
*
Chúng ta hãy cùng trở về thời kỳ này và tìm cách minh họa những điều kiện hoàn cảnh và sự kiện đã diễn ra.Giai đoạn gian băng lớn bắt đầu khoảng 435.000 năm trước cùng với sự ấm lên của khí hậu đã tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh chóng của các nguồn thức ăn và các loài động vật. Nó cũng đẩy nhanh tiến trình xuất hiện và phổ biến của một loài khỉ giống người tiến bộ Homo erectus.Khi người Nefilim chú ý tới loài khỉ giống người này, họ coi chúng không chỉ là loài động vật có vú ưu việt mà còn là loài thuộc bộ linh trưởng – trong bộ này có loài khỉ giống người. Liệu có khả năng những nhóm người Homo erectus lang thang đã bị thu hút bởi những vật thể phụt lửa bay lên trên bầu trời? Liệu có khả năng người Nefilim đã nhìn thấy, chạm trán và thậm chí bắt một vài con linh trưởng thú vị này?Việc người Nefilim gặp gỡ những loài khỉ giống người này được thể hiện trong một số ghi chép thời cổ đại. Một câu chuyện của người Sumer về thời kỳ sơ khai kể rằng:Khi Con người được tạo ra,Họ chưa biết cách ăn bánh mỳ,Không biết cách mặc quần áo;Họ ăn cây cỏ giống như loài cừu;Uống nước trong mương rãnh.Loài “người” giống động vật này cũng được mô tả trong “Sử thi Gilgamesh”. Thiên sử thi này kể về hình dáng của Enkidu, “người” được “sinh ra trên thảo nguyên”, trước khi được khai hóa:Toàn bộ cơ thể của anh ta phủ đầy lông lá,tóc trên đầu dài như phụ nữ…Anh ta không có ý niệm về dân tộc và xứ sở;Trang phục của anh ta hòa vào đồng cỏ xanh;Anh ta gặm cỏ cùng bầy linh dương;Anh ta chen lấn với những con thú hoangở nơi uống nước;Đầm mình với những sinh vật khác trong làn nướcthỏa thuê tận hưởng.Câu chuyện này của người Akkad không chỉ mô tả về một con người mang hình hài động vật mà còn kể về cuộc chạm trán của họ với một sinh vật như vậy:Giờ thì một thợ săn đi đặt bẫychạm trán anh ta tại dòng suối.Khi người thợ săn nhìn thấy anh ta,gương mặt anh ta trở nên lạnh lùng…Tâm can người thợ săn rối loạn, gương mặt u ám,vì nỗi sợ hãi cuộn lên trong lòng.Đây không chỉ đơn thuần là nỗi sợ hãi sau khi người thợ săn nhìn thấy “kẻ hoang dã”, “gã đồng loại man di ở sâu trong thảo nguyên” này; bởi vì “kẻ man di” này cũng đã can thiệp vào cuộc săn của người thợ săn:Anh ta lấp lại những hố bẫy mà tôi đã đào,anh ta gỡ những chiếc bẫy mà tôi đã cài;anh ta khiến những con thú và loài vật trên thảo nguyênvuột khỏi tay tôi.Bức tranh mô tả sinh vật nửa người nửa khỉ này rất rõ ràng: tóc tai rậm rạp, lông lá, một kẻ lang thang “không biết gì về dân tộc và xứ sở”, mặc trang phục bằng lá cây “giống như đồng cỏ xanh”, gặm cỏ và sống chen chúc giữa các loài vật. Tuy nhiên anh ta không phải là kẻ không có trí thông minh, bởi vì anh ta biết cách gỡ bỏ những chiếc bẫy cài và lấp những hố bẫy thú. Nói cách khác, anh ta bảo vệ những người bạn động vật của mình khỏi những người thợ săn xa lạ. Người ta đã tìm thấy nhiều con dấu lăn khắc họa hình ảnh loài khỉ hình người lông lá này giữa những bạn bè động vật của mình. (Hình 149)Sau đó, khi phải đối mặt với nhu cầu về nhân lực và quyết tâm tạo ra Nhân công Nguyên thủy, thì người Nefilim đã tìm ra một giải pháp sẵn có: thuần hóa một loài vật thích hợp.