ốn giờ rưỡi chiều ngày hôm sau, Trưởng phòng Tư và mọi người đếu tiễn chúng tôi lên chuyến tàu nhanh số hiệu 1171 xuất phát từ Cáp Nhĩ Tân, trước khi đi ông còn dặn dò chúng tôi kĩ càng, phải hết sức cẩn thận, nhất định không được để xảy ra sai sót không đáng có.
Tàu vừa chuyển bánh không lâu, ngoài trời cũng tắt nắng và bắt đầu tối dần, mọi người trên tàu lũ lượt kéo nhau đi ăn cơm tối, tôi cũng có cảm giác hơi đói, nên quyết định đứng dậy đeo balô đi mua đồ ăn. Đúng lúc đó, từ đầu đằng kia có một người đàn ông khoảng hơn năm mươi tuổi, mặc một chiếc áo khoác lông vũ màu xám đang tiến tới phía chúng tôi, trên tay cầm một bát mì tôm đang bốc khói nghi ngút.
Người đàn ông trọc đầu bước tới trước mặt chúng tôi, liền dừng bước, gương đôi mắt nhìn chằm chằm vào Lão Ngũ, miệng hơi run run, thái độ rõ ràng là đang rất hốt hoảng. Dừng lại một lúc, ông ta đặt vội bát mì lên bàn, đưa bàn tay trái ra trước mặt, rồi chụm ba ngón tay trỏ, ngón tay giữa và ngón áp út của bàn tay phải lại, sau đó gõ vào lòng bàn tay trái ba cái, tiếp tục úp lòng tay trái xuống rồi làm tương tự như vừa xong.
Tôi hết sức ngạc nhiên quan sát người đàn ông này, không hiểu nó có nghĩa là gì. Lão Ngũ ngồi phịch xuống ghế, nở nụ cười khoái chí, đồng thời lão cũng làm những động tác giống như vậy, chỉ có điều là năm ngón tay phải gõ vào lòng và mu bàn tay trái năm cái.
Tôi ngẩn người thắc mắc không hiểu hai người này đang làm cái trò gì. Nhưng chắc chắn một điều là họ có quen biết nhau. Tôi đang định lên tiếng hỏi thì chị Giai Tuệ đã dùng ánh mắt ra hiệu không được lên tiếng.
Người đàn ông trọc đầu hơi khom người tiến về phía trước, khẽ cất tiếng:
-
Cách giới tử song sỗ nhỉ lãnh tương, phí nhẫm khởi gia tử tái liêu.Nghe thấy ông ta nói vậy, tôi cũng đã kịp thời phản ứng lại. Ngày trước ông nội cũng đã dạy tôi ngôn ngữ của dân xã hội đen trong giới giang hồ, đại ý người đàn ông đó nói rằng: “Hai đứa con gái đứng cạnh là người lạ, tìm một chỗ khác để nói chuyện”. Từ
sỗ nhi là cách gọi rất coi thường dành cho phái nữ, còn phái nam gọi là
ngưu nhi.Lão Ngũ lắc lắc đầu nói:
-
Đồng trường nhất thế, bả thủ bối cân miêu tử. - Có nghĩa là, chúng tôi đi cùng nhau, toàn là đệ tử ruột.
Người đàn ông ngớ ra một lúc, rồi mới chắp tay trước ngực chào tôi và chị Giai Tuệ, quay sang hạ giọng nói với Lão Ngũ:
- Lục Tam diện kiến Lão Ngũ, lão… lão đã ra từ khi nào ạ?
Lão Ngũ e hèm một tiếng, rồi nói thầm thì vào tai người đàn ông điều gì đó. Người kia gật gật đầu, rồi cũng tiến sát tới thì thầm to nhỏ vào tai Lão Ngũ.
Lão Ngũ chăm chú lắng nghe, hai con ngươi cũng đảo liên tục, như đang suy tính điều gì, sau đó lão mới khẽ gật đầu.
Tôi ngó nghiêng sang hai bên, ngồi ở phía đối diện là một người đàn ông to béo, chừng hơn ba mươi tuổi, tôi để ý từ lúc chúng tôi bước lên tàu, anh ta gục mặt lên bàn ngủ say sưa, trên cổ đeo một chiếc dây chuyền vàng nặng trịch. Ngồi bên cạnh là một thanh niên trẻ tuổi, đang cúi đầu say mê đọc một cuốn sách tên là
Cố sự hội.Lục Lão Tam khẽ gật đầu, rồi từ từ đứng thẳng lên, nhẹ nhàng cởi chiếc áo khoác bên ngoài ra, vòng qua đầu tên béo đang ngủ. Sau đó, ông ta dùng chiếc áo khoác che phía bên ngoài, vừa nhìn về phía Lão Ngũ vừa đưa cánh tay ra, thoáng chốc bàn tay đã cầm gọn chiếc dây chuyền vàng. Tôi quay sang nhìn lại tên béo vẫn đang ngủ ngon lành, nhưng trên cổ đã trống trơn.
Lão Ngũ khẽ mỉm cười, gật gật đầu và nói:
- Tay nghề khá lắm, hay đấy, hay đấy! - Nói rồi, lão chỉ bát mì tôm trên mặt bàn.
Người đàn ông trọc đầu liếc sang, tay chân vặn vẹo vài cái rồi mặc lại chiếc áo lên người. Lần này các động tác của ông lại rất chậm, chiếc áo vòng qua mặt bàn, dừng lại năm sáu giây rồi mới từ từ khoác lên người.
Tôi như bị thôi miên nhìn theo những động tác của người đàn ông này, bỗng nghe chị Giai Tuệ hắng giọng ho khẽ vài tiếng, rồi nhìn thẳng vào bát mì trên bàn. Tôi hoảng hốt phát hiện ra, lớp giấy bọc trên miệng bát mì đã biến mất, sợi mì và nước mì cũng không cánh mà bay, chỉ còn bốc lên làn khói mỏng. Tôi há hốc miệng, cảm thấy mọi việc đang diễn ra một cách hết sức thần kì, mà mắt thường không thể nhìn thấy, bát mì đang bốc khói nghi ngút như thế, tại sao lại có thể biến mất dễ dàng như vậy? Thế nhưng tôi cũng dần dần nhận ra, nhìn điệu bộ của hai người, xem ra Lão Ngũ đang thử bản lĩnh của người đàn ông kia.
Lão Ngũ vừa vuốt chỏm râu vừa lẩm bẩm, “hay đấy, hay đấy”. Rồi lão nắm lấy bàn tay phải của người đàn ông kia, dùng bốn đầu ngón tay của mình gõ lên lòng và mu bàn tay người đó bốn lần, sau đó vẫy vẫy tay, nói:
- Đi đi!
Người đàn ông có vẻ rất cảm động, ôm chặt lấy Lão Ngũ, giọng run run:
- Cảm… cảm ơn Ngũ gia, Lục Tam tôi… Lục Tứ tôi sẽ chờ Ngũ gia tại động Lão Mẫu. - Nói rồi, ông quay sang nhìn tôi và chị Giai Tuệ, khẽ gật đầu chào, rồi mới cầm bát mì trống không đi qua.
Thấy người đàn ông đầu trọc đã đi xa, tôi lập tức hỏi Lão Ngũ, vừa xong chuyện gì vừa xảy ra, người đó là ai? Lão Ngũ nói nhỏ với tôi, Lục Lão Tam chính là trưởng môn Đạo phái tại Hắc Long Giang. Lục Lão Tam đã đạt tới trình độ cao và cũng tới Lư sơn Luận Đạo. Những người trong phái Đạo môn khi gặp nhau thường sẽ chào nhau bằng một nghi thức gọi là Chỉ khấu, đưa số ngón tay đúng với cấp bậc đang có, rồi gõ lên lòng và mu bàn tay để thay cho lời chào. Đã hai mươi năm không gặp mà bản lĩnh của tên đệ này đã tiến bộ vượt bậc, nên tự ta đã tăng cho hắn một bậc.
Nghe thấy vậy, tôi vội vàng hỏi:
- Lão Ngũ, vậy là ông ta chỉ thấp hơn lão một bậc?
Lão Ngũ phì một tiếng, xoa xoa chiếc cằm rồi bĩu môi nói:
- Mẹ kiếp, một bậc này cũng đủ cho hắn luyện đến khi chết.
Chúng tôi vẫn đang thì thầm to nhỏ với nhau, thì gã béo đối diện bỗng nhiên la toáng rồi nhảy cẫng lên, lộn chiếc mũ áo ra trước để đổ đống mì đang nóng hôi hổi xuống đấy, chửi ầm ĩ:
- Mẹ kiếp, thằng nào mất dạy thế… - Khiến tất cả mọi người trên khoang tài đều cười khoái chí.
Tôi và chị Giai Tuệ trao nhau một ánh mắt đầy ngụ ý, tự cảm thấy Lục Lão Tứ quả là một người lợi hại, bát mì nóng như thế lại có thể đổ vào mũ áo của gã béo kia mà không ai hay biết, đây có lẽ chính là thuật
Thiết lưu mà Lão Ngũ đã từng biểu diễn cho chúng tôi xem.
Tàu chạy được hơn hai tiếng, khoảng sáu giờ năm mươi phút chúng tôi đã tới huyện Câu Bang Tử thuộc thành phố Bắc Trấn, ngoài trời đã tối om.
Vừa bước ra khỏi nhà ga, cả một đám người ùn ùn kéo tới mời chào đi taxi và cho thuê nhà nghỉ. Một mụ đàn bà khoảng tầm trung niên mắt xanh mỏ đỏ trông như yêu tinh vội lao tới kéo mạnh tay áo Lão Ngũ và uốn éo mời chào:
- Sư phụ, sư phụ, nghỉ nhà em nhé, nhà em có bảo kiếm.
Lão Ngũ liền trừng mắt vỗ lên thắt lưng, mặt lạnh tanh đáp:
- Mẹ kiếp, bảo kiếm ta cũng có, nhà cô có bảo đao không?
Thấy thái độ dữ tợn của Lão Ngũ, bà ta liền phụng phịu, ngúng nguẩy bỏ đi, rồi tiến tới mời chào người đàn ông khác.
