Dịch giả: Nguyễn Đức Dương
Thứ Năm (Chiều)

Tuy trời xấu, nhưng Malcolm vẫn vẫy tắc xi rất dễ dàng. Hai mươi phút sau, anh đã trả tiền cho tài xế, xuống xe cách dãy rạp “Circus-3” chừng hai dãy phố. Lúc này, chàng trai đã hiểu rõ rằng phải lẫn tránh thật khôn khéo, không được để cho bất cứ một cặp mắt tò mò nào nom thấy. Chỉ sau vài phút, anh đã ngồi thu lu trong góc tối nhất của một quán rượu đông nghịt khách. Chẳng hiểu sao ở đây chỉ toàn thấy khách đàn ông. Malcolm hy vọng rằng mình sẽ không quá nổi bật tại nơi này – thêm một anh mê rượu nữa, thì có gì là đặc sắc, trong cái quán toàn là khách đàn ông?
Cầm ly cốc-tai trong tay, chàng trai vừa thích thú nhấp thật chậm từng ngụm nhỏ chất nước uống vừa dễ chịu đó, vừa quan sát đám khách hàng đông đúc, cố chớp lấy thật nhanh những cái nhìn quá chăm chú từ phía họ. Trong đám đông cũng có vài người nhìn anh bằng cặp mắt hệt như anh.
Nhưng không một ai chú ý đến việc Malcolm chỉ đặt có mỗi một tay trái trên bàn. Tay bên phải anh giấu dưới gầm bàn, anh lăm lăm khẩu súng ngắn. Nó luôn hướng thẳng nòng về phía những ai tiến đến gần.
Đúng 14-40, Malcolm đường đột đứng phắt dậy, trà trộn vào một số khách hàng đông đúc, rời khỏi quán. Ra đến ngoài, anh vội vã tách ra, bước sang bên kia đường. Tiếp đó, suốt gần mười lăm phút đồng hồ, Malcolm cứ đứng loanh quanh trong mấy con hẻm nhỏ ở khu Georgetown. Anh đổi hướng đi liên tục, mắt luôn luôn theo dõi những người xung quanh. Đúng 3 giờ, khi biết chắc không bị ai theo dõi, chàng trai liền nhắm hướng dãy rạp chiếu bóng “Circus” mà sải bước.

*

Chim Sẻ là một viên chức nhỏ người, hay cáu gắt, đeo kính cận. Ông bị lôi vào một chiến dịch, mà ông chẳng hiểu mình sẽ đóng vai trò gì, mặc dù người ta đã báo cho ông biết đó không phải là phận sự của ông và ông phản đối khá quyết liệt. Ngoài ra, ông còn rất lo cho bà vợ vụng dại và bốn đứa con nhỏ. Bởi thế, để buộc ông nín thinh và nguôi giận, đám nhân viên bên bộ phận kỹ thuật đã choàng thêm lên người ông chiếc áo gi-lê đạn bắn không thủng. Chim Sẻ đã mặc chiếc áo đồng thau nặng trịch và nóng bức đó vào bên dưới sơ-mi. Bị gò bó trong thứ trang phục lạ lẫm này, Chim Sẻ càng cáu gắt. Ông không tài nào nhớ nổi Thần Ưng hay Malcolm là đứa cha căng chú kiết nào, vì học trò mà ông đào tạo lâu nay đã đông đến dăm bảy chục, và họ đều là những anh chàng trẻ măng, ngấp nghé bước chân vào con đường làm điệp viên cho CIA. Đám nhân viên ở bộ phận kỹ thuật bỏ ngoài tai hết thảy những chuyện đó, tuy họ vẫn kiên nhẫn ngồi nghe cho hết những lời ca cẩm của ông nhân viên huấn luyện lẩm cẩm.
Trên đường ra ô tô, Wazerby dặn dò hai viên tài xế để họ sẽ giúp hắn trong việc yểm trợ. Hắn kiểm tra khẩu súng có lắp ống giảm thanh to sụ như một con cá thu con và gật đầu, tỏ ý tán thưởng với gã nhân viên ban Kỹ thuật có bộ mặt ủ dột như đi đưa ma. Thông thường Wazerby phải ký vào biên lai nhận vũ khí, nhưng nhờ uy tín của Mitchell, nên thủ tục đó được xem là không cần thiết. Gã nhân viên nọ giúp Wazerby đeo cái bao súng đặc biệt vào dưới nách, rồi trao cho hắn hai mươi lăm viên đạn dự trữ, đoạn chúc hắn thành công. Wazerby lầu bầu câu gì đó trong mồm để đáp lại, rồi trèo vào chiếc Sedan sơn xanh.

*

Ba chiếc xe nối đuôi nhau rời Tổng hành dinh ở Langley. Chiếc Sedan chạy giữa. Vừa mới ra đến xa lộ dẫn về Washington, chiếc xe làm nhiệm vụ yểm trợ chạy cuối cùng bất thần bị nổ lốp. Người tài xế không còn làm chủ được tay lại nữa, và chiếc xe lạng quạng quay ngang ra, nằm chềnh ềnh giữa đường. Chẳng một ai lo lắng vì cái “tai nạn” bất ngờ đó. Nhưng mãi mười phút sau, hậu quả mới được khắc phục. Wazerby bám sát đuôi chiếc xe chạy đầu, vẫn phóng băng băng trên các phố phường Washington rối rắm như bàn cờ. Đến một con hẻm vắng vẻ trong khu Tây-Nam, chiếc xe yểm trợ vòng lại. Khi lướt ngang qua chiếc Sedan để phóng về nhà, người tài xế khoanh tròn hai ngón tay lại thành hình chữ O, giơ cao lên, ngụ ý bảo với Wazerby rằng: “Mọi thứ đều ô kê, ổn cả rồi nhé!”, Wazerby vẫn cho xe chạy thẳng về hướng Georgetown, mắt luôn luôn liếc vào chiếc gương chiếu hậu, xem có bị ai theo dõi ở phía sau không.
