Cuộc du ngoạn kì thú dưới lòng Cố cung
CHƯƠNG 7
Khóa Bá Vương nối sợi tơ tằm bất tử

     ây là loại khóa then mà người Trung Quốc ngày xưa rất hay dùng để khóa cửa nhà, nó xuất hiện từ thời Xuân Thu, gồm thân khóa và thanh then (gần giống khóa hình móng ngựa). Thân khóa thường là hình chữ nhật, thanh then hoặc chốt từ trên xuống hoặc là chốt từ hai bên sang, khi thanh then khớp ren với thân khóa thì coi như chiếc khóa đã bị phong tỏa, nó có kết cấu hơi giống với miệng cống thoát nước nhưng nhỏ hơn rất nhiều. Chiếc khóa trước mặt tuy khá to nhưng thực ra lại rất đỗi bình thường, nó có thanh then to bằng hai ngón tay, gốm hai đoạn nối với nhau và mỗi đầu chốt vào một đầu chiếc khóa.
Lão Ngũ tiến tới trước, với tay lên chiếc khóa kéo thử rồi mỉm cười khoái chí:
- Mẹ kiếp, tưởng thế nào chứ, hóa ra là loại khóa tầm thường này, để ta giải quyết cho! – Nói rồi lão nheo mắt, quan sát chiếc khóa một hồi lâu, bỗng lão chửi ẩm lên. – Quỷ tha ma bắt, không có mắt khóa. Hay đấy, hay đấy!
Tôi vội vàng chạy tới xem, quả nhiên đúng như lời lão nói, cả thân khóa là một màu đen tuyền, bên trên điểm những vết hoen gỉ, nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy mắt khóa đâu, tôi đoán đây có thể lại là một loại khóa biến thể.
Lão Ngũ hơi nản lòng.
- Mẹ kiếp, cứ tưởng là ngon ăn, mất mặt quá. Thôi, mi xử lí nó đi!
Tôi mỉm cười, lấy ra một miếng kim loại, từ từ cạo hết lớp rỉ sét trên bề mặt chiếc khóa. Thân khóa đúc bằng loại sắt tổng hợp, trừ phần bên trên cắm hai đầu thanh then, bốn mặt còn lại của thân khóa mỗi mặt đều gắn hai thanh chốt màu đen rất nhỏ, mài phẳng lì như chìm vào mặt khóa, nhìn trông rất khít. Phía dưới đáy khắc những đường lượn sóng, đó là kết quả từ quá trình đúc ổ khóa tạo nên.
Tôi suy nghĩ một chút rồi nhìn lại hai thanh then, bề mặt và chỗ nối của chúng là những đướng xoắn ốc, đếm đi đếm lại chỉ vẻn vẹn có mười đường.
Đến đây, tôi đã hiểu ra vấn đề, quay đầu sang nói với Lão Ngũ.
- Thảo nào không có mắt khóa. Lão Ngũ xem đi, đây chính là khóa Bá Vương, hay còn gọi là khóa Thập diện mai phục.
Lão Ngũ xoắn xoắn mấy sợi râu trong tay rồi nói:
- Nghe cái tên đã đủ thấy cổ quái rồi, nhanh chóng bắt tay vào mở thôi.
Chị Giai Tuệ nói thêm:
- Vừa là Bá Vương, vừa là Thập diện mai phục, xem ra nó nhất định liên quan tới Hạng Vũ[1] rồi.
[1] Hạng Vũ là một chính trị gia và là nhà quân sự kiệt xuất của nước Sở ( một nước nhỏ của Trung Hoa cổ đại). Với tài năng và sự dũng mãnh của mình, ông được coi là vị tướng xuất sắc nhất trong lịch sử Trung Quốc, từ Bá Vương cũng là danh xưng dùng để gọi ông.
Tôi gật đầu, tán thành:
- Chị Giai Tuệ, chị đoán đúng rồi đấy, câu thành ngữ “Thiết tướng quân giữ cửa” mà ngày nay mọi người hay dùng cũng bắt nguồn từ khóa Bá Vương này mà ra đấy.