“Loài vật” này đã có sẵn nhưng có một vấn đề nảy sinh đối với người Homo erectus. Đầu tiên, loài vật này quá thông minh và hoang dã để có thể trở thành một loài vật lao động thuần túy giản đơn. Mặt khác, cấu tạo cơ thể của loài này cần phải thay đổi – chúng phải có khả năng cầm nắm và sử dụng công cụ của người Nefilim, đi lại và cúi xuống được để thay thế các vị thần cáng đáng công việc đồng áng và khai mỏ. Chúng cũng cần có “bộ não” thông minh hơn – tuy không cần giống y hệt như não bộ các vị thần nhưng phải đủ để hiểu được lời nói và mệnh lệnh cũng như những nhiệm vụ được phân công. Chúng cần có sự hiểu biết sơ khai để trở thành một amelu – đầy tớ biết vâng lời và hữu dụng.Nếu đúng như các bằng chứng cổ đại và khoa học đương đại mô tả rằng sự sống trên Trái đất bắt nguồn từ sự sống trên Hành tinh thứ Mười hai thì quá trình tiến hóa trên Trái đất phải diễn ra giống như trên Hành tinh thứ Mười hai. Đương nhiên, 2 sự sống này có những đột biến, biến dị, những hiện tượng phát triển nhanh và chậm khác nhau do các điều kiện cục bộ gây ra; nhưng chúng có cùng loại mã gen, cùng “hóa chất sự sống” giống như tất cả các động thực vật trên Trái đất, chính việc này định hướng cho sự phát triển của các dạng sống trên Trái đất theo đúng quy trình chung đã diễn ra trên Hành tinh thứ Mười hai.Sau khi quan sát các dạng sống khác nhau trên Trái đất, người Nefilim và Ea, nhà khoa học hàng đầu của họ không mất nhiều thời gian để nhận ra rằng trong vụ va chạm giữa các thiên thể, hành tinh của họ đã gieo mầm sự sống xuống Trái đất. Bởi vậy, loài khỉ hình người đang sinh sống ở đây thực sự giống như người Nefilim tuy rằng ít tiến hóa hơn.Quy trình thuần hóa dần dần qua nhiều thế hệ bằng cách tuyển chọn, thuần hóa và chăn nuôi không phát huy được tác dụng. Thứ họ cần ở đây là một quy trình nhanh chóng, một quy trình cho phép “sản xuất hàng loạt” những nhân công mới. Công việc này được giao cho Ea, người đã ngay lập tức đưa ra giải pháp “in dấu” hình ảnh của các vị thần lên những sinh vật đang tồn tại.Chúng tôi tin rằng quy trình mà Ea đưa ra để đạt được thành tựu tiến hóa nhanh chóng cho loài Homo erectus chính là quy trình can thiệp gen.Hiện nay nhờ bộ mã gen chúng ta có thể tiến hành quy trình sinh học phức tạp trong đó một cơ thể sống tự tiến hành sinh sản tạo ra thế hệ con cái giống bố mẹ. Tất cả các cơ thể sống – từ loài giun kim, cây dương xỉ cho đến Con người – đều chứa đựng trong tế bào của mình các nhiễm sắc thể, những cấu trúc hình que cực kỳ nhỏ bé chứa đựng những thông tin di truyền hoàn chỉnh cho cơ thể sống đó. Khi tế bào giống đực (phấn hoa, tinh trùng) thụ thai với tế bào giống cái, 2 bộ nhiễm sắc thể kết hợp lại với nhau và sau đó phân chia thành các tế bào mới giữ nguyên những đặc tính di truyền của các tế bào bố mẹ.Hiện nay người ta đã có thể tiến hành thụ tinh nhân tạo, ngay cả với trứng của con người. Thử thách thực sự nằm ở việc thụ tinh chéo giữa các họ khác nhau trong cùng một loài và thậm chí là giữa các loài khác nhau. Khoa học đương đại đã tiến được một bước dài từ việc phát triển những giống ngô lai đầu tiên, hay việc lai tạo giữa chó Alaska với chó sói, hay việc “sáng tạo” ra loài la (kết quả của việc thụ tinh nhân tạo giữa ngựa cái với lừa