Rốt cục, Wazerby cũng hiểu ra rằng hắn đã phạm phải một sơ suất nhỏ, nhưng không thể tha thứ. Khi phái ba tên kia đến toà nhà “Hội Văn-Sử”, hắn chỉ ra lệnh giết hết tất cả những ai đang có mặt tại đó, mà quên dặn kỹ số người phải thanh toán là bao nhiêu. Bọn kia đã thi hành mệnh lệnh một cách chính xác. Nhưng chúng không biết còn một nhân viên nữa đã đi vắng, - vì mệnh lệnh không rõ ràng. Tại sao nhân viên ấy vắng mặt, Wazerby không biết; hơn nữa, chuyện đó đã bị hắn sơ ý bỏ qua. Giá biết sớm Thần Ưng đang ở ngoài trụ sở Hội, thì hắn đã trù liệu chu tất cả cho gã nhân viên này nữa. Nói gọn một lời, hắn đã phạm sai lầm! Bây giờ chính là lúc phải sửa chữa.
Rất có thể là Thần Ưng hoàn toàn không nguy hiểm, vì anh chàng đã quên béng câu chuyện giữa anh ta và Heidegger rồi. Nhưng Wazerby không thể mạo hiểm. Chính Heidegger đã đem chuyện đó ra hỏi tất cả các nhân viên ở tiểu ban 9, trừ tiến sĩ Lappe. Vì thế, không nên để cho bất kỳ ai nhớ lại câu chuyện. Giờ đây, chỉ còn một người độc nhất biết chuyện. Chính vì lẽ ấy nên cả người này nữa cũng phải cùng chịu chung số phận với sáu người kia, cho dù anh ta có không nguy hiểm đi chăng nữa.
Kế hoạch của Wazerby cực kỳ đơn giản, nhưng cũng đầy mạo hiểm: hễ Thần Ưng đến chỗ hẹn là hắn, Wazerby, sẽ nổ súng ngay. Để “tự vệ”mà! Hắn liếc nhìn lão Chim Sẻ đang run như cầy sấy vì sợ hãi. Một thứ “chi phí” tất yếu… Lương tâm hắn không hề cắn rứt một mảy may nào, khi phải hạ sát gã nhân viên huấn luyện này. Nhưng kế hoạch của hắn cũng có một đôi điểm rất mạo hiểm: Thần Ưng có thể bắn giỏi hơn hắn vẫn tưởng, và ở chỗ hẹn, có thể có người nhìn thấy. Nếu đã vậy thì cấp trên của tổ chức tình báo đồ sộ này có thể không tin vào những lời bịa đặt của hắn về trường hợp sắp xảy ra, và sẽ lôi các phương pháp “thử nghiệm” ra sử dụng, để làm sáng tỏ sự thật. Rốt cục, Thần Ưng có thể gây ra đủ mọi thứlôi thôi. Nói gọn một lời, bất cứ phương án nào trong hàng trăm phương án có thể có cũng đều ít nhiều nguy hiểm đối với Wazerby. Tuy nhiên, hắn thừa hiểu là dù có phải mạo hiểm đến bao nhiêu chăng nữa, thì sự mạo hiểm đó cũng chẳng đáng kể gì so với những điều đang chờ hắn, khi cơ sự vỡ lở. Với cách giải thích bịa đặt mà hắn dự tính, chắc hắn sẽ đánh lừa được đám chóp bu của CIA và bọn chuyên gia của các cơ quan khác. Và thế là hắn tai qua nạn khỏi. Để đạt được mục đích đó chẳng thiếu gì cách hành động, mà hắn đã từng dùng rất thành công trước đây. Gì chớ khoản này Wazerby vẫn là một tay sừng sỏ. Nhưng hắn cũng thừa biết là đừng hòng đánh lừa nổi người có vẻ ngoài dễ gây ấn tượng và có cái nhìn kỳ dị. Người đó chưa bao giờ thất bại, nếu chính hắn ta nhúng tay vào. Chưa bao giờ! Wazerby hiểu rất rõ tất cả những thứ đó, và cứ nghĩ đến những hậu quả có thể xảy ra, hắn đã cảm thấy khó thở. Hiểu rõ tình cảnh không thể tránh khỏi sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc đã khiến cho bất cứ ý nghĩ nào về khả năng tránh trớ đều trở nên vô nghĩa, cũng như ý nghĩ về sự không hoàn thành nhiệm vụ được giao vậy. Vì thế, Wazerby cần phải tìm mọi cách sửa chữa sai lầm đã phạm và Thần Ưng nhất thiết phải bị hạ sát…
… Wazerby cho xe chạy rất chậm từ đầu hẻm đến cuối hẻm, rồi vòng lại. Hắn đỗ xe bên cạnh mấy thùng rác, ở ngay sau lưng dãy rạp “Circus-3”. Con hẻm vắng ngắt, đúng như lời Mitchell tả. Wazerby hầu như tin chắc mười mưoi rằng sẽ chẳng có ai dám liều mạng dẫn xác đến đây, khi thấy những người lạ mặt đang loanh quanh tại đó – dân Washington vốn có thói quen tránh những nơi vắng vẻ. Hắn cũng biết là Mitchell đã dàn xếp để cảnh sát đừng ai ló mặt đến địa điểm này: bộ cảnh phục của chúng có thể làm Thần Ưng bạt vía. Tất cả những khoản đó đã khiến Wazerby thấy vững dạ thêm… Hắn đưa mắt ra hiệu cho Chim Sẻ xuống xe. Rồi cả hai cùng đứng bên nay, tựa người vào cửa xe, để dễ nom thấy, dù nhìn từ bất cứ ngã nào, và cũng để cho “người trong cuộc” thấy rõ rằng ngoài họ ra, trong hẻm chẳng còn ai khác. Tiếp đó, hệt như một thợ săn thực thụ đang rình mồi, Wazerby “gác bỏ” hết thảy mọi chuyện và dồn hết tâm trí cho chiến dịch đã sắp đặt.
