Tôi đã hứa với K. Tết này sẽ về thăm Hà Nội. Đó là điều duy nhất mà anh yêu cầu tôi trong cuộc gặp gỡ của chúng tôi ở Berlin, một cuộc gặp lại sau mười hai năm đường chia đôi ngả kể từ buổi giã từ trên sân bay Seremetievo. Cuộc đời sao thật trớ trêu: hơn chục năm trước đây, tôi không còn mong muốn gì hơn là được đón K. về Hà Nội. Giờ đây, đến lượt anh nói sẽ đợi tôi về. Nhưng là chỉ về thăm ít ngày để rồi lại ra đi. Đó là điều duy nhất mà tôi có thể hứa được với anh trong cuộc gặp gỡ này. Tất cả những nỗi day dứt, ân hận trĩu nặng lòng tôi suốt mười hai năm trời, tôi muốn nói ra với anh cho nhẹ lòng nhưng không hiểu sao chẳng thể nào nói nổi. Bao nhiêu câu hỏi ám ảnh vậy là sẽ mãi mãi ám ảnh trong đầu tôi. Tất cả những điều phỏng đoán sẽ mãi mãi chỉ là phỏng đoán. Cuộc hội ngộ của chúng tôi trên thực tế đã không diễn ra như tôi vẫn hình dung. Tôi không dám hỏi K. xem anh có hạnh phúc không, anh rất ít lời khi nói về cuộc sống hiện tại của mình, nhưng giọng nói và ánh mắt của anh đôi khi gieo vào lòng tôi một cảm giác mơ hồ rằng hình như anh không hạnh phúc như trước đây tôi vẫn tưởng. Nỗi ngờ vực này đã trở thành một niềm day dứt mới của tôi, nó làm tăng thêm mặc cảm có lỗi trong tôi sau khi nghe anh nói rằng mười năm trước đây, lúc từ Ba Lan trở về Hà Nội, anh không ngờ rằng tôi đã bỏ đi. Anh về với hy vọng tìm lại tôi, nhưng hóa ra đã trở về quá muộn. Cuộc trở về của tôi lần này cũng là quá muộn. Chín năm, thành phố của tôi chắc chắn đã thay đổi nhiều kể từ ngày tôi về Hà Nội chịu tang bố rồi mang tâm trạng hờn giận ra đi. Năm tháng trôi qua, nỗi giận hờn tan lẫn vào thời gian như một tiếng thở dài không lưu dấu vết. Còn đọng lại là nỗi nhớ, lúc thoảng qua, lúc da diết, lúc hiển hiện rõ nét, lúc mơ hồ chập chờn. Nỗi nhớ là một hạnh phúc và một cực hình không sao dứt bỏ được của cuộc sống tha hương. Thời gian là một đồng minh và một kẻ thù luôn luôn cặp kè bám theo nỗi nhớ. Với thời gian, nỗi nhớ trở thành thấm thía hơn trong máu thịt và mờ nhạt hơn trong hình ảnh. Đôi lúc, nó là một cảm giác nhức nhối không tên gọi, không đường nét. Cũng có khi, trái lại, nó hiện ra có tên có hình cụ thể nhưng kèm theo một dư vị bẽ bàng: tôi thấy mình nhớ hương hoa sữa đường Nguyễn Du, Tháp Rùa in bóng nước, dáng cong của cầu Thê Húc, liễu rủ chiều Hồ Tây... và bàng hoàng chợt hiểu rằng nỗi nhớ của tôi đã nhạt nhòa đến mức phải chui vào một cái vỏ vay mượn để tồn tại, nó đã mong manh đến độ phải hóa thân vào những công thức khuôn mẫu trong sách vở, nó không còn là nỗi nhớ của riêng tôi. Vậy là không tránh khỏi một cuộc phiêu lưu nhọc nhằn, lo âu, đôi lúc hoang mang và thậm chí gần