Chương 10
BỐN NGÀY SAU

    
íchsơn bây giờ là thuyền trưởng thuyền Hải âu. Không để phí thời giờ, cậu bắt tay vào việc ngay. Chú huy động các bạn da đen điều khiển các cột buồm để thuyền đi xiên gió.
Đíchsơn vừa cầm lái vừa gọi già Tôm.
- Bây giờ bắt đầu từ cột buồm tiền. Già “buông” đi!
Già Tôm không hiểu “buông” là gì, liền hỏi lại:
- Buông là gì?
- Là tháo dây buộc, thả cánh buồm xuống! Anh Pát cũng làm thế đi!... Được rồi! Bây giờ kéo đi! Kéo thật căng!
Pát nói:
- Như thế này phải không?
- Phải, tốt lắm. Còn anh Ecquyn, đầu kia… kéo thật mạnh!
Bảo Ecquyn làm “thật mạnh” có lẽ hơi quá vì anh khổng lồ ấy mó vào đâu thì chỉ có vỡ với gãy.
Thấy Ecquyn làm mạnh tay quá, Đíchsơn vội kêu lên.
- Thôi! Nhẹ tay chứ, được rồi. Còn anh Antôn, anh Ôttanh ra mũi thuyền giương cánh buồm tam giác lên và buộc đầu dây vào móc.
Một dàn buồm của thuyền biển có nhiều cột buồm: cột buồm đại, cột buồm tiền, cột buồm hậu. Mỗi cột lại có nhiều tầng buồm. Rồi lại có những buồm chéo mắc từ cột buồm nọ sang cột buồm kia, trông thực rối mắt. Vì thế mỗi khi dùng buồm đi thuận gió, xiên gió, ngang gió thật là khó khăn và là cả một nghệ thuật.
Những việc khó thì Đíchsơn phải tự làm lấy. Chú nhờ già Tôm cầm lái giúp. Chú leo lên cột buồm thoăn thoắt như một con mèo. Chú mở cánh buồm này, buộc cánh buồm kia dễ như một trò chơi. Xong việc rồi chú bám vào một dây buồm tuột từ ngọn cột xuống sàn thuyền mạn bên phải, rất nhẹ nhàng. Thế là tất cả các bộ buồm trên thuyền đều được sử dụng. Đíchsơn nói với bà Uynxton:
- Thưa bà, bây giờ thuyền của ta thuận buồm và chạy đều rồi! Cầu trời cứ giữ gió này mãi.
Nói xong, chú đến cầm lái thay già Tôm.
Sinh hoạt của thuyền lại trở lại bình thường. Trong ngày hôm ấy, Đíchsơn làm việc luôn tay, sắp xếp các việc đâu vào đấy và dự phòng những việc bất thường. Những người da đen sẵn sáng làm việc. Nền nếp trong thuyền có thể nói là hoàn hảo, Nego cũng không tỏ ra chống đối gì cả. Gió thổi điều hòa cho đến tối, nên không phải xoay chuyển hướng buồm.
Như trên đã nói, trong tay Đíchsơn chỉ có hai thứ dụng cụ cần thiết: một cái la bàn chỉ hướng đi và một máy đo vận tốc để tính phỏng chừng quãng đường đã đi. Trong ngày hôm ấy, cứ nửa giờ Đíchsơn lại cho thả máy đo xuống biển và ghi chép những chỉ số do máy cung cấp để tính toán. Còn la bàn thì trong thuyền có hai cái. Một cái để trong hộp đặt ngay chỗ lái. Nhìn trên la bàn, người ta biết ngay là thuyền đang đi về hướng nào, nghĩa là biết phương hướng con thuyền đang theo. Cái la bàn thứ hai thì treo úp dưới cái gióng ngang ở khuôn cửa sổ phòng cố thuyền trưởng. Như vậy, ở trong phòng, lúc nào thuyền trưởng cũng có thể biết người cầm lái đi đúng đường hoặc sai đường.
Hai cái la bàn nói trên đều rất cần thiết nên Đíchsơn dặn mọi người phải giữ gìn cẩn thận. Bỗng trong đêm 12 rạng ngày 13 tháng hai, tự nhiên cái la bàn ở cửa sổ tuột đinh rơi xuống vỡ tan. Mãi đến sáng người ta mới biết. Đíchsơn rất bực bội vì chỉ còn độc một cái la bàn ở bánh lái, nếu không may hỏng nữa thì biết lối nào mà đi. Đíchsơn giữ gìn cái la bàn độc nhất rất cẩn thận.
Ngoài việc vỡ la bàn, mọi việc vẫn tiến triển một cách khả quan. Đíchsơn thức đêm để cầm lái. Ban ngày, chú chỉ ngủ độ năm hay sáu tiếng đồng hồ, trong khi đó già Tôm và Pát thay thế. Đíchsơn đã dạy họ lái. Những người da đen cũng sáng ý nên mỗi ngày một quen việc hơn. Già Tôm đương nhiên trở thành đội trưởng do các người da đen cửa lên. Về việc thường trực, Đíchsơn chia ra làm hai toán, tón thứ nhất gồm có Đíchsơn, Antôn và Ecquyn, toán thứ hai là già Tôm, Pát và Ôttanh. Khi một người trong toán cầm lái thì hai người kia gác ở trước thuyền.
Mặc dầu quãng biển này vắng, đêm đến Đíchsơn vẫn canh chừng cẩn mật. Hai đèn hiệu được thắp: lủa xanh ở mạn bên phải và lửa đỏ ở mạn trái. Đêm này tiếp đêm khác, Đíchsơn phải cầm lái nên đôi khi chú thấy mỏi mệt và chỉ thao tác theo bản năng. Vì thế trong đêm 13 rạng 14 tháng hai, thấy người mệt mỏi, Đíchsơn nhờ già Tôm cầm lái giúp để đi nghỉ.
Trời u ám va tối đen, Ecquyn và Antôn đứng gác ở trước thuyền. Khoảng ba giờ sáng, già Tôm, lúc ấy đang trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, thoáng trông thấy một bóng đen lướt qua sàn thuyền. Đó là Nego. Hắn đi về phía sau, tay cầm một vật gì nặng, rón rén đến bên bánh lái, đặt vật hắn cầm ở tay xuống dưới hộp la bàn. Hắn vừa ngắm mặt sáng của la bàn vừa xê dịch vật đó, rồi lui ra và biến mất. Đó là một miếng sắt có khả năng làm xê dịch kim nam châm của la bàn. Kim này đang chỉ về hướng bắc đã bị miếng sắt kéo về hướng đông bắc, nghĩa là cách xa điểm cũ 45 độ hay nửa góc vuông.
Lát sau, già Tôm bừng tỉnh dậy. Ông nhìn vào la bàn thấy thuyền mình vẫn chạy về hướng đông sao bây giờ lại chạy về hướng động bắc, so với kim đã bị kéo xuống.
Tưởng khi mơ màng mìn đã đã đi sai đường, già Tôm liền quay cán bánh lái lại cho thuyền quay mũi về hướng đông (so với kim sai). Ông tưởng vậy, nhưng thực ra ông đã quay mũi thuyền đang đi đúng hướng đông, để chạy về hướng đông nam, lạc 45 độ đường!