Trước đây tôi đã từng nghe ông nội kể rằng, khóa Bá Vương ra đời từ những năm đầu tiên thời Đông Hán, nghe nói nó được một vị tướng quân dưới quyền của Sở Bá Vương Hạng Vũ chế tạo ra. Vị tướng quân này vốn là một cao nhân chế tạo khóa, sau đó chiêu binh đi theo Hạng Vũ. Sau khi Hạng Vũ bị đáng bại ở Ô Giang, ông ta đã quyết định về ở ẩn, tách mình với thế giới bên ngoài và quay về với nghề chế tạo khóa. Để tưởng nhớ vị tiên chủ, ông đã dựa vào loại khóa then truyền thống để chế tạo ra loại khóa Bá Vương, được lưu truyền qua hàng nghìn năm.
Loại khóa Bá Vương này gồm có mười thanh then vừa sáng vừa tối, ngụ ý chỉ trận Thập diện mai phục do Hàn Tín bày binh bố trận. Trong đó, mặt dưới khóa không có rãnh cũng không thiết kế then cài, mà chỉ có những đường lượn sóng, để ngầm ví lần thua trận của Hạng Vũ ở Ô Giang, thà tự vẫn còn hơn phải lui về Giang Đông. Do Hạng Vũ là đại tướng quân, nên loại khóa then này còn được gọi là Thiết tướng quân, có thể lấy câu “Một người giữ cửa, vạn người khóa vào[2]của Lý Bạch để so về mức độ vô cùng khó mở của loại khóa này.
[2] Trích trong bài Thực đạo nan của Lý Bạch.
Nghe tôi giải thích xong, Lão Ngũ gật đầu vẻ rất thán phục.
- Hạng Vũ quả đúng là anh hùng, thà chết vinh còn hơn sống nhục. Vậy mi thấy thế nào, chiếc khóa này có dễ nhằn không?
Mặc dù tôi không hề quay đầu nhìn lại chiếc khóa nhưng trước đây – khi dạy tôi mở khóa, ông nội đã cho tôi thực hành rất nhiều với loại khóa then này, do đó tôi nắm khá vững loại khóa này. Với khả năng hiện tại, tôi nghĩ nó cũng không khó vượt qua lắm. Tôi liền lôi ra một sợi dây da lừa cực mảnh, nhờ Lão Ngũ và chị Giai Tuệ mỗi người cầm một đầu rồi ra sức kéo sang hai bên, lấy miếng kim loại vừa dùng cào mạnh lên sợi dây, phát ra tiếng ken két rất ghê tai. Tôi cứ cào như thế khoảng hơn một trăm lần, sợi dây bắt đầu nóng ran trong tay, tôi gập hai đầu sợi dây lại, cuộn tròn quanh thanh then có rãnh hình xoắn ốc, rồi dùng sợi kim móc, từ từ nhét hai đầu sợi dây kia vào trong thân khóa, lợi dụng sức nóng của sợi dây để ép chặt sợi dây vào đường xoắn ốc. Vẫn làm theo cách như thế, tôi dùng bốn sợi dây da lừa khác ép chặt các đường xoắn ốc trên tám thanh then còn lại. Sau đó buộc năm sợi dây da lừa thành một, cuốn chặt quanh thân khóa.
Sau khi mọi khâu đã chuẩn bị xong, tôi ngồi xuống mặt sàn, dùng đầu kim cào thật nhanh lên đường rãnh nhỏ tại điểm nối giữa hai thanh then màu đen trên thân khóa với hi vọng lực tác động và sức nóng sẽ khiến sợi dây da lừa nới lỏng các đường xoắn ốc, làm thanh then bật tung ra. Sau khi tám thanh then tối bị bật ra, hai thanh then sáng còn lại sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Thế nhưng cho dù tôi ngồi cào cho tới khi hai chân mỏi nhừ, các ngón tay đau nhức, thì sợi dây da lừa cũng không hề nhúc nhích, tôi đã thử thay đổi mọi hướng nhưng đường xoắn ốc vẫn không hề lỏng ra.