Tôi ngơ ngác hỏi chị Giai Tuệ:
- Ở đây bán bảo kiếm á, hay chúng ta mua một cái về làm kỉ niệm?
Chị Giai Tuệ cười khúc khích, ghé sát vào tai tôi nói nhỏ vài câu. Mặt tôi bỗng đỏ bừng bừng, thì ra đó là bảo kiện
[1]! Mặc dù tôi không hiểu lắm, nhưng chắc chắn nó mang một ý nghĩa không hay ho cho lắm.
[1] Dịch vụ gái gọi.Chúng tôi tìm một nhà nghỉ để nghỉ tạm một đêm. Sau khi ăn cơm tối xong, mọi người tập trung tại một phòng để nói chuyện. Lão Ngũ khoanh chân trên giường, xoa xoa cằm rồi không ngừng lắc đầu thở dài. Tôi thấy thắc mắc liền hỏi lão có chuyện gì.
Lão thở dài thườn thượt, nói về chặng đường tu luyện để đạt được cấp năm, giờ muốn tiến thêm một bậc nữa, nhưng sẽ rất mất sức, hai mươi năm trời khổ luyện mà cũng không tăng được bậc nào, lại còn mất thêm mười mấy năm ngồi trong tù.
Tôi thấy có chút tò mò, liền hỏi lão:
- Lão Ngũ, lão ngồi tù không phải là để tu luyện đấy chứ?
Lão Ngũ liếc sang tôi, cười khoái chí và chỉ khẽ gật đầu mà không nói gì. Tôi và chị Giai Tuệ quay sang nhìn nhau, không hiểu vì sao Lão Ngũ lại phải làm như thế.
Một lúc sau, Lão Ngũ mới thao thao bất tuyệt kể cho chúng tôi:
- Tên Lục Tứ gặp lúc chiều trên tàu, cũng được coi là một tên có chí, nhưng vẫn chẳng là gì… mẹ kiếp, ý chí của ta còn hừng hực hơn thế…
Nói đến đây, đôi mắt lão trở nên sáng quắc, rồi nhảy tót từ trên giường xuống đất, buông hai chân trần đứng dưới sàn nhà rồi nói với tôi:
- Nhóc con, lúc còn ở dưới lòng Cố Cung ta đã nghĩ rằng, ta không thể để Đạo môn thất truyền ngay dưới tay ta được, hay là… Lão Ngũ này nhận mi làm đệ tử. Mi thấy sao?
Thấy ánh mắt ngập tràn niềm hi vọng của lão, lúc đó thực sự tôi cũng thấy xiêu lòng và phấn khích vô cùng, nên đã lập tức đồng ý trả lời:
- Vâng ạ! - Nói rồi, tôi liền cúi gập người bái Lão Ngũ làm sư phụ.
Lão Ngũ đỡ tôi đứng dậy, rồi cười tít, hai mắt như nhắm tịt cả lại, lão xoa đầu tôi, nói:
- Tốt lắm, mi yên tâm, ta nhất định sẽ truyền lại cho mi tất cả những kinh nghiệm và khả năng của mình. Trước tiên là dạy cho mi ba chiêu.
Thì ra trước khi được nhận làm đồ đệ của Đạo môn, sư phụ sẽ đưa ra ba thử thách, và cũng là ba loại Bả Thế, để kiểm tra khả năng của đồ đệ, nếu vượt qua được thì người đó mới được nhận vào. Tôi vội hỏi lão đó là ba chiêu gì, Lão Ngũ cười ha hả rồi chỉ ra bệ cửa.
Tôi quay đầu nhìn sang, trên cửa sổ bày một chậu hoa thủy tiên, đang nở hơn chục bông hoa. Lão Ngũ xỏ dép rồi tiến tới ngắt một bông, sau đó quay người lại, ánh mắt như ngầm nói rằng hãy quan sát thật kỹ.
Tay trái lão cầm cuống hoa, bên tay phải bốn ngón duỗi thẳng, nhẹ nhàng vuốt qua các cánh hoa, rồi quay trở lại, một cánh hoa lập tức biến mất. Lão tiếp tục thực hiện thêm sáu lần, thì sáu cánh hoa cũng lần lượt không cánh mà bay, chỉ còn sót lại phần nhụy hoa.
Lão Ngũ ngửa tay lên, trên đầu ngón tay dính sáu cánh hoa, lại còn xếp thành một hình tròn trịa.
Tôi và chị Giai Tuệ cùng đồng thanh thốt lên:
- Bả Thế của Lão Ngũ thật tuyệt vời.
Lão Ngũ cười khoái chí hỏi tôi:
- Nhóc con, mi đoán xem đây là Bả Thế gì?
Tôi nghĩ một lúc, vội lên tiếng:
- Là hái hoa?
Câu trả lời của tôi khiến chị Giai Tuệ cười nắc nẻ, Lão Ngũ thì tỏ vẻ tức tối, sầm mặt xuống.
- Con nhóc chết tiệt này, làm mất mặt Lão Ngũ này quá, từng này tuổi rồi còn hoa hoét gì… - Dừng lại một lúc, lão mới nói. - Đây là chiêu Niêm hoa, mục đích là thử khả năng của các đầu ngón tay. Mẹ kiếp, đạo vật không đạo hương… tạm thời thế, giờ cho các ngươi xem chiêu thứ hai.
Lão Ngũ nhờ chị Giai Tuệ rút từ chiếc ga giường ra hơn chục sợi vải có màu sắc khác nhau, rồi buộc thành một túm. Tay trái kẹp một đầu túm sợi vải, chỉ để lộ ra một đoạn rất ngắn, tay phải đập mạnh xuống, sau đó lại nhanh chóng nhấc lên, một sợi vải màu xanh cũng bị rút theo, giống như dính liền với lòng bàn tay.
Bàn tay phải của lão thoăn thoắt, vỗ xuống liên hồi… bộp bộp bộp… mỗi lần dừng lại là một sợi vải theo đó bị rút ra, chỉ một thoáng sau, tất cả chỗ sợi vải đều lần lượt bị rút ra khỏi lòng bàn tay trái.
Lão ngửa bàn tay phải lên, tôi vươn cổ ngó tới, thì ra hơn chục sợi vải đó kẹp ở giữa lòng bàn tay, trong một đường rãnh hình vòng cung đều tăm tắp, đang bay phấp phơ, mà không một sợi rơi xuống. Lão nói với chúng tôi, đây chính là chiêu thứ hai, gọi là Đề tơ dùng để thử khả năng của lòng bàn tay.
Tôi tò mò sờ vào lòng bàn tay lão, cảm giác các đường chỉ tay sâu hơn của người bình thường, giống như bị dao cứa tạo thành đường vậy, hơn nữa chúng còn được phân thành nhiều tầng nhánh nông sâu chi chít, giống như một màng nhện thu nhỏ vậy.
Lão Ngũ nắm chặt bàn tay lại rồi nói:
- Hai chiêu vừa rồi mới chỉ là cơ bản, đến chiêu thứ ba khó hơn một chút. - Lão bảo tôi tháo chiếc nhẫn trên ngón tay ra, ngắm nghía kỹ càng, rồi cầm một tờ báo đang đặt trên bàn uống nước lên, xé thành nhiều mảnh, sau đó đặt chiếc nhẫn vào bên trong, vo thành một nắm ném vào trong chiếc gạt tàn, rồi đốt thành tro.
Trong lúc tôi vẫn chưa hiểu Lão Ngũ định làm trò gì, thì lão từ từ đưa bàn tay phải ra, úp lòng bàn tay lên chiếc gạt tàn rồi khẽ lắc nhẹ vài cái, sau đó mới từ từ kéo tay lại. Chiếc gạt tàn khẽ rung lên rồi xuất hiện vài vết nứt nhỏ, nhưng không tách ra.
Tôi đang định hỏi lại, thì Lão Ngũ đã cười hề hề, rồi lật tay lên, chiếc nhẫn đã nằm gọn trong lòng bàn tay lão. Lòng bàn tay và cả chiếc nhẫn đều không bị dính tàn tro, mà vẫn sạch sẽ như chưa hề động vào đó.
Tôi ngỡ ngàng đến mức phải thốt lên tán thưởng, vội vàng lao tới cầm lấy chiếc nhẫn, cảm thấy vẫn còn hơi nóng tay, chắc chắn là vừa được lôi từ trong lửa ra.
Lão Ngũ tỏ vẻ đắc ý, xoa cằm và nói:
- Hai nhóc, đã nhìn thấy chưa, đây chính là chiêu thứ ba gọi là Xuyên khôi.
Tính cách Lão Ngũ đã nói là phải làm luôn, nên sau khi thực hiện xong ba chiêu, lão lập tức dạy và giải thích cho tôi thật tỉ mỉ về ba chiêu vừa xong. Tôi loay hoay mãi mà vẫn không làm được cảm thấy mình thật chậm chạp và vô tích sự. Nhưng lão lại tỏ ra hứng chí và thích thú, nói rằng bây giờ không thực hiện được là điều bình thường, chỉ cần nắm được vấn đề cơ bản và thực hiện đúng cách thôi đã là tốt rồi, sau này từ từ tập luyện chắc chắn sẽ lợi hại không kém.
Cả đêm đó không ai nói với ai câu nào, sáng sớm ngày hôm sau, chúng tôi dậy từ rất sớm, thuê một chiếc xe vào trong trung tâm Bắc Trấn. Đây là một thị trấn bé xíu nghèo nàn chẳng có gì đáng xem, chị Giai Tuệ hỏi đường tới phòng cảnh sát Bắc Trấn, rồi dẫn chúng tôi tới gặp trưởng phòng ở đấy.
Vị trưởng phòng đó họ Lưu, do đã nhận được chỉ thị của cấp trên, hơn nữa tôi và chị Giai Tuệ dù sao cũng là cảnh sát hình sự trên tỉnh, cũng coi như là cấp trên, nên thái độ của anh ta rất nhiệt tình, lập tức điều quân thu xếp cho chúng tôi ở một khách sạn tốt nhất và hỏi chúng tôi về những kế hoạch trong những ngày tới.