đực) cho tới khả năng can thiệp vào quá trình sinh sản của Con người.Quy trình nhân bản vô tính (có từ gốc trong tiếng Hy Lạp là klon – “chồi”) áp dụng trên động vật theo nguyên tắc tương tự như việc cắt lát thân cây để nhân giống cây con. Kỹ thuật áp dụng trên động vật này được thực hiện lần đầu tiên ở Anh, khi Tiến sỹ John Gurdon thay thế nhân của một quả trứng ếch đã được thụ tinh bằng nhân một tế bào khác của con ếch đó. Việc những con nòng nọc nở ra thành công chứng tỏ rằng trứng ếch vẫn tiếp tục phát triển và phân chia để tạo thành nòng nọc bất kể nó nhận được bộ nhiễm sắc thể phù hợp từ đâu.Các báo cáo thí nghiệm do Viện Xã hội, Đạo đức và Khoa học Sự sống tại Hastings-on-Hudson chỉ ra rằng chúng ta đã có những kỹ thuật cần thiết để tiến hành nhân bản vô tính người. Hiện nay người ta đã có thể lấy được nhân của bất kỳ tế bào nào trong cơ thể người (không nhất thiết phải là tế bào của cơ quan sinh sản) và bằng cách cấy 23 bộ nhiễm sắc thể hoàn chỉnh vào trứng của người phụ nữ nhằm thụ thai và sinh ra một cá thể “định trước”. Trong điều kiện thụ thai bình thường, các bộ nhiễm sắc thể “bố” và “mẹ” trộn lẫn với nhau và sau đó phân chia để duy trì mức 23 cặp nhiễm sắc thể, hiện tượng này dẫn đến những sự kết hợp ngẫu nhiên. Nhưng trong kỹ thuật sinh sản vô tính, cá thể con là một bản sao y hệt của nguồn nhiễm sắc thể không phân chia. Tiến sỹ W. Gaylin chia sẻ trên tờ New York Times rằng chúng ta đã sở hữu “thành tựu diệu kỳ có khả năng tạo ra những bản sao Con người chính xác” – vô số những Hitler, Mozart hay Einstein (nếu chúng ta vẫn còn giữ được nhân tế bào của họ).Nhưng công nghệ kiến tạo di truyền không chỉ giới hạn trong một phương pháp. Các nhà nghiên cứu trên nhiều quốc gia đã hoàn thiện một quy trình gọi là “hợp nhất tế bào” giúp ta có khả năng hợp nhất các tế bào lại với nhau thay vì kết hợp các nhiễm sắc thể trong cùng một tế bào. Kết quả của quy trình này là các tế bào từ nhiều nguồn khác nhau có thể được hợp nhất thành một “siêu tế bào” có 2 nhân bên trong và 2 bộ nhiễm sắc thể theo cặp. Khi tế bào này phân chia, hỗn hợp giữa nhân tế bào và nhiễm sắc thể sẽ phân chia thành các mẫu vật khác với mẫu vật nguyên bản của từng tế bào trước khi hợp nhất. Kết quả thu được có thể là 2 tế bào mới hoàn chỉnh về mặt di truyền, nhưng mỗi tế bào có một bộ mã gen hoàn toàn mới và hoàn toàn khác so với các tế bào ban đầu.Điều này có nghĩa là những tế bào của các cơ thể sống từ trước đến nay vốn được coi là không tương thích – ví dụ, tế bào của một con gà và một con chuột – có thể được hợp nhất lại để tạo thành những tế bào mới với những đặc điểm di truyền hoàn toàn mới, từ đó tạo ra những loài động vật mới không phải là gà cũng không phải là chuột như chúng ta vẫn thấy. Nếu được tinh lọc thêm, quá trình này cũng có thể giúp ta lựa chọn những đặc điểm theo ý muốn của một dạng sống để đưa vào trong tế bào kết hợp hay “hợp nhất” này.