Sự việc khiến tôi càng thêm rối trí, mồ hôi túa ra như tắm, đương lấy tay quệt mồ hôi, bất chợt tôi nghĩ ra, một kế sách, liền vội vàng một tay đưa ổ khóa sát lên tai lắng nghe, một tay tiếp tục cào mạnh lên nó.
Trong lúc khóa phát ra một thứ âm thanh rất lạ, lục bục như tiếng nước chảy. Tôi lập tức đoán ra, trong lõi khóa chứa đầy thủy ngân, những thanh then có đường xoắn ốc chạy thẳng vào trong, nhưng do bên trong rất trơn, nên sợi dây da lừa cũng không thể vặn được chúng.
Tôi ngán ngẩm thở dài, xem ra chiếc khóa này cũng giống chiếc khóa Uyên Ương bọc tâm giao ức, đều được đúc bằng hai loại kim loại khác nhau. Có điều bên trong loại khóa Bá Vương này lại chứa thủy ngân, với khả năng trước đây của tôi thì khóc có thể mở nổi.
Nghe thấy tôi nói bên trong là thủy ngân, Lão Ngũ giật bắn mình, giơ tay kéo tôi ra, vội vàng nói:
- Thủy ngân độc hại lắm, tránh ra không lại bị trúng độc bây giờ.
Chị Giai Tuệ cũng lao tới kéo mạnh tôi ra khỏi ổ khóa, dặn đi dặn lại dung dịch thủy ngân rất dễ bốc hơi trong nhiệt độ thường, nếu hít phải sẽ rất độc cho cơ thể.
Tôi lắc đầu, nói:
- Không sao, thân khóa được bịt rất kỹ, ở tất cả miệng khe hở đều được bịt kín bằng thạch cao để tránh rò thủy ngân ra ngoài.
Nói đến đây, tôi chợt thấy do dự, nhưng trong đầu lập tức nảy ra phương pháo mở chiếc khóa. Vì chiếc khóa này có vỏ đúc bằng sắt, bên trong bịt bằng thạch cao, lõi trong cùng mới là thủy ngân, rõ ràng cấu tạo của chiếc khóa áp dụng nguyên lý Ngũ hành tương sinh. Sắt và thủy ngân đều là kim loại, nhưng đồng thời thủy ngân cũng có dạng lỏng như nước, thạch cao là khoáng sản nên có thể xem là một dạng đất, hàm ẩn quan hệ tương sinh trong ngũ hành là “thổ sinh kim, kim sinh thủy”. Nếu như tôi dùng thuyết tương khắc không chừng lại có thể mở được chúng.
Nghe tôi nói cần dùng đến lửa, chị Giai Tuệ lập tức rút ra một chiếc bật lửa vỏ kim loại màu trắng sáng, trên mặt trước chiếc bật lửa có khắc vài chữ tiếng Anh, khi đó tôi không hiểu nó nghĩa là gì, nhưng sau này mới biết đó là tên nhẫn hiệu bật lửa Zippo. Tôi bật thử vài cái, khi cảm thấy ngọn lửa đã vừa tầm, tôi mới nhờ chị hơ đều lên thân khóa, đúng theo thuyết “hỏa sinh kim”.
Sau đó, tôi lấy trong bọc ra một chiếc kim vót bằng gỗ anh đào. Nó là một loại gỗ rất chắc được lấy từ Nhật Bản, đuôi kim nhô ra một đầu tròn, rất giống chiếc trâm cài đầu của phụ nữ ngày xưa, nghe nói loại kim này bắt đầu được phái Kiện môn sử dụng từ cuối nhà Đường, thời bấy giờ nó được Dương Quý Phi sử dụng làm trâm cài tóc, nên người xưa còn gọi nó là trâm Quý Phi. Tôi dùng nó để gắp thạch cao ra, cũng vừa ứng với thuyết “mộc sinh thổ”.
Tiếp theo là thuyết “thổ sinh thủy”. Quanh chúng tôi đâu đâu cũng chỉ là đá, tìm đâu ra đất bây giờ? Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cũng nhìn tới ngó lui từng ngóc ngách hi vọng tìm ra chút đất, nhưng kết quả đến một nhúm cũng không có. Mặc dù hành cung được xây dựng từ rất lâu rồi, thế nhưng bề mặt vