Lúc đó vào tháng Mười. Một buổi sớm kia lão Javis dắt một con ngựa già đi trên đường cái. Nói cho đúng thì lão không dắt con ngựa. Vì cái dây chão để chùng giữa lão và con ngựa. Lão cùng con ngựa đi sát bên nhau thì thào to nhỏ mọi chuyện trên đời. Lão gặp lão John và bảo: - Chào ông bạn. Tôi có nghe người ta nói về ông. Tôi mới sinh sống ở mạn dưới kia cách đây vài ba nông trại. Cùng cô con gái tôi, cô Jordy, ông biết chứ? - Tôi biết cô ta rất rõ – John nói, và ông không giải thích vì sao ông biết rõ cô ta, vì ông cảm thấy không thích cái ông khách này. Lão Javis nắm một nạm bờm trên đầu con ngựa, vân vê trong bàn tay đầy nốt chai của lão, và nói: - Con ngựa này, có lẽ… có lẽ tôi sắp đem hạ sát nó thôi… Lão John rùng mình, hỏi lại: - Ngựa của chính ông mà lại….? - Tôi đã nuôi nó từ lúc còn bé tí – Lão Javis nói một cách kiêu hãnh – Cho tới nay, thế là nó ở cùng với tôi gần ba chục năm rồi đó. - Con ngựa này hay đấy – Lão John nói – Có thể thấy rõ là nó đã bị vắt kiệt sức rồi, nhưng vẫn còn hay. - Đúng thế, nó vốn là một con ngựa hay xưa nay – Lão Javis nói như thể thanh minh - Chắc là ông cũng hiểu. Mà cũng có thể là ông không hiểu. Con gái tôi hình như…ôi chao…lẽ ra tôi đã phải hạ sát con này lâu rồi. Xương cốt nó rã rời, có khác tôi mấy tí đâu. Lão John thấy một con mòng nơi chân trước con ngựa, liền đi tới xua cho nó. Rồi hỏi lại lão Javis: - Vậy là, con gái ông không muốn nhìn thấy con này quanh quất bên cô ta chứ gì? Tôi cho rằng chẳng phải vội vàng làm gì? Sao không cho nó ở lại đây ít lâu đã? Lão Javis vớ ngay lấy cơ hội: - Tôi có thể trả công chăn dắt! Tôi thuê. Mỗi tuần một đồng cũng được. Tiền tôi không dư dả, nhưng tôi có thể bớt xén ít nhiều và thuê ông. Và thỉnh thoảng tôi cũng có thể lại đây chăm sóc nó cùng ông. - Tôi cũng không coi trọng lắm chuyện thuê mướn đâu, ông Javis ạ - Lão John nói. - Ở dưới kia, tôi nghe nhiều người nói ông rất thương súc vật, vì vậy tôi nghĩ ông có thể thông cảm cho. Tên nó là Barni. - Hoan nghêng chú mình, Barni – Lão John nói và lấy tay gãi gãi vào tai con ngựa – Này, ông Javis, tôi có mảnh đất trồng cỏ cho ngựa cạnh bãi ngô con con kia. Ông hãy đem con Barni ra đó và thả nó ra. Con ngựa đã xuất hiện và được đón tiếp như thế. Những đứa con trai lớn của lão John tiếp đón con ngựa đầu tiên. Chúng đưa tay dọc theo sống lưng thõng của con ngựa và sờ những đầu gối nổi cục của nó. Chúng nói: - Cha ạ! Thêm con này hẳn là cha định làm ngựa cỡi chứ? Và vợ lão thì than van: - Con này thì chỉ biết ăn thôi, và nhà mình chưa chắc đã đủ rơm cỏ cho mùa thu này. Còn lão người làm Kelvin mà lôi lão John ra một góc mà bảo: - Thật là tội lỗi, tội lỗi thật sự khi đem lương thực ra nuôi một cái xác như thế này, trong khi còn biết bao con người không có miếng mà ăn. Lão John phải thừa nhận rằng, trong những điều lão Kelvin