Malcolm nhìn thấy “kẻ đến đón” trước khi họ phát hiện được sự có mặt của anh trong con hẻm. Đứng cách họ sáu mươi bước, anh chăm chú quan sát họ hồi lâu. Chàng trai phải chật vật lắm mới nhịn được hắt hơi. Nhưng rốt cục, không sao nhịn được và đã tự tố giác. Khi biết chắc chung quanh quả không còn ai khác cả, anh rời cái cột điện đang nấp, chậm rãi tiến về phía chiếc Sedan sơn xanh. Cảm giác lo lắng và căng thẳng vẫn dằn vặt anh suốt từ sáng đến giờ, vợi dần, vợi dần… khi anh càng bước đến gần.
Wazerby nhận ngay ra Malcolm, và cũng rời cửa xe, thẳng người lên, chờ đợi. Hắn muốn thật chắc ăn trăm phần trăm. Nhưng cái khoảng cách sáu mươi bước xem ra quá xa đối vớiloại súng ngắn có lắp giảm thanh. Hơn nữa, hắn không muốn đứng gần Chim Sẻ quá vào lúc này. “Phải thanh toán lần lượt” – ý nghĩ đó thoáng qua óc Wazerby như một ánh chớp.
Chỉ phải bước khoảng hăm lăm bước nữa là sẽ đến được chỗ họ, nghĩa là chỉ còn thiếu có năm bước chân nữa thì vừa đúng với tầm súng, mà Wazerby ao ước, Malcolm đã bất thần nhận diện được một trong hai “người đến đón”. Trong tiềm thức chàng trai hiện lên khá sắc nét khuôn mặt của kẻ ngồi trong chiếc “Sedan” sơn xanh, đỗ ngay ở đầu phố hồi sáng, chỉ cách trụ sở “Hội Văn Sử” có mươi mét. Kẻ ngồi trong xe và kẻ đang đứng kia, trước mặt Chim Sẻ, chỉ là một! Nguy to rồi, không ổn rồi, không đúng như điều đáng lẽ phải diễn ra! Malcolm dừng lại, rồi từ từ đi giật lùi. Gần như vô thức, anh rút ngay khẩu súng ngắn giắt trong thắt lưng ra…
Wazerby cũng bất giác phải đứng trước tình thế nằm ngoài dự kiến. Con mồi của hắn bất thình lình dừng ngay trước cạm bẫy, và chắc hẳn đang cố lủi mất. Mà không chừng còn sẵn sàng chống trả nữa! Cách “cư xử” ngoài dự kiến của Malcolm buộc Wazerby phải từ bỏ kế hoạch ban đầu, và phải tìmcách ứng phó thích đáng với tình huống mới xuất hiện. Hắn rút vội súng ra, sững sờ vì sợ hãi và bối rối. Người huấn luyện viên nhút nhát nọ vẫn chưa hình dung nổi nỗi nguy hiểm đang chờ mình.
Qua kinh nghiệm, Wazerby biết rõ rằng gặp những tình huống tương tự phải hành động thật nhanh và thật dứt khoát. Malcolm chưa kịp rút súng ra, thì Wazerby đã bóp cò.
Tuy súng ngắn là thứ vũ khí hết sức hữu hiệu, nhưng dùng nó trong tác chiến lắm khi rất khó khăn, ngay cả đối với những xạ thủ từng trải. Súng có lắp ống giảm thanh lại càng khó khăn trong những điều kiện tương tự. Thiết bị giảm thanh được cái ưu điểm là không gây náo động, nhưng lại làm giảm đáng kể độ chính xác của hoả lực: nòng súng quá nặng ở đằng trước đòi hỏi xạ thủ phải điều chỉnh thật chính xác đường đạn bắn ra. Thiết bị giảm thanh cũng làm giảm đáng kể sơ tốc của đạn và, do đó, ảnh hưởng lớn đến đường đi của nó. Nói gọn một câu, súng ngắn lắp bộ phận giảm thanh là thứ vũ khí cồng kềnh, vừa khó rút ra khỏi bao, vừa khó bắn nhanh, và càng khó trúng đích.
Tất cả những nhân tố ấy giờ đây đang phản lại Wazerby. Phải chi trong tay hắn là loại súng thường, thì dù có phải mất thời giờ để sửa đổi kế hoạch đi nữa, phần thắng của một cuộc đọ sức nhất định sẽ nghiêng về phía hắn. Đó là cái chắc. Tuy nhiên, như đã nói, bộ phận giảm thanh bị vướng vào bao súng, khiến Wazerby rút mãi không ra. Hơn nữa, để bù lại thì giờ đã mất, hắn lại phải bắn vội. Rốt cục, độ chuẩn xác của phát đạn giảm rõ rệt. Ngoài ra, tên sát nhân lâu năm này còn muốn chắc ăn hơn, nên đã nhắm vào đầu đối thủ, một cái đích quá nhỏ. Kết quả, cái cục chì nặng trịch từ nòng súng vọt ra chỉ xén gọn có một mảng tóc ở mép tai bên trái của Malcolm thôi, rồi bay vèo xuống mặt sông Potomac.
