông rồi trong thoáng chốc đã chui tọt vào nhà.
Ví thử có ống nhòm, chắc anh đã nom thấy xe của bọn ấy. Nó đỗ lù lù trước cổng, ngay bên con đường nhựa dẫn thẳng đến trước thềm nhà. Tuy vẫn muốn cho ai đó có thể biết rõ cuộc viếng thăm đêm hôm này, nhưng Maronic vẫn không thích thiên hạ để mắt đến số xe của hắn.
Malcolm đếm từ một đến năm mươi, rồi bắt đầu lặng lẽ lên đường. Ba trăm mét. Trời tối mò. Phải chật vật lắm anh mói nhìn rõ được những cành cây, những gốc cây cứ chực níu lấy chân anh, quật anh ngã sấp mặt xuống đất. Anh bước đi thật chậm, không thèm bận tâm gì đến những bụi gai, những cành gãy đâm vào da thịt đau điếng. Đi được hơn nửa đường, Malcolm vấp phải một gốc cây rách toạc cả mảng quần, lại dập luôn đầu gối. Chật vật lắm anh mới nén được một tiếng kêu. Một trăm mét. Tuy hơi khập khiễng nhưng anh vẫn nhảy nhanh qua một bụi cây và một vạt cỏ cao, rồi ngồi xuống bên chân bức tường đá. Anh rút khẩu súng ngắn nặng trịch giắt bên hông ra, cầm trên tay và cố giữ cho nhịp thở thật đều. Bên đầu gối bị dập vẫn đau nhói, nhưng anh cố không nghĩ đến nó. Bên kia bức tường này đã là mảnh sân rộng trước nhà. Ở góc sân, mé bên tay phải là gian nhà kho cũ kỹ dùng để cất giữ dụng cụ làm vườn. Giữa gian kho ấy và ngôi nhà thấp thoáng dăm khóm cây cảnh xanh tươi quanh năm.
Malcolm ngước nhìn trời. Trăng vẫn chưa lên. Mây thưa thớt. Nền trời lung linh muôn ngàn vì sao xanh biếc. Anh nín thở chờ đợi và tự trấn an mình rằng không hề nghe thấy một tiếng động khả nghi nào trong bóng đêm dày đặc. Anh đu người lên, trèo qua bức tường đá, rồi lẹ làng chạy đến sau bụi cây gần nhất. Chỉ còn chừng năm mươi mét nữa thôi.
Một bóng đen se sẽ rời gian nhà kho và nhanh chóng biến mất trong bóng đem. Malcolm lẽ ra phải để ý đến cái bóng đen đó, nhưng tiếc thay anh lại bỏ qua.
Anh chạy thêm một quãng ngắn nữa, và lúc này chỉ còn cách toà nhà chưa đầy hăm nhăm mét. Ánh đèn từ mấy khung cửa sổ hắt ra chiếu sáng rực bãi cỏ xanh rì, ngăn cách Malcolm với khóm cây tiếp theo. Dãy cửa sổ của toà nhà này trổ rất thấp. Malcolm  không thích bị một cặp mắt nào đó tình cờ nhìn ra, thấy anh chạy ngang qua bãi cỏ trống trải. Thế là anh nằm sấp xuống, chậm rãi bò. Mười mét. Đã nghe giọng nói lao xao, vọng qua mấy khung cửa mở rộng. Anh chẳng thèm đếm xỉa gì đến những tiếng sột soạt lạ tai sau lưng mà vẫn tự trấn an mình rằng đó chẳng qua chỉ là chuyện thần hồn nhát thần tính hoặc tiếng lá xao xác trong vườn.
Malcolm hít một hơi thở dài và bắt đầu trườn nhanh đến bên khóm cây mọc ngay dưới một khung cửa sổ mở toang. Nhưng mới nhích được thêm mấy bước, thì sau lưng chợt nổi lên tiếng những bước chân gấp gáp. Đúng lúc ấy, anh bị cú đòn điếng người nện ngay vào giữa gáy, nghe đánh “rắc” một tiếng.