nói có chút sự thật, và điều đó khiến lương tâm lão có lúng túng. Nhưng cuối cùng lão đáp lại một cách bình thản: - Tôi khi nào cũng thích làm điều đúng đắn. Từ hôm đó, sáng sáng, chiều chiều, lão Javis đều tới thăm ngựa, cho dù trời mưa, hoặc sương buông, hoặc bụi bay đầy trời chăng nữa. Khi nào lão tới cũng mang theo vài viên đường hoặc chút quà gì đó, và lần nào cũng vậy, lão đều vội vã thở muốn đứt hơi. - Lẽ ra ta tới sớm hơn kia – Lão nói - Lại còn phãi thịt mấy con gà, rửa bát đĩa. Lâu không, Barni? Nói xong, lão thường đưa cho ngựa những thứ lão mang cho nó. Qua đi một tuần, rồi hai tuần. Một hôm cuối tuần, vào lúc trời nhá nhem, lão bảo lão John: - Này, có lẽ tới lúc rồi đó. Lần đầu tiên trong đời Barni đã được nghỉ ngơi, nhưng bây giờ đã tới lúc rồi đó. Có điều là tôi không có súng. Liệu ông có thể giúp tôi cái khoản đó một chút không, ông John? Lão John lắc đầu. - Hừm….Cứ để yên cho nó một thời gian nữa có được không? – Lão nói và lảng đi xa - Cứ cho nó ở yên vị đó cho tới vụ cất cỏ vào chuồng. Cỏ rẻ thôi, không đắt đâu. Thế là lão Javis vừa đi về vừa huýt sáo, còn con Barni thì ở lại. Tháng Mười trôi đi cùng với những ngày ngắn ngủi đầy hương vị mặn mà, sau đó là tháng Mười Một tới với gió lạnh tràn về. Và một bữa kia, hơi thở từ phương Bắc tràn về như một con chim to lớn màu trắng và làm những bông tuyết bay nhảy khắp mặt đất giá băng. Đã đến lúc phải cất rơm, cỏ khô vào chuồng ngựa. Còn con Barni thì xử trí ra sao đây? - Hừ, đã tới lúc có thể thanh toán nó được rồi đó – Lão Javis nói – Ông John, ông có thể làm chuyện đó giúp tôi không? Lão John nói rằng phải cần nghĩ ngợi chút đỉnh đã. Lão nghĩ hơi chậm, và cả gia đình lão đều thấy nóng ruột. Vào một bữa ăn sáng, các con trai lão nói: - Nếu chúng con bắn con Barni, cha cho chúng con bộ da nó nhé? Chúng con sẽ thuộc đi và may áo ngoài. - Nhà mình đối xử với con ngựa này thế là quá tốt rồi đó - Vợ lão nói – Con ngựa tội nghiệp không còn đủ sức đứng vững và cất đầu lên nữa rồi. Dĩ nhiên trừ khi lão già tới thăm nó. - Nếu lão Javis tỏ ra đúng đắn – Lão Kelvin nói - hẳn lão phải để ông bán con ngựa này làm thức ăn nuôi chó. Họ nhao nhao vào bàn tán góp ý cho lão John đến mức lão định nghe họ quách cho xong. Nhưng khi lão tới gặp chú lão là cha xứ, chú lão bảo: - Chú hiểu rõ lão Javis, cháu ạ. Khi một con người phải đặt lòng yêu vào một con vật già nua thế này, ta cần thông cảm. Con chớ quên cho con ngựa ăn mớ cỏ ít ỏi con vẫn dành cho nó. Thế là lão John về nhà trong lòng yên ổn hơn bao giờ hết. Lão vẫn chưa biết sẽ nói gì khi lão Javis chiều nay tới thăm con ngựa một lần cuối cùng. John cùng lão ra chuồng ngựa, trong lòng náo nức kích động về một cảnh tượng nào đó có thể xảy ra. Nhưng chẳng có chuyện gì hết. - Việc đó thế nào cũng phải làm thôi – Lão Javis nói và mở cái túi bằng giấy lão thường mang theo bên người – Tôi không thể kham nổi chuyện nuôi nó nữa. Tôi cũng không thể chi mỗi tuần một đồng để chăn dắt nó nữa. Con gái tôi nay kiểm tra tài khoản dữ lắm. Lão mở túi ra và những viên đường lăn vào tay lão. - Tôi cũng không thể mua đường được nữa – Lão nói. Lão John cảm thấy ngực mình dâng lên một nỗi giận. Lão hỏi lại: - Vậy ra bác ăn trộm những thứ này chăng? - Ăn trộm chút ít – Lão Javis nhận – Nhưng giờ đây con gái tôi xem xét ngặt lắm. Tôi đành phải bớt xén từ xuất chè và xuất cháo của tôi. Lão John chờ cho cơn giận tan đi trong lồng ngực mình và để cho nó dâng lên mắt mình. Rồi lão lẩm nhẩm và lảng đi: - Chuyện đó lẽ ra không nên để xảy ra! Và đã xảy ra chuyện như sau. Khi trở lại chuồng ngựa lão nói: - Này! Ông Javis, chuồng ngựa nhà tôi mùa đông này sẽ rộng hơn đấy. Và có thêm con ngựa cũng đem lại thêm hơi ấm, ông biết đấy. Sao ông không để cho con ngựa này lại đây cho chuồng ngựa của tôi ấm thêm?Tối hôm đó, xung quanh bếp lò, sau khi lão John kể cho cả nhà nghe ý định của lão, cả gia đình lão bắt đầu rầy la lão. - Tôi nghĩ rằng ông phải giầu hơn nữa thì mới nên cất công mua khung xương kia về mà nuôi báo hại – Lão Kelvin nói gần như không kịp thở nữa. Nhưng lão John vẫn nghe rõ Kelvin nói gì, và tiếng lão đáp lại tỏ ra khác thường lắm. - Con người khi nào cũng phải cố sống cho đúng đắn. Và thế là lão John đã đúng đắn cả suốt mùa đông năm đó. Lão cho con Barni ăn cùng xuất ăn như những con ngựa khác nhà lão. - Ta lo rằng mình có tốt hơn nữa với con Barni thì cũng chẳng ăn thua gì. Xem chừng mỗi sớm nó lại yếu thêm, nó khó lắm mới gượng dậy nổi. Ta sẽ chẳng ngạc nhiên khi một sớm nào đó tới thăm chuồng và sẽ thấy nó chết rồi. - Càng chết sớm càng tốt – Lão kelvin lầu bầu. Thế nhưng con Barni đã làm một việc khiến mọi người ngạc nhiên. Vào lúc những móng vuốt mùa đông bớt bám chặt lấy cuộc đời, thì xương cốt con Barni đang rệu rã cũng thay đổi. Nó trở nên thay đổi hẳn, và một hôm lão John thấy ba đứa con nhỏ nhà mình cưỡi và nhào lộn trên lưng nó. Bọn trẻ nói, chúng chưa từng khi nào thấy có con ngựa để cho chúng tập nhào lộn như vậy. Có thể tin cậy vào nó và làm mọi tiết mục nào mình thích làm. Chính lão Javis lại là người bị Thời Gian cướp đi trước. Một buổi sáng, khi mùa đông tệ hại đã qua rồi, con Barni chờ đợi hoài hơi không thấy lão Javis tới cùng với cái túi giấy đựng quà của lão. Về sau, khi lão John đi xuống cửa hàng với một túi trứng, lão dừng lại thăm mom tình hình lão Javis. - Chẳng có chuyện gì tồi tệ xảy ra cho lão đâu – Con gái lão nói – Lão chỉ lười hơn mọi ngày tí chút thôi, sáng nay lão không muốn dậy đó mà. Thay đổi thời tiết thì mệt đó thôi, bác à. Cô Jordy là một người phụ nữ to lớn và trên mặt chẳng có một chút gì khiến ta muốn tìm hiểu hết. Hôm đó lão John rất muốn thăm ông bạn cũ, nhưng cũng chẳng