như tuyệt vọng, nhưng bao giờ cũng tràn đầy thôi thúc: một cuộc lục tìm trong nỗi nhớ. Chỗ bắt đầu hẳn là phải ở đây: một ngõ cụt trong một khu phố vắng, mặt đường giống như mảnh áo vá với những mụn vải đậm nhạt khác nhau: dấu tích của nhiều lần đào lên lấp lại mà mục tiêu nhằm tới lần nào cũng chỉ là cái đường ống dẫn nước - hạnh phúc và nỗi khổ của người Hà Nội lúc hè về. Cái ngõ nhỏ này là thế giới riêng biệt của tuổi thơ tôi, những kỳ nghỉ hè của tôi, bãi biển và đỉnh núi của tôi, nơi tụ tập của lũ trẻ lau nhau vừa mới thoát khỏi bom đạn chiến tranh, chẳng có gì chơi nên lại hồn nhiên say sưa chơi trò “chiến tranh bùng nổ”. Đầu ngõ có một cây bàng mà ấn tượng còn lại trong nỗi nhớ của tôi không phải là “mùa đông lá đỏ, mùa hạ lá xanh”, mà là những con sâu róm thường xuyên từ các tán lá rơi xuống đất: nỗi sợ của lũ con gái và vũ khí của bọn con trai ( lơ mơ là các cậu lại túm một con dứ vào người để dọa thì đành chịu thua, hết cả đành hanh, đanh đá). Cuối ngõ có hai cây phượng vĩ mà những cánh hoa đỏ thắm của nó hè nào cũng được nhặt lên kết lại thành vòng để trang điểm cho tất cả các cô bé trong ngõ, lúc giả làm công chúa, lúc trong vai cô dâu. Một cây phượng sẽ bị chặt đi để lấy chỗ xây nhà năm tôi học cuối cấp hai, cây còn lại cùng chung số phận sau vài năm nữa. Ngày tôi rời Hà Nội đi Nga học, hình ảnh mang theo là hai gốc cây còn trơ lại trên mặt đất. Khi tôi từ Nga trở về, hai gốc cây cũng không còn. Chỉ còn lại sắc lá xanh, màu hoa đỏ và tiếng ve ngân trong nỗi nhớ của tôi. Chỗ nhiều kỷ niệm nhất hẳn phải là phố Lý Thường Kiệt, đoạn đường đã chứng kiến tôi từ một cô bé vô tư áo còn vấy mực lớn bồng lên thành một thiếu nữ điệu đàng, buổi tan trường bao giờ cũng có một hai ánh mắt vụng trộm bám theo. Sáu năm đi học, hai ngôi trường - trường cấp hai ở đoạn dưới, trường cấp ba ở đoạn trên, vậy mà nỗi nhớ của tôi ở đây không sao có nổi một khuôn hình rõ nét. Chỉ thấy vang vọng mơ hồ tiếng tầu điện leng keng chỗ cắt ngang phố Hàng Bài, nhập nhòa những mảng tường khắc khổ của ngôi trường mang dáng hình tu viện góc phố giáp Quang Trung, thấp thoáng một gánh táo rong phía gần đường Bà Triệu... Những điểm tựa quá mông lung cho một nỗi nhớ quá nặng nề. Chỗ kết thúc là một khoảng mập mờ, phân vân, không cố định. Có thể đó là con đường dẫn ra sân bay, những phố ngoại ô chen chúc và nhem nhuốc. Có thể đó là Hồ Tây, một buổi ngồi trong “Quán Gió” cùng K., một ước mơ không bao giờ được hóa thành kỷ niệm, một vết đau luôn luôn hiện diện mỗi khi nỗi nhớ ập về. Dù biết là đã quá muộn để thực hiện ước mơ xưa, tôi vẫn hứa với anh, tôi vẫn hứa với mình, Tết này tôi sẽ về thăm Hà Nội.