Malcolm, từ thuở cha sanh mẹ đẻ đến giờ, mới chỉ bắn súng ngắn có một lần. Khẩu súng chàng trai dùng hôm đó lại là thứ súng cỡ nhỏ, để tập bắn bia, của một cậu bạn cho mượn. Năm phát đạn nổ đoàng, nhưng chẳng phát nào trúng bia: “Bắn đuổi cò!”.
Lần này, Malcolm cũng bắn, nhưng không ngắm như lần trước. Một tiếng nổ choáng óc vang rền trong con hẻm nhỏ. Mãi đến lúc đó, anh mới hiểu là mình đã bóp cò.
Khi bị một phát đạn quân dụng cỡ 35 bắn vào người, nạn nhân không chỉ bị một vết thương nhỏ toé máu, mà còn bị hất ngửa xuống đất ngay tức khắc, như một gốc cây bật rễ. Xơi một phát đạn từ cự ly hai mươi lăm bước, thì chẳng khác nào bị một cái xe tải húc hết đà. Phát đạn của Malcolm xuyên thẳng vào đùi bên trái của Wazerby, hất tung hắn lên không, rồi quật sấp viên đại tá tình báo xuống mặt đường nhựa.
Chim Sẻ sững người vì kinh ngạc. Ông ta ngước nhìn Malcolm, thấy chàng trai đang từ từ quay về phía mình khẩu súng chĩa thẳng vào bụng.
“Hắn chính là một trong những đứa đã tiến công tiểu ban mình! – Malcolm nghĩ bụng, người bỗng đầm đìa mồ hôi, mặc dù anh chẳng phải làm gì quá sức cả. Hắn là một trong những đứa ấy!”
Malcolm bất thần lùi xa gã nhân viên huấn luyện, đang ớ người ra, không còn mở nổi miệng để kêu tiếng nào. Đến cuối con hẻm chàng trai quay ngoắt lại và bỏ chạy…
… Wazerby bị thương nằm dưới đất, rên khẽ, và cố giữ cho khỏi choáng. Cơn đau đã tạm nguôi. Vốn sức khoẻ như hùm, nhưng hắn phải dốc hết chút sức tàn mới giơ nổi tay lên, cánh tay vẫn còn đang giữ được khẩu súng ngắn nặng trịch, chẳng hiểu sao chưa bị văng đi. Đầu óc hắn vẫn còn tỉnh táo lạ thường. Hắn giương súng lên, ngắm cẩn thận rồi bóp cò. Một tiếng nỗ khẽ buột ra, và phát đạn găm vào vách tường một rạp chiếu bóng. Nhưng trước đó nó đã xuyên qua cổ họng Chim Sẻ, một nhân viên huấn luyện dạn dày kinh nghiệm, một người chồng cả lo, một người cha hiền lành đang phải nuôi bốn đứa con thơ. Khi cái xác bất động ngã vào thành xe, từ từ đổ xuống mặt đường, lòng Wazerby bỗng trào lên một cảm giác nhẹ nhõm khác thường. Hắn vẫn sống! Của đáng tội, Thần Ưng lại biến mất, nhưng đám chuyên viên của ban đạn đạo, dẫu có tài thánh cũng không tài nào tìm ra được cái đầu đạn và, vì thế, họ sẽ không có cách gì để xác minh là ai đã bắn ai. Nghĩa là vẫn còn có hy vọng. Nghĩ đến đó thì hắn ngất đi…
Khi cảnh sát phóng ô tô đến hiện trường, thì họ chỉ thấy có hai cái xác nằm chơ chỏng trong con hẻm. Họ đến đó là theo cú điện thoại báo tin của một ông chủ tiệm, sợ quá nên nói câu được câu mất. Sở dĩ họ đến trễ vì tất cả cảnh sát ở đồn Geortown lúc đó đều đã bị tung đi truy tìm một tên loạn óc bắn bừa vào khách qua đường… Về sau, người ta mới xác minh được rằng: hoá ra đó chỉ là tin đồn nhảm…
… Malcolm chạy như bay qua bốn khúc phố, cho đến lúc hiểu ra rằng làm thế người ngoài nhìn vào dễ bị khả nghi. Anh thôi chạy, chuyển sang bước vội. Sau mấy lần thay đổi hướng đi trong các con hẻm và phố vắng, anh vẫy một chiếc tắc-xi tình cờ chạy qua, và trở về lại trung tầm thành phố.
“Trời ơi, - Malcolm nghĩ, - hắn là một trong số những đứa ấy… chính hắn là đồng bọn của lũ hung thủ… Cục chắc hẳn chưa biết điều đó… Mình phải tìm một điện thoại, mà gọi gấp về báo ngay cái tin ấy…”. Nhưng nỗi sợ hãi dần dần xâm chiếm tâm trí anh. “Ngộ nhỡ kẻ mình gặp trong con hẻm ấy không phải là điệp viên “hai mặt” độc nhất trong cơ quan CIA thì sao?... Ngộ nhỡ cái kẻ phái hắn đến đón mình là điệp “hai mặt” thì sao? … Biết đâu cả viên chỉ huy ban “Báo động” cũng là một điệp viên “hai mặt”?...