Vừa biết chúng tôi sẽ tới động Lão Mẫu, anh ta không có ý kiến gì, mà chỉ với chúng tôi, hàng năm trước và sau ngày mười chín tháng Hai âm lịch, có rất nhiều du khách tới đây dâng hương và bái đức Thánh mẫu, trung bình khoảng mười nghìn lượt khách mỗi năm. Hôm nay đã là ngày mười tám, cả phòng cảnh sát đã tập trung lực lượng, để đảm bảo ngày hội diễn ra trong trật tự và an toàn. Đây cũng được coi là một thắng cảnh thu hút đông người đến đây, nên chúng tôi phải thay đồ cảnh sát, để tránh sự nghi ngờ của những người tham dự lễ hội.
Sau khi bàn bạc ổn thỏa thì đã đến giữa trưa, mọi người cùng nhau đi ăn cơm, Trưởng phòng Lưu mời chúng tôi tới khách sạn dùng bữa, còn có thêm một vị phó phòng đi cùng.
Sau đó, chúng tôi về khách sạn nghỉ ngơi, ngủ trưa xong ngoài trời đã tối, ăn tối xong xuôi, chúng tôi đều mang theo vật dụng cần thiết theo mình, rồi nhờ vị phó phòng lái xe đưa chúng tôi tới miếu Bắc Trấn nằm ở phía tây. Để người đó đứng đợi ở ngoài, cả ba chúng tôi cùng nhau đi vào miếu.
Miếu Bắc Trấn là một ngôi miếu thờ thần linh khá linh thiêng, phía sau miếu dựa sát vào núi, miếu có diện tích rất rộng lớn, trước mặt là những bậc thang bằng đá chạy từ hướng Nam cao dần tới hướng Bắc, khí trời đang rất trong lành thoáng đãng, giờ lại bắt đầu có tuyết rơi, ánh trăng cũng đang lạnh lùng chiếu sáng khắp mọi nơi, trừ những bông tuyết rơi ra khung cảnh tĩnh mịch một cách bất thường, khiến cho tôi bất chợt có cảm giác thê lương vô cùng.
Mặt trước của ngôi miếu là một khoảng không rất rộng, ở giữa là cổng đá sáu cột màu trắng, phía sau là tượng bốn con vật bằng đá với hình hài rất kỳ lạ, dưới ánh trăng chúng im lìm in bóng xuống mặt đất. Bốn con vật bằng đá rất lớn, đang há miệng giương móng vuốt, bề mặt đá đã điểm nhiều vết rong rêu và nứt nẻ, mỗi con mang một trạng thái khác nhau, nhưng đều rất hung dữ. Tôi thấy chúng có vẻ giống sư tử nhưng nhìn kỹ lại trông giống những con chó khổng lồ.
Lão Ngũ nhón chân bước tới, ngó nghiêng nhìn ra bốn phía xem xét tình hình, khi đã chắc chắn xung quanh không có người, lão mới chỉ tay vào bốn bức tượng đá và khẽ nói:
- Hai đứa biết không, bốn con vật này vốn tượng trưng cho Hỉ Nộ Ai Lạc, chúng là bốn con sư tử đá. Dựa vào những điều ghi trong cuốn
Giải kiện tập lục thì chúng ta phải tìm cho ra chiếc chìa khóa mở động Lão Mẫu giấu bên trong miệng các con sư tử này.
Tôi khẽ gật đầu, rồi lập tức tiến tới trước một bức tượng để quan sát kỹ hơn. Tôi phát hiện thấy dưới chân con sư tử là một phiến đá hình chữ nhật, một mặt được nối liền một khối với con sư tử, mặt dưới lại liền với mặt đất, có thể là từ lúc xây dựng, người ta đã cố tình để lại bốn tảng đá lớn, rồi mới từ từ khắc chúng. Thế nhưng công trình này có vẻ cũng rất đồ sộ và công phu khi dành hẳn một khoảng rộng lớn như vậy chỉ để bày bốn con sư tử đá.
Sau khi xem xét phía ngoài không có gì đáng ngờ, chị Giai Tuệ mới ngồi xuống để tôi trèo lên vai, bước lên bục đá, tay bám chặt vào đầu sư tử. Áp sát người vào bức tượng, tôi từ từ thò vào bên trong miệng con sư tử để cố gắng tìm ra chiếc chìa khóa. Tôi thấy phía bên trong miệng không hề gồ ghề như tôi nghĩ, mà hết sức nhẵn nhụi, chắc chắn là nó đã được mài rất kĩ.
Cho tới khi cả cánh tay đã thọc sâu vào bên trong, đầu ngón tay vừa chạm tới vị trí cuống họng, thì tôi chợt phát hiện ra phía trong cuống họng có một vòng khuyên to bằng miệng bát, qua đánh giá ban đầu, tôi nghĩ nó làm bằng kim loại. Thử kéo vòng tròn đó về phía mình, nhưng không có phản ứng gì. Tôi nhảy xuống, tiếp tục đi tới ba con sư tử còn lại để kiểm tra lại, thì ra bên trong họng của chúng đều có cấu tạo giống y hệt nhau, hơn nữa đây có thể chính là bí mật.
Tôi nói lại tình hình cho Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, Lão Ngũ liền vỗ vai tôi nói rằng:
- Vậy thì không mau giải quyết nó đi, còn lề mề gì nữa. Luận Đạo cũng sắp diễn ra rồi, không nhanh tay lên thì không còn lúc nào nữa đâu.
Tôi không dám chần chừ thêm một phút giây nào nữa, lập tức chọn một con sư tử đá, lấy ra một chiếc kim móc từ trong túi, cẩn thận cào vào trong miệng nó. Thế nhưng cho dù tôi có dùng cách nào đi chăng nữa, thì trong miệng sư tử đá cũng không có một chút động tĩnh gì, chiếc vòng sắt kia như được gắn cố định vào trong họng. Tôi bắt đầu cuống lên, chuyển sang ba con còn lại thử xem sao, kết quả vẫn không có gì thay đổi.
Thời gian cứ thế mải miết trôi đi, chẳng mấy chốc đã hết một tiếng đồng hồ loay hoay với bốn tượng sư tử, mà tôi vẫn không tìm ra manh mối nào. Lão Ngũ cũng thật là phiền phức, liên tục quay sang chị Giai Tuệ hỏi giờ, rồi quay lại giục tôi, khiến tôi càng thêm rối trí, mồ hôi vã ra đầm đìa.
Thấy bốn bức tượng sư tử vẫn đứng yên bất động, tôi cố gắng nghĩ lại thật tỉ mỉ những thao tác vừa xong, xem rốt cuộc mình đã thực hiện sai ở bước nào? Những bông tuyết rơi mỗi lúc một dày hơn, chúng bay cả vào trong cổ áo tôi, lập tức tan thành nước lạnh toát, tôi cố gượng để không rét run lên cầm cập. Lập tức dựng cổ áo lên, rồi vô thức ngẩng cổ nhìn lên.
Bầu trời vẫn một màu xám xịt, dưới ánh trăng sáng những bông tuyết rơi dày như những đường kẻ sọc từ trên trời xuống, cảnh tượng rất đẹp và nên thơ. Bỗng nhiên, tôi sực nhớ ra, liền cúi xuống nhìn về với bốn bức tượng sư tử đá. Tôi thấy chúng đều đang ngẩng mặt lên trời, hai hàm há rộng tạo thành một góc chéo, hướng thẳng lên đỉnh cổng đá.
Tôi bước tới đứng dưới cổng đá, hơi kiễng chân nhìn lên, đó là một phiến đá hình chữ nhật, ở giữa khảm một vật hình cầu tròn, ánh trăng giống như rọi qua một lớp lưới, rõ ràng đó là một khối rỗng.
Tôi liền gọi Lão Ngũ tới, lão cũng ngẩng đầu quan sát kỹ lưỡng, sau đó tự gõ lên đầu mình một cái rồi nói:
- Cổ ngữ nói
Long thốn cầu, sư thưởng cầu. Bên trong quả cầu đó chắc chắn cất giữ điều gì đó, hay đấy, hay đấy!
Nói rồi, Lão Ngũ lùi ra sau vài bước, rồi lao lên phía trước, một chân đạp thật mạnh lên cột đá lấy đà rồi lập tức búng người nhảy lên cao, lão bám vào giữa lưng chừng cột đá rồi leo dần lên trên giống như một con khỉ đang leo cây.
Lão Ngũ đu lên xà ngang, đưa một tay ra sờ lên quả cầu tròn, rồi lập tức hét toáng lên:
- Lan Lan, đến đây xem xem, có cái này rất hay! - Vừa nói hết câu, lão đã quắp hai chân vào xà ngang, đu người và dốc ngược hai tay xuống, chị Giai Tuệ đứng dưới để làm điểm tì cho tôi trèo lên, rồi Lão Ngũ cầm lấy hai tay tôi, nhấc bổng cả người tôi lên.
Lão Ngũ ôm thật chặt thắt lưng tôi từ đằng sau, để tôi có thể giữ yên vị trí. Tôi rướn cổ lên cao, mở thật to đôi mắt để nhìn cho rõ hơn. Tôi phát hiện ra quả cầu rỗng đó làm bằng đá, những đường hoa văn bọc bên ngoài hết sức tinh tế, tổng thể to gần bằng quả bóng chuyền, bên trong còn lồng thêm hai quả cầu tròn nhỏ hơn. Tôi lưỡng lự một lúc, rồi từ từ chọc đầu ngón tay qua khe hở, khoắng một vòng, hai quả cầu nhỏ bên trong liên tục chuyển động va vào nhau, phát ra những tiếng lách cách. Ánh trăng từ bên ngoài chiếu vào, sáng long lanh như hai viên ngọc.
Trong đầu tôi liên tưởng tới hình ảnh cả bốn con sư tử cùng hướng lên trên, hơn nữa ba quả cầu bên trên lồng vào nhau tạo thành một tổ hợp cầu mẫu tử, vậy là muốn biểu thị ý nghĩa gì, lẽ nào…
Tôi vẫn đang miên man trong dòng suy nghĩ, thì bỗng nhiên nghe giọng chị Giai Tuệ từ phía dưới vọng lên:
- Lan Lan, sao rồi?