thăm được. Nhưng hôm sau lão John lại nhà Jordy một bận nữa. - Tôi nghĩ ông cụ thân sinh ra cô muốn biết tin tức con ngựa của ông ấy – Lão John nói vời giọng khàn khàn – Tôi không ở chơi lâu la gì đâu. Thế là cô ta mở cửa một cách miễn cưỡng. Cô ta trỏ cho lão John vào thăm ông bạn già nằm trong căn phòng sát bếp đang thiu thiu ngủ, người bọc trong tấm chăn lính cũ. Lão John lay chiếc chăn bụi bặm. - Ông thấy thế nào? – Lão hỏi. Lão Javis mở mắt một thoáng, không nhận ra điều gì cả, rồi lại tiếp tục ngủ. - Hôm nay ông cụ trái tính trái nết thật! - Người con gái nói. - Con Barni hỏi thăm tin tức của ông đó! – Lão John nói. Đôi mắt mệt mỏi mở ra và lần này thì nhìn thấy bạn cũ. - Barni? Con Barni thế nào rồi? – Lão Javis hỏi yếu ớt. - Ông thấy người ra sao? – Lão John hỏi lại - Chuyện đó mới là chính. - Tôi sắp khoẻ rồi, John ạ - Lão già nói khẽ rung rung giọng – Tôi chỉ bị từng cơn thôi. Trước đã bị rồi. Nếu tôi qua được tới tháng Tư, thì mọi chuyện lại như thường. Hôm sau, lão John đem Barni đi và đến đứng trước cái sân bên ngoài phòng lão Javis. Hôm đó người con gái lão có vẻ bẳn bó khác lệ thường. - Barni,Barni,Barni! – Cô ta nói trong lúc lão John đi qua nhà và mở cửa sổ - Suốt đêm chỉ thấy ông ta gọi như vậy. Ông lão nói với con ngựa ấy như thể với trẻ con vậy. Tôi cười muốn chết và suốt đêm không chợp được mắt. Lão John nuốt giận. Lão sờ trán ông bạn già và đỡ cho ông ta nhìn qua cửa sổ. Sau đó lão đem những viên đường đặt vào lòng bàn tay nhăn nhúm của lão và làm cho Barni chú ý tới họ. Con Barni gật đầu, ăn đường và liếm tay lão Javis nhiều lần để cảm ơn. Mọi chuyện chỉ xảy ra có bấy nhiêu thôi, sau đó người con gái lão Javis đóng sầm cửa sổ lại, đúng vào lúc con ngựa già thò cái mũi hồng hồng vào. Lão John không nhận thấy trong túi áo ngoài của mình có lá thư, và chỉ tới khuya, sau khi mọi việc vặt trong nhà đã hết, lão mới biết. Phong bì gắn xi. Bên ngoài là dòng chữ run rẩy: “ John ạ, nếu tôi trết hãi đọc trớ đọc chước nhá ”. - Có gì trong đó? – Bà vợ lão John hỏi - Tiền chăng? - Khó mà có chuyện đó – Lão Kenvil lầu bầu. Sáng hôm sau, cô Jordy gọi dây nói báo tin cho lão John biết cha cô ta đã qua đời. Thấy lão chết trên giường, cô con gái nói như vậy. - Cứ nghĩ rằng cô ta có một trái tim, và trái tim đó đã vỡ vụn ra – Lão John lầm bầm khi báo tin cho gia đình mình. Lão ra chuồng ngựa, ra khoang của con Barni, và mở lá thư ra. Trong thư viết: Từ lay tới tháng tư xa quá, tôi không nghĩ rằng tôi qua được John ạ, nhưng cám ơn John nhiệt tấm lòng vì tốt quá với Barni. John không thể hiểu nổi tấm lòng đó tốt lắm. Bây giờ, John ơi, cần phải cho Barni qua đời thôi nó sống thêm một mùa xuân nữa thì cũng khổ cho nó lắm lắm. Sống mà trẳng là được việc dì, nhưng tôi biết dằng cũng chẳng sao, mong John cho nó qua đời nhé. Tôi mong dằng John sẽ làm