Bà Khế điềm tĩnh ngoáy một cối trầu đỏ au tém gọn vào mồm, giọng trầm, chắc:- Tui với mệ nội thằng Đái ở lại, mạ con thằng Đái với o Thà đi tản cư, lẹ lên. Thục luống cuống vừa ôm con, vừa đeo túi quần áo lên vai. Thà van nài:- Hai mệ cũng tản cư, ở lại con sợ lắm- Choa tra rồi. Bọn tây không mần được chi mô. Đi đi cho kịp bà con. Bà Khế đã nói là phải nghe “Chưa có ai trong nhà này trái ý bà”. Moóc chê rơi xuống ruộng nẩy, bùn bắn lên tận ngọn tre. Moóc chê khoan xuống Nương hoang thành giếng nhỏ, khói lửa mịt mù. Tốp lính đi đầu áp sát lòi Dầu máu. Những nòng súng dài, đen sì, lia quét, sẵn sàng nhả đạn. Đội tự vệ làng Thượng không có súng, chỉ có gươm, dáo và một quả lựu đạn. Chờ cho tốp lính đi qua trảng cát, Đội trưởng Liên thét to: “Việt minh”, rồi nhảy qua rãnh nước, chạy ngoằn nghèo theo mấy gốc cây dầu máu cổ thụ. Lính Tây, lính Nam triều bắn loạn xạ. Viên đạn xé một mảng cây dầu máu, dòng nhựa đỏ, sóng sánh tứa ra tươi rói rồi sẫm dần, tím bầm. Thằng Tây cao lồng ngồng, râu ria xồm xoàm mồm hét “a lô xô”, hai chân dài ngoẵng chạy qua mương sắn. Hắn khựng lại, rơi thụp xuống hố, mũi chông cắm phập vào mông. Hắn la hét, hoảng hốt, lũ lính hoảng loạn. Thằng Tây cao to quá cỡ, lính Nam triều thấp bé, không cõng được. Chúng để thằng Tây nằm sấp rồi hò nhau kéo đi. Mũi chông lắc lư trên cái mông to quá cỡ, rỉ máu sưng vù. Dượng Liên leo lên cây dầu máu ném xuống. Bọn lính hốt hoảng: - Lựu đạn Việt Minh, nằm xuống! Cả lũ nằm bẹp dí, “lựu đạn” không nổ! một thằng liều mạng bò đến, hắn hét lên như bị ai bóp cổ: “chao ơi! cứt bò khô, mẹ cha chúng nó!”. Lũ lính đứng vây quanh thằng Tây bị thương. Một tên bặm môi rút mũi chông bằng tre gai khỏi mông thằng Tây. Dượng Liên ném chính xác, lựu đạn nổ, thằng chết, thằng bị thương, mấy thằng sống sót chạy lên phía chợ Hôm. Thằng tây nằm ngửa, mồm há hốc, mắt trợn ngược. Chắc hắn vẫn chưa hiểu vì sao phải chết.- Tước! Dượng Liên hô danh gọn. Từ những gốc cây dầu máu, bời lời, tre, hóp, lồ ô, cán gáo, bạc mày, tự vệ xông ra tước ba khẩu súng trường, bao lựu đạn, lựu đạn rồi rút nhanh về phía Lòi Đình. Sau mấy phút bị bất ngờ, lính Tây, lính Nam triều định thần, tập hợp lực lượng chia làm hai mũi. Một mũi rượt theo đội tự vệ, một mũi đuổi theo hướng dân tản cử. Chuyến đò cuối cùng chở bà con tản cư trở lại bên này bến Bè. Bà Khế lặng người nhìn theo cháu ngoại nhấp nhô trên vai con gái. Bà loay hoay với con đò một lúc rồi buộc vào gốc cây. Bà men theo bờ sông mất hút sau rặng dứa ngô. Hóp má dẫn đầu toán lính chạy đến Bến Bè thì sững lại. Nước sông xanh leo lẻo không một gợn sóng, bình thản như trêu ngươi. Hắn cho lính lùng sục, tìm được con đò nan im lìm như đang ngủ bên mép nước. Hóp gắt:- Đứa mô biết chèo đò hè! Không đứa nào biết.Hắn sục vào trại vịt.Ông già tóc bạc phơ, nhưng gân guốc, mặt đỏ au thư thả ngụm từng hớp rượu. Hóp lồng lên.