Tôi vội vàng cúi xuống, đang định trả lời chị thì lập tức lặng người, phát hiện ra phía trước ngực chiếc áo da của chị Giai Tuệ có in một hình tròn màu bạc với nhiều họa tiết rất lạ mắt.
Tôi vội thốt lên:
- Chị Giai Tuệ, trên… trên… áo chị… có cái gì ý.
Chị Giai Tuệ lập tức tiến lên trước vài bước, nói:
- Cái gì? - Đúng lúc ấy, hình ảnh trên áo chị bỗng dưng biến mất.
Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cùng hỏi lại tôi đã nhìn thấy cái gì. Bình tĩnh suy xét, tôi bỗng nhớ lại hình quả cầu to bọc hai quả cầu nhỏ phía trên đầu, liền bảo chị Giai Tuệ lùi vài bước ra sau, quay lại vị trí ban nãy.
Chị vừa đặt chân vào vị trí vừa xong, hình tròn màu bạc lại lập tức hiện ra, tôi quan sát kỹ hơn, thì ra ánh trăng xuyên qua quả cầu lớn sẽ bị cắt thành hình hai đầu sư tử nhỏ in xuống dưới.
Tôi nhìn chằm chằm, trong đầu bỗng dưng nhớ lại lời ông nội đã nói, đây là loại khóa
Truy quang thấu ảnh vẫn được nhắc đến trong truyền thuyết. Loại khóa này thường được thiết kế ở những vùng hoang dã với không gian rộng lớn, mượn ánh sáng phản quang trong tự nhiên, để tạo thành một đường dẫn duy nhất, phía trước mặt là lớp tuyết trắng dày, nhưng nếu như chị Giai Tuệ không vô tình đứng đúng vào vị trí đó, cũng như không mặc chiếc áo da màu đen dễ bắt sáng thì tôi cũng không thể phát hiện ra điều đó.
Khoá Trung quang thấu ảnh
Khi nghe tôi nói xong, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đều hào hứng vô cùng, bắt tôi phải giải thích lại tỉ mỉ hơn. Tôi nói với hai người rằng, quả cầu mẫu tử bên trên tạo thành một tổ hợp ba quả cầu lồng vào nhau, mỗi một quả cầu đều có thể xoay chuyển một trăm tám mươi độ, dựa vào bí quyết khóa vòng, thì đây chính là chiếc khóa
Nguyệt ba vòng, thêm bốn chiếc vòng khác nằm bên trong miệng bốn con sư tử, gọi là khóa
Phồn tinh bốn vòng, tập hợp của ba và bốn, vừa khớp với thuật Thất hoàn sao sơn xuyên. Chẳng trách trong cuốn
Giải kiện tập lục có ghi chú rằng, người mở khóa nhất định phải tới miếu Bắc Trấn vào buổi tối có trăng, tìm chìa khóa ở miệng bốn tượng con sư tử đặt trước cổng.
Chị Giai Tuệ đã hiểu ra vấn đề, gật đầu lia lịa và lập tức cởi chiếc áo khoác đang mặc trên người, rồi phủi thật sạch lớp tuyết phủ trên mặt đất, để lộ ra một mặt đá đen ướt nhẹp, quả nhiên bóng hai con sư tử màu trắng bạc đang vờn nhau lập tức in hình xuống mặt đá.
Vội bảo Lão Ngũ đưa mình xuống, tôi nhanh chân bước tới trước bóng hai con sư tử, trong khi đó vẫn ra hiệu cho Lão Ngũ khẽ chuyển động hai quả cầu nhỏ phía trên. Ánh trăng chiếu qua những góc độ khác nhau, khiến cho bóng hai con sư tử bên dưới cũng liên tục nhảy nhót, lắc lư, các chân không ngừng thay đổi tư thế, rất giống hai con sư tử thật đang nhảy múa. Miệng hai con sư tử đối nhau, tạo nên một hình tròn gần bằng hai đầu ngón tay, mặc dù mặt đá đều ướt như nhau, nhưng rõ ràng tại điểm tròn đó màu sắc lúc nào cũng đậm hơn những chỗ xung quanh.
Tôi vui sướng, lập tức ngồi thụp xuống nhìn thật kỹ, thì phát hiện ra tại điểm giữa của hình tròn đó là một lỗ nhỏ, bao xung quanh đó là một đường viền rất mảnh, được bịt kín bằng đất sét. Tôi liền lấy một cây kim móc ra, khẽ chọc đầu kim sâu xuống miệng lỗ, rồi nhẹ nhàng xoáy ngược lại. Trong màn đêm tĩnh lặng, những tiếng xoẹt xoẹt của đinh ốc vang lên đều đặn, rồi tôi từ từ rút ra một thanh đá hình trụ dài gần bằng chiếc bút chì, với những bước ren xoắn đều xung quanh thân.
Lão Ngũ từ trên xà ngang nhảy phốc xuống, cầm lấy thanh đá ngắm nghía qua rồi nói:
- Mẹ kiếp, trông y như thanh củi, liệu có phải là chìa khóa không? - Lão bỗng nhiên thốt lên một tiếng “á…”, đầu thanh đá đột nhiên thòi ra một vật màu đen, hơi thuôn dài, rơi đánh cạch xuống sàn đá. Thì ra thanh đá rỗng lõi này cất giấu một vật bên trong.
Tôi vội vàng kiểm tra lại, đó thực ra là một mẩu kim loại, dài khoảng ba bốn phân, to gần bằng đầu ngón tay, ở phần đuôi có một lỗ nhỏ, tôi nhận ra nó giống y hệt với thanh kim loại mà ông nội đặt ở dưới viên gạch trong phòng ngủ. Tôi lập tức lôi nó từ balô ra để so sánh, rõ ràng là từ chất liệu cho tới hình dạng và màu sắc của hai mẩu kim loại đều không khác nhau tới một li.
Tôi cầm hai mẩu kim loại trong tay, mà vẫn cảm thấy thật khó hiểu, nếu như mẩu kim loại mà ông nội đang giữ là một chiếc chìa khóa rồi, thì tại sao ở miếu Bắc Trấn lại xuất hiện cái thứ hai, lẽ nào để mở được động Lão Mẫu thì bắt buộc phải cần có hai chiếc chìa khóa? Thế nhưng trong cuốn
Giải kiện tập lục lại không hề nhắc đến vấn đề này.
Lão Ngũ ngó nghiêng suy ngẫm mãi mà cũng không tìm ra nguyên nhân, chỉ nói rằng chúng được đúc bằng gang đen, rồi giục tôi mau chóng tới chùa Thanh Nham, hội Luận Đạo sẽ diễn ra vào đúng lúc mười hai giờ đêm. Tôi lập tức nhét thanh đá về vị trí cũ, rồi cả ba người cùng chạy ra xe để tới chùa Thanh Nham.
Trên đường lúc này đã có hàng đoàn xe nối đuôi nhau, lũ lượt kéo về phía động Thanh Nham, hầu hết đều mang biển ngoại tỉnh, xem ra số lượng người đến đây dự lễ không hề ít. Đợi cho đến khi tới được cửa động tôi mới nhìn thấy dòng chữ to màu đỏ, nét chữ rồng bay phượng múa khắc ở phía trên: “Thanh Nham Thánh cảnh”.
Chúng tôi không khác gì đang chen chân tại một hội chợ, đâu đâu cũng là người và xe, tiếng la ó, tiếng còi xe rú lên inh ỏi, hai bên đường là những dãy hàng rong bán hoa cẩm bào sặc sỡ màu sắc. Thế nhưng tôi thấy rằng phong cảnh Lư Sơn về đêm vẫn hết sức hùng vĩ, các ngọn núi trập trùng nối tiếp nhau trông mới nguy nga và tráng lệ làm sao, cảnh tưởng không khác với bức tranh in trên chiếc đĩa sứ là bao. Vô số ánh đèn nhấp nháy giữa khói hương nghi ngút, tạo cho người ta cảm giác như đang lạc vào chốn tiên cảnh.
Khi vào tới một cái điện nhỏ nằm dưới chân chùa Thanh Nham, Trưởng phòng Lưu đã đợi chúng tôi ở đó. Sau khi thay đồng phục mùa đông mà họ đã chuẩn bị cho chúng tôi, chị Giai Tuệ còn yêu cầu thêm ba bộ dụng cụ chuyên dụng của cảnh sát, vì cho rằng tình hình ở trong động Lão Mẫu vẫn chưa nắm rõ, nên cứ chuẩn bị kĩ lưỡng nhỡ đâu có lúc cần dùng đến.
Bộ dụng cụ chuyên dụng của cảnh sát bao gồm bảy vật dụng chính. Trên một dây lưng to bản bằng da có móc bảy chiếc túi nhỏ, lần lượt để đựng gậy, đèn pin, còng số tám, súng, hộp xịt cay, bộ đàm và một con dao. Giờ nghĩ lại, lúc đó chị Giai Tuệ suy nghĩ thật chu toàn, tưởng rằng những vật dụng này không phải dùng đến, thế mà trong quá trình ở động Lão Mẫu, chúng đã giúp chúng tôi không ít việc.
Sau khi mọi việc đã giải quyết xong, Trưởng phòng Lưu đưa chúng tôi men theo lối mòn để trèo lên đỉnh núi. Đỉnh núi Lư Sơn thẳng tắp và nhọn hoắt, các bậc đá đều hơi thuôn thuôn, hơn nữa còn rất hẹp, cộng thêm lượng du khách đến đây cũng rất đông, nên chúng tôi phải di chuyển hết sức chậm. Tôi thấy rất nhiều du khách thành tâm, cứ ba bước lại cúi dập đầu xuống bậc đá, năm bước lại quỳ lạy, mặc cho trán và đầu gối đã lấm lem và ướt nhẹp, trong ánh mắt họ vẫn toát lên vẻ sùng bái và cung kính. Tại mỗi một địa điểm lại có một cảnh sát bảo vệ, họ thấy chúng tôi đi cùng Trưởng phòng Lưu liền đứng nghiêm giơ tay chào, chắc là họ nghĩ rằng chúng tôi cũng là lãnh đạo như ông.