cho Barni một đám ma nhỏ khi chôn cất nó, và John tìm một nơi đẹp đẹp đào cho nó cái huyệt xinh xinh nơi bóng cây và khi chôn nó thì đọc vài câu thơ hoặc nói tí gì cho êm dịu nhé như là tạm biệt ấy mà. Tại vì dằng họ nói giống ngựa không có kiếp sau nên cần nói với nó một lời tạm biệt đẹp đẽ. Làm thế tôi sẽ cảm ơn John mãi mãi sau khi tôi đã qua đời. Suốt hai tuần lễ lão John không dám hé răng về nội dung lá thư. Lão cho rằng không nên để cho bất cứ ai trong thiên hạ giễu cợt một con người vừa mới qua đời, cho dù tính khí người đó còn trẻ thơ chăng nữa. Nhưng rồi cuối cùng, vào một tối kia lão đã cho vợ biết. - Con người cô đơn tội nghiệp! – Bà vợ nói – Tôi thật mừng là ông đã không đọc thư cho tôi nghe ngay khi tôi đang rầy la ông. Tội nghiệp ông già! Thế mà đang có chuyện gì ông biết không? Con gái ông ta đang cho người tới lấy ngựa đó. Họ sẽ đem nó đi bán để người ta làm thức ăn cho chó. Lão Kelvin lầu bầu, như thể muốn nói: - Thì tôi đã chẳng bảo đó ư? - Bọn họ không lấy được ngựa đi – Lão John hứa hẹn một cách bình tĩnh – Tôi sẽ đảm bảo chấm dứt chuyện đó. Và tôi cho rằng tôi sẽ làm được sớm thôi. Ngay chiều nay thôi. Bà vợ thấy hơi lo lắng chút ít khi thấy ông chồng lấy ra khẩu súng. Bà ta hỏi ông chồng với một vẻ hơi hồ nghi: - Cũng chẳng có cách gì giữ nó lâu hơn. Nhưng không làm ngay bây giờ chứ? - Không – Lão John nói – Không làm ngay, có lẽ thế. Có điều là, như lão Javis nói, cần phải làm, vì có thể con Barni chẳng sống thêm nổi một mùa xuân nữa vô công rỗi nghề. Bà làm ơn gọi dây nói cho chú chiều nay tới làm lễ cho nó, có được không? Còn Kelvin, khi đi qua cửa hàng, hãy nói cho lũ đầy tớ nhà đó là có đứa nào rảnh việc thì chiều nay hãy tới đây. Một số người đã tới để làm ma cho con ngựa. Có cả vài người mà lão John không thể nhớ mà mình đã gặp ở đâu trước đây. Mọi thứ đã chuẩn bị xong xuôi khi họ tới. Huyệt đã đào xong. Bên cạnh huyệt là một hình thù, như là một Barni trùm vải nhựa. Hơi một dụt dè một chút, lão John bắt đầu lễ tang. - Tôi không cho rằng đây là một việc tình cảm hoàn toàn – Lão nói – Nhưng tôi không thể chống lại nguyện vọng cuối cùng của một lão già tội nghiệp, cho dù nguyện vọng đó có vẻ ngớ ngẩn. Sau đó lão nhường lời cho Kelvin. Kelvin bắt đầu: - Tôi nghĩ rằng ông John nói đúng khi ông coi chuyện này hơi ngớ ngẩn một tí chút. Ngựa sinh ra đời cho con người để con người sử dụng. Và khi việc sử dụng đó đã xong, con người có toàn quyền thanh toán nó đi, Vả chăng, ngựa không có linh hồn, chúng ta ai cũng biết vậy. Tiếng nói của linh mục vang lên như một tiếng roi vụt và một ngón tay trỏ vào lão Kelvin: - Hổ thẹn cho ngươi! Một con người làm việc mỗi tuần bốn chục giờ trong bốn mươi hoặc bốn mươi lăm tuần một năm, và làm việc ở nơi ấm áp. Khi con người già rồi, nó được trợ cấp đủ để đi tới một nơi ấm áp hơn. Nhưng một con ngựa – các người có thể bắt nó làm việc từ khi mặt trời mọc cho tới tối mới về. Các người cho nó ăn bằng những thứ bò không thèm ăn. Các người có thể đánh đập nó một khi nó làm ăn kém, rồi đem bắn bỏ nó khi nào các người ưng. Hừ! ta chỉ muốn nói thế này thôi: nếu con người có thể nuôi cho một con ngựa sống cảnh về hưu một thời gian để hưởng chút ánh mặt trời trước khi mặt trời tắt hẳn với nó, ta không cho rằng đó là một ý nghĩ ngớ ngẩn. Cũng không phải là chuyện xấu! – Và ông trỏ tay vào lão John nói tiếp – Ta lấy làm phiền vì anh. Ta cứ nghĩ rằng có thể anh là một con người khác chứ! Ta không nghĩ rằng anh thật sự bắn bỏ con ngựa này. Qua vẻ mặt lúng túng của lão John thoáng hiện lên một nụ cười. Lão nói: - Thưa chú, cháu rất mừng là chú đã giúp cháu đỡ lúng túng. Thực ra thì mùa xuân tới, cỏ thì rẻ, trong khi con Barni thì đang khá lên, cháu không định làm việc đó thật. Cháu không định làm việc đó ngay cả sau khi đã đi đào huyệt chôn nó. Nhưng cháu không biết làm cách nào trì hoãn việc chôn cất nó trong khi mọi đều đã chuẩn bị đầy đủ rồi. Con Barni đã bị trói ở kia, sau bụi cây xanh. Nhưng đó chỉ là một đống đất cháu đem tấm vải nhựa che lên mà thôi. Khi mọi người trên đường về nhà, họ đều nó đó quả là một lễ tang hay ho thú vị. Trong lúc lão John và lão Kelvin mang tấm vải nhựa về nhà. Kelvin bảo lão: - Ông có tính toán xem con ngựa chết tiệt kia làm ông tốn bao nhiêu không? Có khi nào ông tính thử xem, nếu dừng chuyện vớ vẩn kia lại thì ông sẽ tiết kiệm bao nhiêu tiền cho gia đình không? Trước khi lão John tìm ra được câu trả lời đúng đắn, thì lão nhận ra rằng các người lạ mặt tới dự đám tang con ngựa đang chờ lão ở cuối bãi cỏ chăn ngựa. - Tên tôi là Maye – Người lạ mặt nói - Mới chiều nay tôi tới đây, thì nghe thấy có chuyện đám tang con ngựa, thế là tôi tới liền. Bác ạ, tôi đang tìm một nơi nào tử tế để thuê chăn dắt ngựa non. Liệu bác có thể nhận giúp tôi chừng, dăm sáu con được không? Lão John gãi gãi đầu. - Giá cả ra sao? - Tôi không tính toán chuyện tiền nong – Người lạ tên Maye nói – Tôi chỉ lo tìm một người xứng đáng làm việc đó, một người nào tôi có thể tin cậy. Nay tôi nghĩ là tôi đã gặp được bác. Cứ mười đồng một đầu ngựa mỗi tháng, bác thấy có nhận được không? - Mười đồng một tháng, khác nào ăn cướp của ông – Lão John nói – Nhưng tôi nhận. Người khách ra đi mặt tươi roi rói. Khi đó lão John mới có thể quay lại cùng lão Kelvin để đáp lại câu hỏi của lão trong lúc hai người khiêng tấm vải nhựa. Lão nói: - Lúc nãy tôi chỉ muốn nói với lão một điều thôi, nhưng ông khách lạ đã tới ngắt mất câu chuyện giữa hai chúng mình. Tôi muốn nói là, tôi không cho rằng một người nào đó sẽ được coi là đúng đắn khi người đó đối xử không công bằng với bất cứ kẻ khác. Cũng như ngay từ đầu tôi đã nói: con người lúc nào cũng phải cố mà sống cho đúng đắn.