Mãi sau, chàng trai mới hiểu ra rằng đoán mò và nghĩ ngợi vớ vẩn như thế thật vô bổ. Điều cần bận tâm trước hết lúc này là lo sao cho tính mạng anh toàn! Trong khi nỗi đe doạ còn lơ lửng trên đầu, thì tốt nhất khoan hắng gọi điện về Tổng hành dinh vội. Dĩ nhiên, là người ta sẽ cố tìm mình, mà không chừng họ đã bắt đầu tìm kiếm mình ngay từ khi chưa xảy ra cuộc bắn nhau nữa kia, vì mình là người độc nhất còn sống sót… Ồ, mà… không phải! Còn một người nữa cũng thoát nạn! Ý nghĩ đường đột ấy khiến anh kinh ngạc. Không, anh không phải là người độc nhất còn sống sót trong số các nhân viên làm việc ở tiểu ban 9. Còn Heidegger nữa! Anh ta không đến sở, vì ốm! Malcolm cố căng óc nhớ. Địa chỉ nhà Heidegger thế nào ấy nhỉ? Đúng rồi, một lần, anh ta có nói địa chỉ của anh ta cho tiến sĩ Lappe. Lần ấy, Malcolm tình cờ đã nghe được: chung cư “Mount royal arms”!...
Malcolm cắt nghĩa cho người tài xế tắc-xi là một cô gái, mà anh chỉ mới quen biết qua thư từ, có hẹn gặp. Nhưng tiếc thay, anh quên mất địa chỉ… Anh chỉ nhớ là cô bạn ấy sống tại toà nhà “Mount royal arms”. Đám tài xế tắc-xi vốn luôn sẵn lòng giúp các chàng trai si tình. Anh ta gọi dây nói ngay về cho người nhân viên điều độ ở nhà, và được biết địa chỉ chính xác: khu Tây-Bắc Washington. Khi anh ta đỗ xe lại trước một toà nhà cũ kỹ, Malcolm đã cảm ơn rối rít, và thù lao cho anh ta cả một đô-la về sự tận tuỵ.
Tấm bảng gỗ khắc tên “Heidegger” treo ngay trên khung cửa của căn hộ số 413. Malcolm bấm chuông. Không có tiếng trả lời. Máy “interphone” cũng không làm việc. Khi giơ tay ra bấm chuông lần nữa, trong óc chàng trai chợt thoáng qua một linh cảm không lành, nhưng hết sức có lý. Anh bấm ba cái nút ở bên cạnh vẫn yên ắng. Anh lần lượt bấm hết những cái nút còn lại. Máy “interphone” đột nhiên hoạt động trở lại. Anh quát to: “Có thư!”. Đáp lại tín hiệu gọi, khoá cửa lách cách mở. Rồi cánh cửa mở rộng ra, và anh bước vội vào phòng ngoài.
Không có tiếng trả lời từ trong phòng 413 khi Malcolm gõ cửa. Anh không hề đợi tiếng trả lời. Anh quỳ xuống, nhòm vào lỗ khoá. Nếu anh đoán đúng thì cánh cửa chỉ bị khoá bởi một ổ khoá Anh, loại thông thường. Đứng trước tình thế đó, cuốn phim anh đã xem, đều dùng một mảnh nhựa cứng, nhỏ đẩy then ra. Nhựa cứng à? Biết lấy đâu ra bây giờ? Sau một hồi rối rít lục tìm khắp túi trên túi dưới, cuối cùng, Malcolm đành mở ví, lôi ra tấm giấy chứng nhận của CIA, ghi rõ rằng anh là nhân viên của công ty “Tantrex” (để bảo mật), được bọc ngoài bằng một cái bao nhựa rất cứng và khá dày. Trên giấy cũng ghi rõ họ tên, quê quán và nhân dạng. Ngoài ra, còn dán hai tấm ảnh – một chụp thẳng, một chụp nghiêng mà Malcolm đều rất thích.
… Suốt hai mươi phút đồng hồ, chàng trai vừa hắt hơi, vừa thở phì phò, vừa càu nhàu, rồi nào đẩy, nào lôi, nào lắc cánh cửa, thậm chí có lúc anh còn đập mạnh tấm giấy chứng nhận vào ổ khoá nữa. Nhưng, rốt cục, đâu vẫn hoàn đấy. Cuối cùng, mép cái bao nhựa bong ra, mảnh giấy chứng nhận bên trong rơi xuống đất, rồi lọt qua khe cửa và bay vèo vào bên trong phòng.
Malcolm nổi cáu, vì thua cuộc. Anh đứng phắt dậy cho đỡ tê chân. “Nếu không ai ngăn mình suốt từ nãy đến giờ - chàng trai nghĩ bụng, - thì dẫu mình có phá cửa, chắc cũng chẳng có ai để ý”. Anh co chân, ráng hết sức bình sinh, đạp thật mạnh vào cái cửa, trút lên đó toàn bộ nỗi phẫn uất, nỗi sợ hãi và sự bực dọc bị nén lại trong người suốt từ sáng đến giờ. Cả khoá, lẫn cửa của toà nhà ọp ẹp này quả chẳng mấy kiên cố. Chủ nhân cho khách thuê với giá rẻ mạt, nên cũng trang bị cho các căn hộ ở đây những thứ hoàn toàn tương xứng với giá tiền thuê. Cách cửa căn phòng 413 mở toang ngay. Lò xo đóng mở tự động bị nén mạnh, hất ngược cánh cửa trở lại. Malcolm vội đưa tay ra giữ, rồi lẻn vào. Xong, lại khép nhẹ lại như cũ. Anh nhặt tấm giấy chứng nhận lên, đi thẳng vào trong và tiến ngay lại phía cái giường đôi thấp tè…
… Vì bọn chúng có đủ thời giờ, nên chẳng cần phải đóng kịch và giở các phương pháp “êm thấm” ra để thi hành với Heidegger, mặc dù, những phương pháp đó sẽ đỡ gây lôi thôi cho bọn chúng. Giá Malcolm chịu khó vén cao vạt áo pyjama lên, hẳn anh sẽ nhìn thấy những vết thâm tím còn để lại trên da nạn nhân, do những cú đấm phũ phàng vào mạng mỡ và bụng dưới, nhất là nếu nạn nhân dễ bị xuất huyết dưới da. Mặt mũi Heidegger đã tím rịm. Trong phòng lúc này nồng nặc mùi xác chết bắt đầu thối rữa.