Điều này đã dẫn tới sự phát triển của lĩnh vực “cấy ghép di truyền” rộng lớn. Con người hoàn toàn có thể lựa chọn một gen nhất định từ loài vi khuẩn nhất định và cấy gen đó vào một tế bào của động vật hay của con người để bổ sung thêm đặc tính mới cho cá thể con.Giả sử, thời kỳ này người Nefilim – những người đã thực hiện các chuyến du hành vũ trụ cách đây 450.000 năm – cũng có trình độ phát triển tương đương như chúng ta hiện nay trong lĩnh vực các ngành khoa học sự sống (life sciences), liệu họ có biết kết hợp 2 bộ nhiễm sắc thể theo ý muốn để tạo ra kết quả di truyền định trước theo nhiều cách khác nhau; và liệu quy trình này có giống với quy trình nhân bản vô tính, hợp nhất tế bào, cấy ghép di truyền hoặc các phương pháp chúng ta chưa biết tới hay không để có thể tiến hành kỹ thuật nhân bản không chỉ trong bình thí nghiệm mà còn trên cả các cơ thể sống.Chúng tôi tìm thấy một tư liệu về sự pha trộn 2 nguồn sống trong các ghi chép cổ. Theo sử gia Berossus, vị thần Belus (“Chúa tể”) – hay còn được gọi là Deus (“Thần”) – đã cho ra đời “những sinh vật gớm guốc được tạo ra theo nguyên tắc nửa nọ nửa kia”:Những sinh vật ra đời với 2 cái cánh, một số có 2 hoặc 4 khuôn mặt. Chúng chỉ có một thân nhưng 2 đầu, một đầu là nam, một đầu là nữ. Tương tự, một số bộ phận trên cơ thể chúng cũng nửa nam nửa nữ.Người ta nhìn thấy những sinh vật có phần thân người với chân và sừng dê. Một số có chân ngựa, số khác có thân dưới là ngựa, còn thân trên là hình người – nhân mã. Những con bò cũng được sinh ra với đầu người; chó có 4 chân kèm đuôi cá; ngựa đầu chó, người và các loài động vật khác có đầu và thân ngựa, đuôi cá. Tóm lại, ở đó hầu hết các sinh vật đều có một số bộ phận của những loài động vật khác nhau…Hình vẽ của tất cả những sinh vật này được lưu giữ tại đền thờ Belus ở Babylon.*
Những chi tiết đầy rắc rối trong câu chuyện này có thể chứa đựng một sự thật quan trọng. Có thể, trước khi dùng đến phương sách tạo ra loài sinh vật giống mình, người Nefilim đã thử tiến hành “sản xuất nô bộc” bằng cách thực hiện nhiều phương án khác nhau: tạo ra loài động vật lai giữa khỉ-người-động vật. Một số sinh vật nhân tạo này có thể sống được một thời gian nhưng hiển nhiên không thể sinh sản được. Loài nhân ngưu và nhân sư đầy bí ẩn được trang trí trong các ngôi đền ở vùng Cận Đông cổ đại có thể không chỉ là những sản phẩm tưởng tượng của người nghệ sỹ mà là các sinh vật có thực bước ra từ phòng thí nghiệm sinh học của người Nefilim – những thí nghiệm thất bại được ghi nhận bằng hội họa và điêu khắc. (Hình 150)Hình 150
Các ghi chép của người Sumer cũng kể về những sinh vật dị dạng do Enki và Nữ thần Mẹ (Ninhursag) tạo ra trong quá trình nỗ lực làm ra một Nhân công Nguyên thủy hoàn hảo. Một bản ghi chép kể rằng Ninhursag, vị thần có nhiệm vụ “áp khuôn mẫu của các vị thần lên hỗn hợp”, đã say rượu và “gọi tên Enki”:“Cơ thể Con người tốt xấu thế nào rồi?Trái tim ta mách bảo rằng,Ta có thể làm cho số phận nó tốt hay xấu.”Sau đó, kết quả không như ý muốn nhưng là một phần tất yếu của phương pháp thử sai – Ninhursag đã tạo ra một người đàn ông không thể kiểm soát được khả năng tiểu tiện của mình, một người đàn bà không thể có con, một sinh vật có những bộ phận chẳng phải là nam cũng không phải là nữ. Ninhursag đã cho ra đời tổng cộng 6 người dị dạng hoặc khuyết tật. Enki cũng sáng tạo không thành công một người đàn ông với đôi mắt hỏng, bàn tay run rẩy, lá gan ốm yếu, trái tim bệnh tật; người thứ hai với những bệnh