Khi tới một điểm gọi là Chuyển Vận dài, do đã được thu xếp từ trước, nên họ đã dành một lối riêng cho chúng tôi và Trưởng phòng Lưu để đi thông ra phía sau núi. Khung cảnh đằng sau núi lại hoàn toàn trái ngược với nơi chúng tôi vừa đi qua, mọi vật vô cùng hoang vắng và yên bình, chỉ đi thêm khoảng hơn một trăm mét nữa tiếng người phía đằng sau nhỏ dần rồi mất hẳn, chỉ còn tiếng chân chúng tôi bước trên lớp tuyết dày lạo xạo.
Lão Ngũ im lặng không nói một câu, chỉ cúi đầu tiến thật nhanh về phía trước như rất quen thuộc nơi đây. Đi thêm một đoạn nữa, chúng tôi đã tới được phía sau động Lão Mẫu, ở đây bày la liệt những bức tượng đá, bức cao bức thấp, bức đứng bức ngồi, dưới ánh trăng bàng bạc, lớp tuyết phủ dày cộp, những cơn gió vi vút thổi qua, khiến lớp tuyết tỏa ra những làn khói mỏng, mang lại cho ta một cảm giác ảm đạm đến não nề.
Tôi bỗng thấy lạnh sống lưng, liền lao tới bám sát Lão Ngũ, sau khi đi xuyên qua một phiến đá, chúng tôi tới trước một vách đá dựng đứng. Trên bề mặt phủ kín rong rêu và những cây họ dương xỉ, lá rụng hết, chỉ còn trơ lại những cành khẳng khiu, cứ mỗi đợt gió thổi qua, chúng lại phất phơ trông như những con rắn nước dưới ánh trăng.
Tôi ngẩng đầu nhìn lên, cảm thấy trong lòng có chút bất an, liền cất tiếng hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, vách đá này cao quá, chúng ta treo lên thế nào đây? - Lão Ngũ chưa kịp lên tiếng trả lời, thì từ phía sau tảng đá lớn bên cạnh bỗng dưng xuất hiện một bóng đen, bước lạo xạo trên lớp tuyết dày, rồi lao thật nhanh tới chỗ chúng tôi. Tôi giật thót tim, hét ầm lên rồi bám chặt lấy tay Lão Ngũ.
Chị Giai Tuệ phản xạ rất nhanh, rút súng chĩa vào người kia quát lớn:
- Ai?
Bóng đen kia tiếp tục tiến thêm vài bước rồi nói:
- Là ta.
Tôi nhìn lại, thì ra chính là người đàn ông chúng tôi gặp trên tàu, giờ đã được gọi là Lục Lão Tứ. Ông ta vác một chiếc balô màu đen trên vai, nhoẻn miệng cười vẫy tay về phía chúng tôi, rồi nói với Lão Ngũ:
- Hắc Lão Ngũ, tôi đang đứng đợi mọi người đây. Vẫn chưa đến giờ, chúng ta chắc là nhóm đầu tiên.
Lão Ngũ nhìn ông ta, gật gật đầu rồi nói:
- Mẹ kiếp, cũng coi như mi có lòng. - Lục Lão Tứ từ từ bước tới trước vách đá, nhón chân vén thảm rêu phủ trên bề mặt lên, lúc ấy tôi mới phát hiện ra, ẩn đằng sau lớp rêu và cây cỏ này là một khe hở xuyên thẳng qua vách đá, miệng khe rộng chừng một mét, bên trong tối thui nên tôi không biết nó sâu bao nhiêu.
Lão Ngũ ngó đầu vào bên trong xem xét, thở dài và nói:
- Mẹ kiếp, là Du Long đạo, lâu lắm không leo, giờ sức đã kém, tay chân thì yếu, không biết còn leo lên được không? - Nói rồi lão bước vào trong lòng khe, rồi quay người lại, hai tay tì mạnh lên hai bên vách, người nhảy lên, hai chân cũng đạp sang hai bên, hai chân hai tay lão phối hợp nhịp nhàng, chỉ một lúc sau đã leo cao chừng năm sáu mét, Lục Lão Tứ cũng thoăn thoắt theo sau.
Tôi thấy hơi lo lắng, liền quay lại hỏi chị Giai Tuệ phải làm sao? Chị Giai Tuệ gật đầu trấn an tôi, rồi lôi từ trong balô ra một sợi dây leo núi, kế vòng qua thắt lưng của tôi rồi buộc vào bụng chị, sau đó như Lão Ngũ, hai chị em tôi cùng leo lên.
Trong lòng vách núi, gió lùa qua rin rít, những hạt tuyết lọt qua khe núi rơi xuống đầu xuống cổ chúng tôi lạnh buốt, ngẩng lên nhìn thì thấy đường khe núi phía trên đầu chúng tôi là một đường zíc zắc chạy ngang bầu trời, ở giữa là những vì sao lấp lánh, ước chừng cao gần một trăm mét. Càng leo lên cao, tôi càng thấy cảm giác sợ hãi cũng tăng lên không ngừng, vì lo sẽ bị trượt chân rơi xuống, nên cũng không dám cúi mặt nhìn xuống dưới, đành cắn răng chịu đựng cái rét tê buốt đang chạy khắp cơ thể, cố gắng leo lên trên.
Để lên được tới nơi thật không dễ dàng chút nào, người đã mệt đến đứt hơi, cảm giác không thể nhấc nổi tay chân lên, tôi ngồi phịch xuống đất thở hổn hển. Trước mắt tôi giờ là một khoảng không rộng chừng hơn hai trăm mét vuông, nhìn ra xung quanh thì ngoài một vài tảng đá thưa thớt ra thì hầu như đều là mặt phẳng, dưới ánh trăng sáng, khắp nơi đều phủ một màu trắng xóa của tuyết. Ở ngay giữa khoảng không là một cây thông lớn, cao chừng năm sáu mét, thân cây khá to phải hai người ôm mới hết, mỗi khi có cơn gió thổi qua, một lớp tuyết lại rơi xuống khiến cành lá bên dưới cũng rung động theo.
Lão Ngũ thấy chúng tôi đã leo lên tới nơi, liền rảo bước tới trước gốc thông, đưa tay vỗ mạnh lên thân cây, khiến một lớp tuyết lạo xạo rụng xuống. Lão nói với chúng tôi, đây chính là cây thông Đạo Vương, nghe nói là do chính tay Thất gia trồng, đã có hơn một nghìn năm tuổi rồi. Luận Đạo năm 1970, sư phụ của lão đã thử bản lĩnh của lão tại chính dưới gốc cây này, và đã đồng ý cho lão trở thành “Lão Ngũ”. Tính ra, cây thông này cũng là sư tổ chứng kiến bao sự thay đổi của Đạo môn. Nói rồi, lão vòng tay ôm chặt lấy thân cây, mặt áp sát vào lớp vỏ xù xì, lim dim đôi mắt.
Tôi đứng lặng thầm nhìn lên thân cây thông, lớp vỏ cây xù xì nứt nẻ, qua vết nứt sâu lộ lớp gỗ thịt màu vàng sậm bên trong, xem ra tuổi của nó cũng đã rất cao rồi.
Mấy người chúng tôi đứng dưới gốc thông, vừa chuyện trò vừa đợi đến giờ. Mười một giờ hơn, mới bắt đầu có vài người kéo nhau lên đỉnh. Họ thấy chúng tôi mặc đồ cảnh sát, nên có vẻ không được tự nhiên cho lắm. Lục Lão Tứ vội tiến tới trước giải thích cho họ. Sau khi nghe nói đây là vua trộm vùng Đông Bắc, những người này tỏ ra rất phấn khích, lập tức kính cẩn chào Lão Ngũ, giống như người hâm mộ nhìn thấy thần tượng của mình vậy. Lão Ngũ xua xua tay không dám nhận sự ngưỡng mộ của mọi người.
Không lâu sau, một đám đông khác cùng nhau lũ lượt kéo đến, có khoảng bảy tám chục người già trẻ lẫn lộn, nhưng tất cả đều là đàn ông, không thấy bóng dáng của một người phụ nữ nào. Họ không ai nói với ai câu nào và cũng không dám cử động mà chỉ đứng nghiêm một chỗ, chỉ nghe thấy tiếng tuyết rơi xuống áo lộp bộp.
Tôi ngó ra xung quanh, cho rằng những người này chính là những cao thủ phái Đạo môn vùng Đông Bắc. Thế nhưng trông phong cách của họ, người thì khoác áo lông vũ, người thì mặc áo da, tôi vẫn có cảm giác kì lạ, nếu như họ đều thay bộ đồ cổ trang, trên tay cầm thêm thanh kiếm thì sẽ rất giống hình ảnh thường thấy trong các bộ phim kiếm hiệp.
Lão Ngũ xoa cằm, đưa mắt nhìn khắp một lượt, rồi bỗng nhiên lão thở dài, nói nhỏ với chúng tôi:
- Đạo môn đúng là vứt đi, chỉ được lèo tèo vài tên. Trước đây, mỗi lần Luận Đạo phải có hàng hai ba trăm người đến tham gia, mọi người cùng nhau tranh đấu, thi tài, vậy mới có ý nghĩa.
Tôi và chị Giai Tuệ chỉ khẽ gật đầu, Lục Lão Tứ nói chen vào:
- Lão Ngũ, thế này coi như là tiến bộ lắm rồi, Luận Đạo lần trước chỉ đến được hơn ba mươi người.
Đợi khoảng nửa tiếng sau là đúng mười hai giờ đêm, không thấy thêm một bóng người nữa, tuyết cũng đã ngừng rơi, gió rít mỗi lúc một mạnh. Lục Lão Tứ chỉnh đốn lại trang phục, bước đến trước đám đông, giơ hai tay lên ra hiệu cho mọi người im lặng, hắng giọng vài cái rồi nói lớn:
- Đạo môn Trung Hoa, nguyên viễn lưu trường, Lão Mẫu từ bi, phù hộ độ trì, thập niên Luận Đạo, tinh chọn Bả Thế…
Lục Lão Tứ cứ thao thao bất tuyệt trong hơn nửa tiếng đồng hồ, giọng nói trầm vang nhưng nội dung lại hết sức kỳ quặc, tôi thấy rất buồn cười nhưng vì mọi người ai ai cũng đều nghiêm trang, nên tôi cũng không dám ho he.