- Lão già, chèo đò qua sôngÔng già rót một chén rượu, đưa cho Hóp- Uống với ta một chén.- Ôi chao ôi! Tui xin lạy ông nội. Lúc ni mà rượu với chè được à?- Chú nói lạ. Lúc mô rượu làng Thượng cũng ngon.Hóp vung báng súng lục, chén rượu rơi xuống đất, vỡ tan. Mắt ông già long lên, vằn tia máu. Ông dốc nốt hớp rượu cuối cùng, tay nắm chặt cổ chai.Hóp gào lên:- Lão già, đi mau xuống đò, chở lính quan qua sông.Ông già nhìn trân trân bến đò ngang.- Lão điếc à?- Ừ tao là Kiếc, Kiếc vịt đây. Ông già ném mạnh chai rượu khan xuống gần chân thằng Hóp. Mảnh chai đè lên mảnh chén. Thằng Hóp giật bắn, bóp cò. Ông già như trời trổng, mắt trợn ngược. Tổ tiên để lại cho ông Kiếc một mẫu ruộng chứ có ít đâu. Vậy mà dần dà ruộng đất của ông chui tọt vào đôn lúa của cha lão Lỗi lúc nào không hay. Khi thằng Hóp mở mắt thì lão Kiếc này đã thành ông già chăn vịt thâm niên ở làng Thượng. Ông cũng có vợ, không xinh đẹp, nhưng nết na, dịu dàng, khoẻ mạnh. Ông là trai cày hạng một, vợ là thợ cấy không ai bì kịp. Hai vợ chồng lam lũ làm thuê, ở mướn, chỉ mong có túp lều, chút con sum vầy sớm hôm. Vậy mà cái đêm chết tiệt ấy, quan phủ ghé qua nhà cha lão Lỗi. Cha lão Lỗi bắt cô thợ cấy giỏi nhất làng đến rửa chân, đấm lưng cho quan phủ giãn gân cốt. Quan phủ phởn chí, rửng mỡ đè nghiến cô thợ cấy xuống gường. Cô thợ cấy co chân đạp mạnh, quan phủ ngã chổng vó rồi lồm cồm bò dậy, nghiến răng:- Tau truyền đời cho mi: Chịu làm thớt cho quan thì được sống lại được quan tiền. Bằng không thì chồng mi phải chết. Cô thợ cấy tủi nhục chịu đựng cho chồng được sống.Ba ngày sau, dân làng vớt xác cô thợ cấy giỏi nhất làng Thượng từ ao nhà lão Lỗi. ông Kiếc uống một hơi hết chai rượu gạo rồi ôm xác vợ chôn cất trên nương sắn sau lòi Dầu máu. Ông cắm chiếc lều nhỏ, lơ thơ mấy cái tranh leéc đủ che cho mộ vợ và chỗ nằm nho nhỏ bên cạnh cho ông. Cả năm trời ông ở bên mộ vợ, trồng dưa đỏ, sống qua ngày. Hết tang vợ, ông đốt lều tranh ra bến Bè dựng lều chăn vịt. Vịt đổi gạo, đổi khoai sắn, vịt đổi rượu, ông lầm lũi qua ngày đoạn tháng bên bến đò xưa cũ. Chỉ có ngày và đêm không đổi được cho nhau. Chỉ có nỗi đau mất vợ tức tưởi không gì đổi được. Bọn trẻ làng nghêu ngao:Ăn hạt mítXịt tình tangXịt lên côi ngàn/ cháy cơn cháy cốiXịt về đồng nộiCháy cửa cháy nhàXịt nhằm ông traPhát điên phát dạiÔng Kiếc vướng phảiChết vợ, không con…. Ông Kiếc vác sào đuổi lũ trẻ như đuổi vịt. Ai bảo là Kiếc điếc, Kiếc vịt, Kiếc gàn, Kiếc rượu, ông đều cười hơ hớ đến vô cảm, nhạt nhẽo. Hễ ai nhắc đến: Đồ hèn, để vợ chết oan là ông nổi cơn tam bành, tay cầm ngược chai rượu cho vào mồm nốc cho đến hết, tay cầm dao dựa sắc lém. Lúc ấy, lối thoát thân duy nhất là co cẳng chạy, càng nhanh càng ngoắt nghéo, càng tốt. An toàn nhất là chạy thẳng vào ao vườn nhà lão Lỗi. Từ ngày ôm xác vợ lên lòi Dầu máu, ông Kiếc thề là không bao giờ nhìn thấy cái ao đầu nhà lão Lỗi.