tật của tuổi già, v.v…Nhưng cuối cùng họ cũng tạo ra được Con người hoàn hảo – con người mà Enki đặt tên là Adapa; Kinh thánh gọi là Adam; còn các chuyên gia của chúng ta gọi là Homo sapiens. Sinh vật này giống các vị thần đến mức một bản ghi chép cổ còn sót lại chỉ ra rằng Nữ thần Mẹ đã trao cho sản phẩm sáng tạo của mình, Con người, “làn da như các vị thần” – một cơ thể láng mịn, khác hoàn toàn so với loài khỉ.Với sản phẩm cuối cùng này, người Nefilim giờ đây đã tương thích về mặt di truyền với con gái của Loài người và có thể kết hôn rồi sinh con đẻ cái cùng với họ. Nhưng sự tương thích này chỉ tồn tại nếu Loài người phát triển từ cùng một loại gen hay “mầm mống sự sống” như người Nefilim. Và điều này đã được các ghi chép cổ đại xác thực.Theo quan niệm của người Mesopotamia cũng như trong Kinh thánh, Con người được tạo thành từ hỗn hợp giữa một nguyên tố thần thánh – máu hoặc “tinh hoa” của một vị thần – với “đất sét” của Trái đất. Thực tế, thuật ngữ lulu vừa có nghĩa là “Con người” vừa mang nghĩa “nguyên thủy” và “kẻ được nhào nặn”. Khi được yêu cầu nặn ra một con người, Nữ thần Mẹ đã “rửa tay, véo một cục đất sét, nhào nặn và đặt nó trong thảo nguyên”. (Thật thú vị khi biết rằng vị nữ thần này cũng giữ các nguyên tắc vệ sinh thể hiện qua việc “rửa tay” trước khi thực hiện nhiệm vụ. Chúng tôi cũng thấy các quy trình và biện pháp lâm sàng này trong nhiều bản ghi chép về sự sáng tạo ra con người khác.)Việc sử dụng “đất sét” của Trái đất trộn với “máu” của thần linh để tạo ra nguyên mẫu của Con người được khẳng định chắc chắn trong các ghi chép của người Mesopotamia. Một ghi chép đề cập đến việc Enki được triệu tập để “truyền lại một công trình Trí tuệ nào đó” – công trình tri thức khoa học – với nội dung rằng Enki không gặp khó khăn gì với nhiệm vụ “nặn ra những kẻ nô bộc cho các vị thần”. Ngài tuyên bố: “Ta có thể làm được!”. Sau đó ngài hướng dẫn cho Nữ thần Mẹ:“Nhào nặn phần cốt bằng đất sétlấy từ Mặt đất,ngay phía trên Abzuvà nặn nó thành hình cốt.Ta sẽ cử những vị thần trẻ tuổi giỏi giangchuyển cục đất sét vào điều kiện phù hợp”.Chương 2 của Sáng Thế Ký cũng đề cập đến quy trình kỹthuật này:Và Ðức Giê-hô-va, Elohim, nặn ra Adam,từ đất sét trên mặt đất;và Ngài thổi sinh khí vào lỗ mũi của chàng,biến Adam thành một Linh hồn sống.Trong tiếng Hebrew, nephesh thường được dịch ra là “linh hồn”, một loại “tinh thần” khó nắm bắt tạo sinh khí cho sinh vật sống và mất đi khi sinh vật đó chết. Thật trùng hợp, năm cuốn Kinh Cựu ước đầu tiên (Pentateuch) không ngừng hô hào chống lại sự đổ máu của con người và việc ăn uống máu động vật “bởi vì máu là nephesh”. Như vậy, các câu chuyện về sáng tạo Loài người trong Kinh thánh đã đánh đồng nephesh (“tinh thần”, “linh hồn”) với máu.Kinh Cựu ước cũng đưa ra một dẫn chứng khác về vai trò của máu trong quá trình sáng tạo Loài người. Thuật ngữ adama (tên Adam được đặt theo thuật ngữ này) có nghĩa gốc không phải là bất cứ loại đất nào mà là đất màu đỏ thẫm. Giống như thuật ngữ tương đương adamatu (“đất đỏ thẫm”) trong tiếng Akkad, thuật ngữ adama trong tiếng Hebrew và danh từ chỉ màu đỏ trong tiếng Hebrew (adom) đều bắt nguồn từ các từ chỉ máu: adamu, dam. Việc gọi tên