Cuối cùng, Lục Lão Tứ nhấn mạnh:
- Luận Đạo Bả Thế lần này chính thức được bắt đầu, xin mời Đạo vương Đông Bắc Hắc Lão Ngũ. - Nói rồi ông ta quay người lại chắp hai tay kính cẩn mời Lão Ngũ. - Lão Ngũ gia, mời ngài lên nói lời khai mạc.
Lão Ngũ “ừ” một tiếng, rồi thản nhiên tiến lên vài bước, lắc lư cái đầu.
- Mẹ kiếp, còn chần chừ gì nữa mà không tiến hành đi thôi, Luận Đạo coi như chính thức bắt đầu!
Tôi không nhịn được cười, cố bịt miệng để không phát ra tiếng. Xem ra Lão Ngũ vẫn là người làm gì cũng chỉ thích nhanh gọn.
Lão Ngũ bước lên lớp tuyết, tiến tới dưới gốc cây thông, thoắt một cái đã trèo lên cây, đưa tay ngắt một nắm lá thông vẫn bám đầy tuyết trắng. Nắm chặt nắm lá trong tay, lão từ từ bước tới mép vách đá, nheo mắt ngẩng lên nhìn ánh trăng, cánh tay phải vung mạnh, những chiếc lá thông nhọn hoắt như chiếc kim bay thẳng lên trời, tạo thành những đường sọc đen in hình xuống nền đất, rồi nhanh chóng bị cơn gió cuốn đi. Cùng lúc, đám người đứng bên dưới kia mới bắt đầu động đậy, ai ai cũng vươn dài cổ, mắt mở to, nhìn chằm chằm vào đám lá thông, luôn miệng lẩm bẩm gì đó.
Lão Ngũ quay người lại, bước về vị trí, từ từ duỗi bàn tay phải, miệng hô lớn:
- Đếm đi.
Đám đông như nhận được mệnh lệnh, liền tự động xếp thành hàng dài, từng người từng người một tiến tới viết điều gì đó vào lòng bàn tay Lão Ngũ. Đợi cho tất cả bọn họ đều viết xong, Lão Ngũ mới gật gật đầu, nói:
- Vớ vớ vẩn vẩn. Mi, mi, mi… còn cả mi nữa… - Lão chỉ liền một lúc hơn bốn chục người. - Những người được chỉ bước tới đây, số còn lại biến hết cho ta.
Những người được Lão Ngũ chỉ tay ai nấy đều tỏ rõ sự phấn khích, mặt mũi tươi tỉnh hẳn, còn những người khác thì ủ dột buồn bã, chắp tay kính lễ chào Lão Ngũ, rồi cùng quay đầu ra về.
Thấy tôi và chị Giai Tuệ đều thắc mắc chưa hiểu vì sao, Lão Ngũ quay lại nói nhỏ, chiêu vừa xong chủ yếu là kiểm tra thị lực, là phần thi bắt buộc đầu tiên, gọi là
Xạ nguyệt thức kim. Do Luận Đạo được tiến hành vào ban đêm, nên cần phải có ánh trăng, trong một khoảng thời gian ngắn, bắt buộc phải đếm được số lá thông. Vừa xong lão không hái nhiều, nên chỉ ném lên không trung đúng hai mươi mốt cọng, một vài tên bá láp tự xưng là cao thủ đó lại nói là một trăm hai mươi cọng.
Tôi thắc mắc không biết vì sao lão có thể đếm được có bao nhiêu lá thông. Lão cười ha hả, xoa xoa cằm rồi nói lão chưa đếm qua, nhưng trong khoảng hai ba trăm thì chắc chắn đúng. Tôi trố mắt nhìn lão, thật quá lợi hại, nếu là tôi chắc bốn mươi cọng cũng khó.
Đúng lúc đó, Lục Lão Tứ bước tới nói nhỏ vào tai Lão Ngũ:
- Lão Ngũ gia, đã bắt đầu đoán chữ được chưa?
Lão Ngũ ngẫm nghĩ một lúc, quay sang nói với tôi:
- Lan Lan, giúp ta một việc, viết cho ta hai chữ.
Tôi ngớ người, không biết vì sao lão lại bảo tôi viết chữ, hơn nữa ở đây lại chẳng có cái bút nào. Lão Ngũ kéo tay tôi tới bên gốc cây thông. Lão bảo tôi lấy ra một chiếc kim móc, thích viết chữ gì thì viết lên thân cây, rồi vẫy tay gọi một người đàn ông trung niên tới, nói:
- Mi trước.
Người đàn ông đó liền bước sang một bên, nghiêng đầu, áp sát tai lên thân cây để nghe ngóng. Lão Ngũ đẩy nhẹ lên vai tôi:
- Đừng có đứng đực ra đấy nữa, mau viết đi. - Rồi lão quay lưng đi, ngẩng mặt lên ngắm trăng.
Tôi lập tức phản xạ, thấy đây giống như môn thi nghe, suy nghĩ một lúc liền đưa mũi kim khắc nhẹ chữ “Vương” lên gốc cây. Vừa viết xong, đã thấy Lão Ngũ quát lên:
- Không được, không được! Mẹ kiếp, viết chữ nào khó hơn đi.
Tôi ngẩng mặt lên nhìn Lão Ngũ, rõ ràng là lão đang không nhìn tôi, hơn nữa lại đứng ở đằng xa kia, vậy mà lại đoán ra tôi viết chữ gì. Khi chọc mũi kim lên thân cây xù xì, tôi phải lựa theo nhiều chiều khác nhau, càng khó để nghe cho chính xác, xem ra thính lực của Lão Ngũ thật khiến người ta phải hốt hoảng.
Tôi suy nghĩ một lúc, khắc thêm chữ “Hắc” vào đằng trước. Người đàn ông từ từ đứng dậy đi tới cạnh Lão Ngũ, nói khẽ:
- Lão Ngũ, đây là chữ “Hắc Vương”.
Lão Ngũ khịt mũi.
- Mẹ kiếp, coi như mi qua. Người khác.
Người tiếp theo bước đến, nhưng giờ tôi biết viết gì đây? Đành phải vắt óc cố nặn ra vài chữ, thấy người này tuổi cũng khá cao, nên tôi viết những chữ đại loại như: “Nhương, Tàng, Tị…”. Còn với những người trẻ hơn tôi viết những chữ kiểu như: “Cương, Lượng, Tôn…”. Vì tôi cho rằng, những người tuổi cao hơn thì kinh nghiệm và bản lĩnh cũng lớn hơn những người trẻ tuổi hơn.
Cuối cùng phần thi đoán chữ cũng xong, lại có thêm hơn hai mươi người bị loại. Lão Ngũ tỏ ra rất không hài lòng, nói với Lục Lão Tứ:
- Mẹ kiếp, chẳng biết chúng tập luyện kiểu gì, mà mới qua hai cửa ải đã rụng hơn một nửa.
Lục Lão Tứ liền cười hềnh hệch, nói:
- Lão Ngũ, lão cũng đừng phiền lòng làm gì, Đạo môn hiện nay đều như thế cả, không giống như thời của lão ngày xưa.
Lão Ngũ chửi thề một câu rồi cau có mặt mày nói:
- Được rồi, bắt đầu phần
Giải nút.Lục Lão Tứ khẽ gật đầu, thả chiếc túi đeo trên vai xuống, rồi lấy ra một đoạn dây thừng, cuốn sợi dây thừng chặt quanh một tảng đá rồi thắt nút lại.
Lão Ngũ bước tới cầm lấy nút thắt, quát một tiếng:
- Mẹ kiếp, buộc thế này thì đánh rắm cũng tháo được ra, buộc thêm vài nút nữa.
Lục Lão Tứ lập tức thắt thêm ba nút nữa, bấy giờ Lão Ngũ mới tỏ ra hài lòng phần nào, lão vỗ vai người thanh niên đứng gần mình rồi nói:
- Nhóc con, mi ra tay trước đi.
Người thanh niên đó liền bước lên trước, rồi giơ hai ngón tay giữa ra, nhanh chóng cởi từng nút thắt một. Chỉ mất khoảng vài chục giây, người này đã tháo được bốn nút thắt, sợi dây từ từ tuột xuống đất, những người xung quanh đều trầm trồ thán phục. Mặc dù tôi cảm thấy hết sức bất ngờ, nhưng khi nghĩ lại so với lần Lão Ngũ biểu diễn thuật
Xuyên khôi gần đây, thì đây vẫn chưa thấm vào đâu.
Lục Lão Tứ nói nhỏ với tôi, đây là thuật
Phọc thạch giải khấu, dùng để thử thách khả năng của đầu ngón tay, ngày trước ông đã được tận mắt chứng kiến Lão Ngũ biểu diễn, chỉ trong thời gian cháy nửa que hương mà Lão Ngũ mở được một trăm linh năm nút, như vậy mới gọi là đỉnh cao.
Có thể đây là thử thách quá khó khăn, nên cuối cùng chỉ chọn ra được sáu người, hơn nữa hầu như đều là những người tuổi đã khá cao. Lão Ngũ lại tiếp tục bảo Lục Lão Tứ buộc sợi dây thành chín nút, lúc này tất cả những người còn lại đều không có ai mở được.
Lão Ngũ tức tối quát ầm lên:
- Toàn một lũ ngu như bò, trông thì cũng sáng sủa đấy, thế mà trong đầu chẳng có gì. Đạo môn sau này chỉ biết trông vào mấy người, vậy mà nhìn lại xem… mẹ kiếp, mẹ kiếp…- Nghe Lão Ngũ, mọi người chỉ biết cúi đầu, im thin thít đến thở cũng không dám.
Quát tháo một lúc, Lão Ngũ mới có phần hạ hỏa, quay sang Lục Lão Tứ hầm hầm nói:
-
Vi Viên.