Malcolm rầu rĩ nhìn xác bạn. Anh không phải là chuyên gia pháp y, nhưng anh cũng thừa biết Heidegger không chỉ mới chết cách đây vài giờ, mà phải lâu hơn nhiều. Hoá ra anh ta là nạn nhân đầu tiên. Nghĩa là bọn chúng đến đây trước cả khi tiến công vào trụ sở Hội, chứ không phải đến đây khi thấy Heidegger vắng mặt tại nhiệm sở sao? Malcolm không tài nào hiểu nổi.
Cánh tay áo bên phải của chiếc pyjama Heidegger mặc trên người nằm vất vưởng trên sàn nhà. Malcolm nghĩ rằng chắc nó xé rách trong ẩu đả. Anh vén tấm chăn mỏng lên, nhìn kỹ cánh tay của Heidegger. Anh thấy ở mặt trong có một vết sưng nhỏ như rắn cắn. Nhớ lại một lần xuống trạm xá sinh viên khám bệnh, Malcolm biết ngay: đó là vết tích của một mũi tiêm vụng về. “Bọn chúng hẳn đã tiêm một thứ gì đó, để bắt Heidegger khai ra điều gì chăng? – Malcolm nghĩ bụng. – Nhưng khai gì nhỉ?”. Anh không thể trả lời nổi câu hỏi đó. Anh bắt đầu ngắm căn phòng, thì chợt nhớ đến chuyện dấu tay. Rút trong túi ra chiếc khăn tay, anh lau sạch những gì vừa mới đụng vào, kể cả mặt ngoài cánh cửa ra vào. Trên mặt tủ com-mốt anh thấy một đôi găng đầy bụi, để chơi bóng ném. Đôi găng chật quá, nhưng dẫu sao cũng giúp anh tránh để lại dấu vết.
Lục lọi mấy cái ngăn kéo trong tủ com-mốt xong, Malcolm quay sang chiếc tủ đứng, đóng liền vào vách tường. Ở ngăn trên cùng, anh tìm thấy một chiếc phong bì, nhét đầy tiền mới cứng, còn nguyên xấp, loại 100 và 50 đô-la. Chẳng cần mất thì giờ đếm điếc lôi thôi, chàng trai cũng biết chỗ tiền có ước khoảng 10 nghìn là ít.
Malcolm bối rối gieo người xuống chiếc ghế chất đầy áo quần. Anh không sao hiểu nổi điều mình vừa nhìn thấy. Anh chàng kế toán nát rượu, lúc nào cũng luôn mồm khen để những ưu điểm của việc giao tiền cho các quỹ tiết kiệm giữ hộ, một người chỉ nghe đến chuyện trộm cướp là đã cuống cà kê, mà lại dám nghiễm nhiên giữ cả một đống tiền như thế trong tủ đứng! Không, chuyện này vượt quá sức tưởng tượng của anh. Malcolm lại nhìn sang cái xác. “Ít ra, - anh nghĩ bụng – Heidegger cũng không cần đến chỗ tiền ấy nữa”. Anh nhét chiếc phong bì đầy ắp tiền vào túi quần. Anh ngoái nhìn lần cuối toàn bộ căn phòng, rồi thận trọng mở cửa, bước xuống thang gác. Đến góc đường, chàng chạy nhảy lên xe buýt, quay về trung tâm thành phố.
Malcolm hiểu rằng nhiệm vụ đầu tiên của anh lúc này là phải lẩn tránh. Giờ đây, anh bị ít nhất hai nhóm săn lùng: nhân viên của Cục và bọn hung thủ tiến công vào trụ sở Hội, cả hai đều biết tường tận mặt mũi anh. Vì thế, trước hết, phải cải trang cái đã.
Trước cửa hiệu cắt tóc có treo một tấm biển khá to: “Ở đây, quý vị không phải chờ đợi”. Lời quảng cáo đó thật lạc lõng đối với chàng trai; chẳng hợp với tình cảnh anh chút nào! Malcolm đứng quay mặt vào tường, cởi vét-tông ra. Trước lúc ngồi vào ghế, anh kín đáo dúi khẩu súng ngắn vào chiếc áo đã cuộn tròn. Và trong suốt thời gian cắt tóc, chàng trai không rời mắt một giây nào khỏi chiếc vét-tông ấy.
- Cắt kiểu nào đây, anh bạn trẻ? Ông thợ cạo, tóc hoa râm, cất tiếng hỏi anh vẫn xấp xấp chiếc kéo giòn giã.
Malcolm không mảy may do dự. Anh hiểu rất rõ một kiểu để tóc mới có thể làm thay hình đổi dạng người ta khá nhiều.
- Ông húi ngắn giúp đi. Nhưng đừng để đến mức nom như một anh tân binh vừa nhập trại. Nghĩa là tóc để nằm, chứ đừng dựng đứng lên như lông nhím.