sinh vật được Đức Chúa tạo ra là “Adam” trong cuốn Sáng Thế Ký chính là việc vận dụng hiện tượng đa nghĩa này trong ngôn ngữ Sumer. Từ “Adam” vừa có nghĩa là “con người của cát bụi” (Người trần), “con người được làm từ đất màu đỏ thẫm”, và “con người được làm từ máu”.Mối quan hệ tương tự giữa thành phần cơ bản của các sinh vật sống và máu cũng được thể hiện trong các câu chuyện về sự sáng tạo ra Con người của người Mesopotamia. Ngôi nhà giống như bệnh viện nơi Ea và Nữ thần Mẹ tạo ra Con người được gọi là Ngôi nhà Shimti; đa phần các chuyên gia dịch từ này thành “ngôi nhà nơi quyết định các số phận”. Nhưng thuật ngữ Shimti lại có nguồn gốc rõ ràng từ thuật ngữ SHI.IM.TI trong tiếng Sumer, được dịch nghĩa theo âm tiết là “hơi thở-gió-sự sống”. Bit Shimti có nghĩa đen là “ngôi nhà nơi ngọn gió sự sống được thổi vào”. Đây cũng là ý tưởng được thể hiện trong Kinh thánh.Trong thực tế, từ Akkad được sử dụng trong tiếng Mesopotamia để dịch nghĩa từ SHI.IM.TI của người Sumer là napishtu – chính là từ tương đương với thuật ngữ nephesh trong Kinh thánh. Và nephesh hay napishtu này là một “thứ gì đó” rất mơ hồ có ở trong máu.Trong khi Kinh Cựu ước chỉ đưa ra được những dẫn chứng sơ sài thì các ghi chép của người Mesopotamia lại trình bày chủ đề này khá rõ ràng. Các ghi chép cổ còn sót lại không những khẳng định rằng máu là yếu tố cần thiết cho quá trình nhào nặn hỗn hợp đất sét-máu thành Con người mà còn chỉ rõ rằng đó phải là máu của một vị thần, dòng máu thần thánh.Khi các vị thần quyết định tạo ra Con người, vị thần đứng đầu tuyên bố: “Ta sẽ thu thập máu để biến xương cốt thành sinh vật”. Cho rằng dòng máu này phải được lấy ra từ một vị thần cụ thể, Ea lên tiếng: “Hãy để những sinh vật nguyên thủy đó được nhào nặn theo khuôn mẫu của vị thần này”. Sau khi lựa chọn được vị thần theo ý muốn,Từ dòng máu của ngài họ nặn nên Con người;đặt lên vai nó gánh nặng công việc nhằm giải phóng các vị thần…Đó là một công việc vượt xa tầm hiểu biết.Theo thiên sử thi “When the gods as men”, các vị thần đã triệu tập Nữ thần Sinh sản (Nữ thần Mẹ, Ninhursag) và yêu cầu bà thực hiện nhiệm vụ:Khi Nữ thần Sinh sản có mặtHãy để Nữ thần nặn ra một đứa con.Trong khi Mẹ của các vị Thần có mặt,Hãy để Nữ thần nặn ra Lulu;Hãy để nhân công này đảm đương gánh nặng công việc cho cácvị thần.Hãy để bà tạo ra một Lulu Amelu,Hãy để hắn mang trên vai gánh nặng.Trong một ghi chép tương tự của người Babylon cổ có tên “Nữ thần Mẹ tạo ra Con người”, các vị thần triệu tập “Bà mụ của các vị thần, Mami thông thái” và bảo bà:Mẹ Sinh sảnNgười có khả năng tạo ra Con người.Vậy hãy tạo ra Lulu, để hắn mang lấy gánh nặng!Đến đây, thiên sử thi “When the gods as men” và các ghi chép tương tự khác đều hướng tới mô tả chi tiết quá trình sáng tạo Con người. Sau khi nhận lời thực hiện “công việc” này, vị nữ thần này (NIN.TI – “nữ thần mang lại sự sống”) đưa ra một số yêu cầu, trong đó có một số hóa chất như “bitum của vùng Abzu” được dùng để “tẩy rửa” và “đất sét của vùng Abzu”.Dù các nguyên liệu này là gì đi nữa thì Ea cũng không mấy khó khăn để đáp ứng được các yêu cầu này; sau khi chấp thuận, ngài phán:“Ta sẽ chuẩn bị một bồn tẩy rửa.Hãy lấy máu của một vị thần…Từ máu thịt của vị thần này,hãy để Ninti nhào trộn với đất sét.”Để tạo hình một con người từ phần đất sét đã nhào trộn, cần phải có sự trợ giúp của một số trợ lý nữ và cần phải trải qua các giai đoạn mang thai và sinh nở. Enki đề nghị giao công việc này cho vợ mình:Ninki, phu nhân của ta,sẽ là người phụ trách việc đó.7 nữ thần Sinh sảnsẽ ở bên để giúp đỡ nàng.Sau giai đoạn nhào trộn “máu” với “đất sét”, thì giai đoạn sinh nở sẽ hoàn tất việc trao “dấu ấn” thần linh lên sinh vật đó.Các vị thần sẽ tuyên bố số phận của đứa trẻ mới sinh;Ninki sẽ định hình ảnh của các vị thần lên nó;Và nó sẽ trở thành “Con người”.Các bức họa trên con dấu của người Assyria có thể nhằm mục đích minh họa cho các ghi chép này bằng việc thể hiện Nữ thần Mẹ (với biểu tượng là chiếc kéo cắt dây rốn) và Ea (biểu tượng hình trăng lưỡi liềm) đang chuẩn bị các hỗn hợp, xướng các câu thần chú, hối thúc nhau tiến hành công việc. (Hình 151, 152)Hình 151
Hình 152
Vai trò tham gia của Ninki, vợ Enki trong quá trình sáng tạo ra mẫu vật Con người thành công đầu tiên này khiến cho ta nhớ đến câu chuyện về Adapa ở chương trước:Trong những năm tháng đó,Ea, Đấng Thông thái của Eridu,tạo ra chàng ta là hình mẫu của con người.Các chuyên gia đã phát hiện ra rất nhiều tư liệu thể hiện Adapa là “con trai” của Ea, điều này chứng tỏ rằng thần Ea yêu quý con người này đến mức ngài đã nhận chàng làm con nuôi. Nhưng trong bản ghi chép khác Anu lại gọi Adapa là “đứa con loài người của Enki”. Dường như việc vợ Enki “mang nặng đẻ đau” Adapa hay “Adam hình mẫu” đã hình thành nên mối quan hệ phả hệ bền chặt giữa Con người mới được tạo ra này và vị thần mẹ của mình!Ninti chúc phúc cho đứa trẻ mới ra đời và đưa nó đến trước mặt Ea. Một số con dấu lăn thể hiện cảnh một vị nữ thần đứng bên cạnh Cây Trường sinh và những bình thí nghiệm đang giữ một đứa trẻ sơ sinh trên tay. (Hình 153)Sinh vật vừa được tạo ra và thường được nhắc tới như là “Con người hình mẫu” hay “khuôn mẫu” trong các ghi chép của người Mesopotamia này rõ ràng là một sinh vật chuẩn mực và phù hợp, bởi sau đó, các vị thần đã yêu cầu tiếp tục tạo ra các bản sao của nó. Chi tiết dường như không mấy quan trọng này không chỉ làm sáng tỏ quy trình “tạo ra” con người mà còn lý giải cho những thông tin trái ngược trong Kinh thánh.Chương đầu tiên của Sáng Thế Ký viết rằng:Elohim sáng tạo con người theo hình ảnh mình,Ngài sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,Ngài sáng tạo con người có nam có nữ.Còn Chương 5, hay còn được gọi là Sách Phả hệ của Adam, lại viết rằng:Ngày Elohim tạo ra Adam,giống hệt Elohim.Ngài tạo con người có nam có nữ,Ngài ban phước lành cho họvà đặt tên cho họ là “Adam”.Cùng một lúc, chúng ta thấy Thiên Chúa tạo ra một sinh vật duy nhất là “Adam” theo khuôn mẫu của ngài và rồi lại thấy một nam một nữ được tạo ra đồng thời. Nghịch lý này được khắc sâu hơn trong chương 2 của cuốn Sáng Thế Ký, với nội dung cụ thể rằng Adam chỉ có một mình trong một thời gian cho đến khi Thiên Chúa khiến chàng ngủ thiếp đi và tạo ra đàn bà từ xương sườn của chàng.Nghịch lý vốn làm đau đầu các chuyên gia và các nhà thần học này sẽ được xóa bỏ khi chúng ta nhận ra rằng Kinh thánh là một bản rút gọn từ các