Lục Lão Tứ liền rút từ trong túi ra một tấm vải màu đen, bên trong cất những túi bột màu trắng. Sau đó lão rắc lớp bột trắng lên tuyết, cố tình tạo thành một hình tròn, màu tuyết trắng hòa vào màu bột, nên hầu như không thể phân biệt đâu là bột đâu là tuyết. Nhưng sau khi dùng bật lửa đốt, thì lập tức cháy thành một vòng lửa màu xanh nhạt, ngọn lửa bùng lên cao khoảng một gang tay, mỗi khi có cơn gió thổi qua, ngọn lửa lại lan ra xung quanh khiến lớp tuyết dần tan chảy, tiếng xì xèo phát ra, ánh lửa phản chiếu xuống vũng nước càng làm cho ngọn lửa thêm bừng sáng.
Tôi ngẩn người nhìn theo ngọn lửa, thấy thật thần kỳ, liền quay sang hỏi Lão Ngũ.
Lão nói với tôi, đây là bột Lưu tung, được làm bằng bột ngọc trai trộn với phốt pho, là thứ mà người phái Đạo môn dùng để tìm đường vào ban đêm, không sợ nước và gió. Thử thách tiếp theo là
Vi viên thủ Đạo. Người xưa thường nói,
Vật trộm được không tự mất, mới gọi là lợi hại, cứ xem xong cái này, khắc sẽ hiểu.
Lão Ngũ chọn ra hai người, móc ra hai viên Phi Hoàng thạch đưa cho họ. Hai người đó cầm lấy viên đá, lau lau vào người, thoáng chốc hai tay đã trống trơn, kế cùng bước vào vòng lửa, hai người đứng ở hai góc đối diện nhau.
Hai người từ từ ngồi xuống, không hề chớp mắt, nhìn thẳng vào đối phương, gườm gườm như hai con thú đang chuẩn bị tấn công nhau. Vài giây sau, họ bất ngờ xông vào nhau, kéo theo vài vạt tuyết hất lên tung tóe, hai tay ra sức ghìm chặt đối phương, nhưng cũng tách ra rất nhanh chóng, rồi quay lại vị trí ban đầu.
Sau sáu bảy lần vật lộn như thế, một trong hai người đàn ông đó bỗng hét lên:
- Được rồi! - Rồi nhảy phốc ra khỏi vòng lửa, chạy tới trước mặt Lão Ngũ, xòe ra hai viên đá, vẻ mặt vô cùng hớn hở. Người đàn ông còn lại lắc đầu thở dài vẻ ngao ngán, rồi từ từ lùi bước ra sau.
Theo dõi từ đầu đến cuối, tôi mới hiểu vì sao lúc nãy Lão Ngũ lại nói là “Vật trộm được không tự mất”, thì ra mục đích của Vi viên thủ Đạo là giữ chặt vật thuộc về mình, do đó đây mới là thử thách cuối cùng.
Bốn người còn lại tiếp tục đua tài, mỗi trận đều phân định ra kẻ thắng bại, cuối cùng Lão Ngũ cũng nâng bậc và trao danh hiệu cho họ. Tổng cộng có hai người đạt cấp Lão Tứ và bốn người đạt Lão Tam. Lão Ngũ vẫn lùng bùng trong miệng, tỏ vẻ không chút hài lòng, rồi hầm hầm kéo tôi và chị Giai Tuệ xuống núi.
Vừa đúng lúc này, tôi bỗng nghe thấy giọng một người con gái vọng lại từ đằng sau:
- Đợi đã, vẫn còn ta.
Tôi lập tức quay đầu lại, vừa kịp nhìn thấy một bóng đen đang lồm cồm leo từ dưới khe Du Long đạo lên, chạy vài bước tới trước chúng tôi, vừa thở hổn hển vừa nói:
- Lão Ngũ, cháu cũng muốn tham gia Luận Đạo.
Cô gái trẻ này trông có vẻ bằng tuổi tôi, mặc một chiếc áo khoác lông vũ màu đỏ, khuôn mặt trắng nõn, khi cười đôi mắt cong lại như hai vầng trăng lưỡi liềm. Cô gái kính cẩn chắp tay chào Lão Ngũ, tôi phát hiện ra, người này dùng năm đầu ngón tay gõ năm lần, điều này chứng tỏ cô đã đạt tới cấp Ngũ giới, tức là ngang hàng với Lão Ngũ.
Tất cả những người có mặt ở đó lúc bấy giờ đều ngạc nhiên trợn tròn mắt, Lục Lão Tứ cùng những người vừa mới được phong danh càng hốt hoảng hơn. Từ đâu xuất hiện một cô gái trẻ, lại còn tự xưng ngang hàng với Hắc Đạo Vương, không biết là bị điên hay bị ngốc đây.
Lão Ngũ cũng hơi bất ngờ, lịch sự đáp lễ, rồi nheo đôi mắt lạnh lùng hỏi:
- Cô gái, cô là ai?
Cô gái đó rất tự tin, không một chút sợ hãi, điềm tĩnh trả lời:
- Đinh Ngũ muội đến từ Hưng Thành Triều Dương, xin chào Lão Ngũ.
Triều Dương là một thành phố nằm cạnh Cẩm Châu, còn Hưng Thành là một huyện nhỏ thuộc Triều Dương, từ hồi còn ở Học viện cảnh sát, tôi có chung phòng kí túc với một bạn cũng đến từ nơi này. Tôi nhìn cô gái trẻ từ đầu đến chân, cô gái có vẻ còn rất nhỏ tuổi, vậy mà ăn đĩnh đạc, lại còn tự tin xưng mình là Đinh Ngũ muội, tôi thấy thật nực cười, không thể tin là cô lại ngang tầm với Lão Ngũ.
Lão Ngũ chậm rãi xoa cằm, chớp chớp mắt, rồi nói với giọng rất lạ:
- Đinh Ngũ, ha ha… ha ha… mi nói mi đã là Lão Ngũ? Hay đấy, hay đấy! - Lão bước lên trước vài bước, rồi hạ giọng nói. - Nhóc con, trong Đạo môn dựa vào Bả Thế để phân cấp bậc, nếu như mi cũng là Lão Ngũ thì không thể gọi ta là Lão Ngũ được mà phải gọi ta là Ngũ ca.
Lão Ngũ nói với giọng hơi châm biếm, vậy mà không ngờ cô gái đó lập tức lên tiếng trả lời rất nghiêm túc:
- Vậy cũng đúng, Hắc Ngũ ca, ở nhà ba cháu cũng nói với cháu như vậy. Thế nhưng, do tuổi của Ngũ ca cũng đã cao, gọi là Lão Ngũ chắc cũng không sao.
Những lời của cô gái khiến mọi người đều không dám tin vào tai mình. Bụng thầm nghĩ chắc cô ta có chút vấn đề về thần kinh.
Lão Ngũ không tỏ thái độ gì, chỉ ngẩng đầu cười lớn:
- Tốt, tốt, tốt lắm! Vậy mi nói xem, mi dùng thuật gì, để ta xem xem Bả Thế của mi cao tới mức nào rồi?
Đinh Ngũ muội liền cười khúc khích, trả lời một câu mà ai cũng ngã ngửa:
- Cháu không biết thuật gì cả, cháu đến đây là để Lão Ngũ dạy cho cháu thôi.
Nói rồi, cô gái bước thêm vài bước tới trước mặt Lão Ngũ, xòe bàn tay ra, trong lòng bàn tay nắm một vật gì đó, rồi ngay lập tức nhét vào trong áo. Lúc đó, cô gái quay lưng về phía chúng tôi, nên nhìn không rõ cô đang cầm vật gì. Tôi chỉ nhận thấy gương mặt của Lão Ngũ bỗng thay đổi đột ngột, ngẩng lên nhìn chằm chằm vào Đinh Ngũ muội, ánh mắt có vẻ như đang rất xúc động.
Lão run run cầm lấy tay cô gái, rồi lắp bắp hỏi:
- Đây… đây… đây là gia đình của mi?
Đinh Ngũ muội mỉm cười rồi gật đầu lia lịa:
- Vâng, đây chính là gia đình cháu. Ba cháu nói rằng, chỉ cần nhìn thấy vật này thôi, nhất định lão sẽ nhận dạy Đạo thuật cho cháu.
Lão Ngũ hít một hơi thật sâu, như vẫn chưa hết xúc động, một lúc lâu sau mới lên tiếng:
- Tốt lắm, Đinh Ngũ muội, tốt lắm! - Tay lão vẫn nắm chặt tay của Đinh Ngũ muội. - Muội muội, ba muội đã coi trọng ta như thế, còn đích thân nhờ ta dạy dỗ, cũng coi như ta đây may mắn. Hắc Lão Ngũ này có chết cũng sẽ cố gắng truyền dạy cho muội. Đạo môn có phúc, Đạo môn có phúc… - Nói rồi, mắt lão rơm rớm nước, như nghẹn ngào không nói lên lời.
Thấy vậy, tất cả chúng tôi đều ngẩn người ra, thật hiếm khi Lão Ngũ lại tỏ ra xúc động đến như vậy, thật không biết chuyện gì xảy ra. Bình thường một người luôn cất giọng the thé chửi rủa, lúc nào cũng dương dương tự đắc như lão, vậy tại sao khi đối diện với cô gái này lại hạ giọng xưng là Hắc Lão Ngũ, thậm chí còn rơi nước mắt? Không biết lão đã nhìn thấy cái gì mà có thể thay đổi hoàn toàn thái độ như vậy?
Đinh Ngũ muội không nói gì, chỉ nhìn Lão Ngũ cười híp mắt, trong khi những người khác không ai dám lên tiếng. Lão Ngũ từ từ lau hai hàng nước mắt, bỗng nhiên lão quay lại phía tôi vẫy vẫy tay, nói:
- Lan Lan, xin lỗi nhé, ta không thể nhận mi làm đệ tử được nữa. Nếu như vẫn muốn học Đạo thuật thì sau này đến bái Ngũ bà vậy.
Tôi thực sự bất ngờ, nhưng vẫn kịp gật đầu, rồi quay lại nhìn Đinh Ngũ muội. Với tôi học hay không học Đạo thuật cũng không quan trọng, nhưng tôi hết sức tò mò muốn biết cô gái này rốt cuộc là ai?
Đến lúc đó, vẻ trầm tư ủ rũ của Lão Ngũ bỗng dưng biến mất, lão cười vui vẻ vỗ vai Lục Lão Tứ và những người còn lại với vẻ hết sức thoải mái:
- Mấy đứa mi giờ biến được rồi, mười năm nữa đến đây, lúc đó Ngũ bà sẽ Luận Đạo cho mấy đứa.
Lục Lão Tứ cùng những người kia đều hết sức ngỡ ngàng trước câu nói của Lão Ngũ, nhưng Lão Ngũ đã nói vậy rồi, họ đành kính cẩn chào Đinh Ngũ muội và quay sang cáo biệt chúng tôi, kế từ từ tụt xuống khe Du Long đạo.
Thấy mọi người đã đi hết, Lão Ngũ mới giới thiệu Đinh Ngũ muội với tôi và chị Giai Tuệ, rồi bắt chúng tôi gọi cô là Ngũ bà. Tôi cảm thấy ngượng mồm, đang lưỡng lự không biết nên hay không nên gọi, thì Đinh Ngũ muội vội phẩy tay nói rằng xưng hô như vậy không cần thiết với người ngoại đạo, hơn nữa tôi lại là trưởng môn của phái Kiện môn, mọi người cứ gọi chị em cho thân mật. Lão Ngũ cũng gật gù, tán thưởng:
- Cũng phải, mỗi người đều theo phái riêng, nếu không thì lão già này đã có thêm hai muội muội rồi, thế thì lãi quá. Ha ha ha ha, hay đấy, hay đấy!
Sau đó, Lão Ngũ kể qua cho Đinh Ngũ muội về việc của tôi, để cô ấy xuống núi đợi trước, sau khi giúp tôi quy vị xong Kiện bài sẽ xuống tìm sau. Chị Giai Tuệ liền nói để chị liên lạc với Trưởng phòng Lưu để ông ấy sắp xếp phòng ở khách sạn cho cô nghỉ tạm.
Nhưng không ngờ Đinh Ngũ muội lại lắc đầu nhất định không chịu, một mực nói rằng ba cô ấy đã dặn phải theo sát Lão Ngũ không được rời nửa bước. Lão Ngũ nghe xong liền đồng ý, và nói rằng thêm người cũng tốt, đến lúc nguy nan có thể giúp đỡ nhau.
Lúc đó, tôi vẫn không hiểu tại sao Đinh Ngũ muội lại quả quyết đi theo chúng tôi không chịu rời bước, cho tới sau này khi đã hiểu được thân thế của cô ấy, tôi mới biết được lí do đó là gì.
Chúng tôi cùng tụt xuống khe Du Long đạo, rồi nhanh chóng quay lại trước núi, gặp Trưởng phòng Lưu hỏi mượn thêm một bộ trang phục cảnh sát và một bộ vật dụng chuyên dụng. Sau khi Đinh Ngũ muội thay quần áo xong, Lão Ngũ nhìn sang ba đứa con gái chúng tôi, cười khoái chí:
- Ba cô gái, ai ai cũng xinh đẹp cả. Lại còn thêm cả Đường Nhã Kỳ và Tiêu Vy nữa chứ. Mẹ kiếp, lão già này sắp sang thế giới bên kia rồi vẫn còn đào hoa.
Nhờ Trưởng phòng Lưu dẫn đường, chúng tôi đi thẳng một mạch tới bên ngoài động Lão Mẫu, phía trên cửa động có khắc bốn chữ “Hư Vô Chân Cảnh”. Nhìn vào phía trong là một hang động tự nhiên, rộng chừng bảy tám mét vuông, tượng Lão Mẫu mạ vàng đang ngồi trên một bục đá, đầu hơi nghiêng sang bên trái, ánh mắt nhìn thẳng, tay cầm bình ngọc, xung quanh là các bức tượng tiên đồng và ngọc nữ. Hai bên bục đá là mười tám bức tượng La hán. Mặt phía sau treo một bức mành màu vàng, cả bốn cạnh đều là những đường tua rua màu xanh, ở giữa tấm mành thêu hình tượng Phật.
Lúc này, tôi có cảm giác bên trong động giống như một nồi nước đang sôi, khói bốc lên nghi ngút, khiến ta không thể thở nổi. Người thì chen chúc nhau, quỳ rạp xuống đất, thỉnh thoảng lại cúi gập người khấn vái, người thì la hét còn vung tay nhảy múa, đôi mắt đỏ ngầu, giống như đang lên cơn dại. Hai vị hòa thượng đầu trọc nhẵn thín, mặt mũi nhễ nhại mồ hôi, đứng ở phía trên, lần lượt nhận những bông hoa cẩm bào từ phía dưới chuyển lên, rồi cài lên khắp bức tượng Lão Mẫu.
Chị Giai Tuệ chau mày, tiến gần lại Trưởng phòng Lưu, nói nhỏ:
- Chú Lưu, cánh cửa bí mật nằm ở phía dưới động, chú nghĩ cách cho chúng cháu đi qua, sau đó phải đảm bảo không có ai vào quấy rầy.
Trưởng phòng Lưu khẽ gật đầu, điều hai cảnh sát tới rẽ đám đông rồi đưa chúng tôi chen qua. Bên cạnh bức mành tôi thấy sâu vào trong khoảng hơn một mét, bức vách động có màu nâu đất, đó là một khe nứt bên trên bám đầy rong rêu.
Vén bức mành ra, Trưởng phòng Lưu nói với chúng tôi, ông sẽ ở bên ngoài canh chừng, để chúng tôi tiếp tục đi sâu vào trong, sau đó chúng tôi sẽ dùng bộ đàm liên lạc, cứ cách một tiếng đồng hồ sẽ gọi một lần, nếu như quá ba tiếng không nhận được thông tin phản hồi thì ông sẽ lập tức tập hợp quân vào tìm kiếm.
Chị Giai Tuệ nghĩ một lúc, rồi nói nội tình bên trong động chưa rõ thế nào, tốt nhất là khoảng sáu tiếng đồng hồ gọi lại một lần. Trưởng phòng Lưu gật đầu đồng ý, rồi còn khảng khái nói thêm, ông đã đến Bắc Trấn nhậm chức được năm năm rồi, năm nào cũng lên đây vào dịp này, giờ sắp chuyển sang tỉnh khác, trước khi chuyển đi mà lại có thể góp sức tìm ra bí mật lớn thế này, coi như là cũng được góp chút công sức. Nói rồi, ông tới bắt tay từng người một trong đoàn, cười và nói:
- Các đồng chí, chúc các đồng chí mọi việc đều thuận lợi, trở về tôi sẽ thết đãi mọi người một bữa linh đình.
Đợi cho Trưởng phòng Lưu bước ra, Lão Ngũ mới tiến tới sờ tay lên bức vách đá, rồi quay đầu lại nói thật khẽ:
- Lan Lan, mau chóng tìm mắt khóa đi.
Tôi lập tức bước tới, quan sát một hồi, mới phát hiện ra, quả nhiên phía dưới cùng có một lỗ tròn, gần như đã bị rêu phủ kín, sau khi đã dọn sạch, liền cắm chìa khóa vào, vừa khít với lỗ. Tôi liền lấy ra một chiếc kim móc, xỏ qua phần lỗ ở đuôi khóa, rồi giống như vặn khóa két sắt, từ từ xoay sang phải.
Mỗi một vòng quay, chiếc chìa khóa lại cắm sâu thêm được một chút, tôi phải xoay chừng ba mươi sáu vòng, khi chiếc chìa khóa chỉ còn thò ra bên ngoài một chút xíu. Bỗng dưng, từ trong động phát ra một âm thanh khe khẽ, chiếc chìa khóa rung lên, rồi từ từ bị đẩy lại ra ngoài, lớp rêu phong trên tường cũng bị tách ra rồi rơi lả tả xuống đất. Tiếng người vẫn không ngừng hò hét bên ngoài, nên những tiếng động này dường như không nhằm nhò gì. Ngay lập tức, một phiến đá rộng chừng mặt bàn, dày gần bằng nắm đấm cửa từ từ thụt vào trong, cho tới khi để lộ ra một khe hở vừa đủ một người chui lọt vào. Bên trong tối thui như mực, nhưng lại thốc ra một luồng khí trong lành và mát mẻ.
Trong lòng tôi bỗng dưng hồi hộp vô cùng, trống ngực đánh liên hồi. Bây giờ nếu bất ngờ có người nhìn thấy chúng tôi đang mở cánh cửa bí mật này, thì không biết sẽ có chuyện gì xảy ra. Chúng tôi không còn nhiều thời gian, nên từng người từng người một vội xếp hàng chui qua khẽ hở. Đến khi lách người bước vào bên trong, tôi cũng không kịp nhìn kĩ vội rút sợi dây da lừa và chiếc chìa khóa ra. Cánh cửa đá lập tức chuyển động và từ từ trở lại vị trí cũ, nguồn ánh sáng duy nhất cũng bị vụt tắt, khiến không gian xung quanh tôi bỗng trở nên tối đen, đến cả những tiếng xì xầm bên ngoài cũng trở nên im bặt.
Chúng tôi nắm chặt tay nhau, ngồi thụp xuống trong vài giây, rồi lôi chiếc đèn pin ra rọi chiếu xung quanh. Sau khi đã nhìn kĩ mọi vật, tôi ngạc nhiên đờ cả người, mọi người cũng há hốc miệng ngơ ngác không thốt nên lời, lúc đó tôi có một cảm giác huyễn hoặc và mơ hồ vô cùng, không dám tin những cảnh tượng trước mắt là có thật.
Liền nghe tiếng nuốt nước bọt và đặng hắng, ngay sau đó là giọng nói run rẩy của Lão Ngũ:
- Mẹ kiếp, Thanh Nham Thánh cảnh, hay đấy… hay đấy…