- Chà, kiểu tóc này sẽ làm anh trông lạ mắt lắm đấy nhé, - ông thợ cạo lấy làm lạ, nhưng vẫn nhét cái phích cắm của chiếc tông-đơ vào ổ điện.
- Vâng, tôi biết rồi.
- Này, anh bạn trẻ, anh có khoái bóng chày không? Tôi thì cực kỳ hâm mộ. Tôi vừa đọc một bài nói về đội “Oriols” trong tờ Washington post hôm nay. Họ tả những đợt tập huấn mùa xuân rất thú vị, với cả cái chuyện chàng trai ấy đang tính tẩu thoát ra sao nữa…
Malcolm nhìn vào gương: một chàng trai ngổ ngược mà anh nhìn thấy lần chót cách đây năm năm, đang trố mắt nhìn ra.
Trạm xe buýt tiếp đó của anh là cửa hàng bán quân trang cũ, tên là “Sunny”. Malcolm biết rõ ràng muốn cải trang tốt phải tính toán cho thật sát với tình thế. Chàng trai cũng hiểu rằng các phương tiện hỗ trợ giữ vai trò rất quan trọng. Anh sục sạo khắp gian hàng bán y phục mặc ngoài. Cuối cùng, anh tìm được một chiếc va-rơ đính đầy lon và cấp hiệu, hoàn toàn hợp với vóc người anh. Cái lon đính trên nắp túi bên trái chứng tỏ rằng chủ nhân của nó tên là Evans, còn vai áo bên trái thì được tô điểm một phù hiệu đẹp, thêu một chú đại bàng ba màu, và trên nền đen nổi bật hẳn lấy mấy chữ thêu bằng kim tuyến: “Đổ bộ đường không”. Malcolm hiểu rằng từ giờ trở đi, anh đã là một cựu chiến binh thuộc sư đoàn đổ bộ đường không số 101. Anh mua thêm một chiếc quần Jean xanh và một đôi giày cao cổ khá đắt tiền (những 15 đô-la, đảm bảo là đã từng được tham già vào các chiến dịch tiểu trừ du kích tại việt Nam). Rồi đóng bộ vào ngay tức khắc tại phòng thử quần áo. Ngoài ra, anh cũng sắm thêm vài chiếc sơ-mi, chiếc xăng-đay rẻ tiền, đôi găng da màu đen để lái xe, mấy đôi bít-tất, hộp dao cạo an toàn và chiếc bàn chải đánh răng. Khi ra khỏi cửa hàng với gói hàng mới mua cắp dưới nách – dáng đi hết sức hùng dũng của một “chiến binh” từng trải. Anh ném những ánh mắt đầy khiêu khích về phía những cô gái xinh xắn đi qua mặt. Qua được chừng năm khúc phố, chàng trai cảm thấy phải ngồi nghỉ một lát. Anh rẽ vào một trong số không biết bao nhêu là quán ăn kiểu Hotshop gần đó.
- Làm ơn cho tôi tách cà phê và một gói thuốc, cô em. – Malcolm nói, bắt chước giọng của dân miền Nam.
Cô bán hàng trố mắt ra nhìn, khi nghe cái “giọng miền Nam đặc sệt” của chàng chiến binh từng trải. Rồi cô vội vã mang tách cà phê với gói thuốc lá đến. Malcolm ngồi xuống rút thuốc là ra châm và ngẫm nghĩ xem phải thu xếp thế nào cho ổn đây…
Bất chợt vang lên giọng nói của hai cô gái đang ngồi sau lưng anh, ở bên kia tấm bình phong bằng gỗ dán. Sức mạnh của thói quen nghề nghiệp buộc chàng trai phải dỏng tai lên nghe.
- Nghĩa là cậu không đi đâu trong cả dịp hè này chứ gì?
- Không. Mình quyết định nằm nhà hai tuần, để nghỉ ngơi, xa lánh hết thảy mọi thứ.
- Cậu sẽ phát điên lên đấy!
- Rất có thể. Nhưng đừng gọi điện cho mình, đừng hỏi han công việc ở nhà, mà mất công. Mình không thèm nhấc máy lên đâu, mà gọi cho mệt.
Cô gái kia cười phá lên.
- Thế ngộ nhỡ có anh chàng bảnh trai nào gọi điện đến hẹn gặp thì sao?
Cô bạn lập tức “xì”một tiếng thở dài, vẻ khinh thị:
- Thì xin anh ta chờ hai tuần nữa. Mình muốn nghỉ ngơi thật thoải mái ít lâu mà.
- Cậu gàn bỏ mẹ. Thôi, thì mặc cậu! Cậu dứt khoát từ chối bữa cơm từ giã, chúng mình sẽ tổ chức tối nay à?
- Ừ. Cảm ơn các cậu đã có lời mời. Nhưng mình chả thấy hứng thú tý nào, Anne ạ. Uống cạn tách cà phê này là mình về nhà ngay. Từ giờ phút này, mình chẳng còn gì phải tất bật nữa. Cho đến cuối tháng.
- Thôi được. Chúc cậu tận hưởng những lạc thú của nỗi cô quạnh, Wandy nhé!
Rồi, tiếng tà áo sột soạt. Cô gái tên Anne đi ngang qua chỗ Malcolm, bước nhanh ra cửa. Trước khi cô gái khuất, Malcolm đã kịp nhận thấy bộ đùi xinh xắn, mái tóc vàng và chiếc mũi dọc dừa của cô nàng. Anh ngồi thật yên, chỉ thỉnh thoảng mới khẽ khịt mũi, căng thẳng chờ, vì lời giải đáp cho câu hỏi: “Phải nương thân ở đâu?” chợt loé sáng trong óc.
Phải mất năm phút nữa, cô Wandy mới nhấp cạn tách cà phê. Khi đứng dậy, thậm chí cô cũng chẳng buồn liếc nhìn chàng trai đang ngồi sau lưng, mà chỉ lấy tiền ra trả, rồi rời ngay quán. Malcolm tức thì bám sát theo sau. Trước lúc bước ra, anh không quên vứt thêm lên quầy mấy đồng xu lẻ.
Ngắm từ sau lưng, anh vẫn có thể đánh giá được đây là một cô gái vóc người khá cao, hơi gầy (nhưng không đến nỗi khẳng khiu như Tamatha), tóc đen, bộ đùi trông được. “Trời ơi, - anh tự nhủ, - giá tóc cô ta mà không đen nhỉ?”. Dẫu sao thì anh vẫn gặp may: xe của cô đỗ mãi tận cuối bãi, trong một bãi giữ xe đông nghịt. Anh thản nhiên đi theo sau cô gái, qua mặt người gác bãi béo núc ních, đội chiếc mũ phớt đã tàng. Đúng lúc cô gái mở cửa xe, thì Malcolm gọi rõ to:
- Wandy! Trời ơi, cậu làm gì ở đây thế?
Ngạc nhiên, nhưng không chút sợ hãi, cô gái ngước nhìn chàng trai mặc va-rơ quân nhân đang tươi cười tiến lại gần mình.
- Ông gọi tôi?
Trước mặt Malcolm hiện ra một đôi mắt màu hạt dẻ, hơi gần nhau, một khuôn miệng khá rộng, chiếc mũi nhỏ và đôi gò má cao. Một gương mặt rất đỗi bình thường. Cô ta hầu như – hoặc hoàn toàn – không son phấn…
- Dĩ nhiên. Cậu không nhớ mình sao Wandy?
Lúc này, chàng trai chỉ còn cách Wandy vẻn vẹn có ba bước chân.
- Tôi… tôi không…
Cô nhận thấy người gọi mình một tay xách một cái gói nhỏ, còn một tay kia thủ trong túi ái va-rơ.
Malcolm lúc này đã đến sát bên cô gái. Đặt gói áo quần lên nóc xe, anh giơ tay trái ra như thể muốn ôm cổ cô gái để hôn. Rồi anh dúi đầu cô ta xuống thấp hơn để Wandy có thể nhìn rõ khẩu súng ngắn đang thủ trong túi áo.
- Đừng kêu và đừng làm gì điên rồ, không thì tôi bắn đấy, rõ chứ? – Malcolm thấy cô gái run bắn lên, nhưng vẫn mau lẹ gật đầu, - cô lên xe đi và mở cửa bên kia ra. Coi chừng, cái này xuyên thủng cả kính 5 ly đấy! Hơn nữa, tôi không run tay đâu.
Cô gái nhanh nhẹn ngồi vào sau vô-lăng, rồi nghiêng người sang bên kia, mở cửa. Malcolm xách bọc quần áo lên, vòng ra trước mũi xe, rồi ngồi vào bên cạnh.
- Chỉ xin ông đừng làm gì khiến tôi phải đau đớn về thể xác. Giọng cô gái đã dịu lại, không như lúc còn ở trong hiệu cà phê.
- Cô nhìn tôi đây. – Malcolm thậm chí phải hắng giọng, cho tiếng nói trong trẻo hơn. – Tôi không hề có ý định làm hại cô, chừng nào cô còn làm đúng những điều tôi ra lệnh. Tôi không định cướp tiền của, mà cũng không định giở trò đểu cáng. Nhưng cô phải nhất nhất làm theo những gì tôi bảo. Nhà cô ở đâu?
- Đường Alexandrie.
- Hãy đưa ngay tôi về đó. Xe, cô cứ tự lái lấy. Nếu định ra hiệu cho ai hoặc kêu cứu, thì tốt nhất là hãy vất bỏ ý định đó đi! Cô mà làm thế, thì tôi buộc lòng phải nổ súng đấy. Rất có thể là tôi sẽ gặp lôi thôi nhưng cô thì thiệt thân. Đừng nên thế. Ta thoả thuận rồi đấy nhé! – cô gái gật đầu.
- Thế thì, nào lên đường thôi.
Cho mãi tới lúc xe họ rẽ vào khu Virginia, cả hai đều nín thinh, mắt gầm ghè nhìn nhau. Malcolm không sểnh mắt khỏi cô gái một tích tắc nào, Wandy thì luôn luôn nhìn thẳng phía trước. Vừa đến đường Alexandrie, cô gái đã cho xe chạy vào một vuông sân nhỏ, ở nằm lọt thỏm giữa những nhà cao thấp đủ kiểu.
- Nhà cô là ngôi nào?
- Ngôi đầu tiên. Tôi thuê hai tầng. Tầng trệt là của một người đàn ông mới dọn tới.
- Bây giờ, cô nhớ là hãy cư xử cho phải phép, như từ nãy đến giờ. Ta vào nhà như cách vừa đi dạo chơi ở đâu đó về; còn tôi là anh bạn cô mới làm quen.
Họ xuống xe, và chỉ vài phút sau đã đứng ngay trước cửa nhà. Cô gái run bắn lên đến mức không sao mở được khoá. Nhưng, rốt cục vẫn tự xoay sở được, Malcolm theo chân cô gái đi vào và nhanh tay khép cửa lại cẩn thận…