tư liệu có nguồn gốc Sumer. Những nguồn tư liệu này cho ta biết rằng sau khi tìm cách tạo ra một Nhân công Nguyên thủy bằng cách “pha trộn” khỉ hình người với các loài động vật khác, thì các vị thần rút ra kết luận rằng cách pha trộn giữa khỉ hình người với chính người Nefilim có hiệu quả nhất. Sau vài nỗ lực bất thành, một “mẫu hình” – Adapa/Adam – được tạo ra. Ban đầu chỉ có duy nhất một Adam.Sau khi Adapa/Adam chứng tỏ được mình là sinh vật phù hợp, chàng được sử dụng làm “mẫu hình” di truyền hay “khuôn mẫu” để tạo ra các bản sao khác và các bản sao này không đơn thuần chỉ là đàn ông mà có cả đàn bà. Như chúng tôi đã chỉ ra, “chiếc xương sườn” tạo ra Đàn bà trong Kinh thánh chính là một phép chơi chữ từ chữ TI (“xương sườn” và “sự sống”) trong tiếng Sumer – chứng tỏ Eve được tạo ra từ “tinh chất sự sống” của Adam.Các ghi chép của người Mesopotamia kể cho chúng ta nghe về trường hợp “mắt thấy tai nghe” quy trình sản xuất các bản sao của Adam.Người ta tuân thủ theo các chỉ dẫn của Enki. Trong Ngôi nhà Shimti – nơi hơi thở của sự sống được “thổi vào” – Enki, Nữ thần Mẹ và 14 nữ thần sinh sản khác tập hợp lại. Họ lấy ra “tinh chất” của một vị thần, chuẩn bị “bồn tắm tẩy rửa”. “Ea cùng với bà rửa sạch đất sét; ngài không ngừng xướng lên câu thần chú”.Ea, vị thần tẩy rửa cho Napishtu cất tiếng.Ngồi trước mặt bà, ngài chỉ dẫn cho bà.Sau khi xướng lên câu thần chú,Bà đặt tay mình lên đống đất sét.Giờ thì chúng tôi đã được bật mí về quy trình sản xuất Con người hàng loạt khá chi tiết này. Với sự tham gia của 14 vị nữ thần sinh sản,Ninti véo ra 14 mẩu đất sét;Bà đặt 7 mẩu phía bên phải,7 mẩu bà đặt phía bên trái.Ở chính giữa bà đặt cái nôi.…lông tóc bà……cái kéo cắt cuống rốn.Rõ ràng là những vị nữ thần sinh sản này được chia thành 2 nhóm. “2 nhóm, mỗi nhóm 7 nữ thần thông thái và uyên bác có mặt”, bản ghi chép này tiếp tục giải thích. Nữ thần Mẹ đặt vào trong tử cung của họ lần lượt những phần “đất sét đã được nhào trộn”. Có thể đã có một cuộc phẫu thuật bởi lông tóc được cạo đi và dụng cụ phẫu thuật là chiếc kéo đã sẵn sàng. Giờ họ không phải làm gì ngoài việc chờ đợi:Các nữ thần sinh sản được giữ lại gần nhau.Ninti ngồi đếm các tháng trôi qua.Tháng thứ mười định mệnh đang đến gần;Tháng thứ mười cuối cùng cũng đã đến;Thời kỳ mở tử cung đã trôi qua.Mặt bà sáng bừng:Bà trùm đầu, thực hiện công việc bà đỡ.Bà vòng tay quanh bụng, miệng ban lời cầu phúc.Bà tạo hình hài; nằm trong nôi là sự sống.Dường như hiện tượng sinh muộn khiến quá trình tạo ra Con người trở nên kịch tính hơn. “Hỗn hợp” giữa “đất sét” và “máu” được sử dụng để thụ thai cho 14 vị nữ thần sinh sản. Nhưng 9 tháng trôi qua và tháng thứ mười đã tới. “Thời kỳ mở tử cung đã trôi qua.” Hiểu được tình thế lúc đó, Nữ thần Mẹ “thực hiện công việc bà đỡ” – thực hiện phẫu thuật để đưa em bé ra, điều này được thể hiện rõ ràng hơn trong một bản ghi chép tương tự (tuy có một số phần bị mất):Ninti…đếm số tháng…Đếm đến tháng thứ mười định mệnh;Bà Đỡ đã đến.Với cái… bà mở tử cung ra.Mặt bà rạng ngời hân hoan.Đầu của bà được trùm lại;… thực hiện một cuộc mổ mở;lấy ra … từ tử cung.Ngập tràn niềm hân hoan, vị Nữ thần Mẹ này kêu lên.“Ta đã tạo ra!Bàn tay ta đã làm được!”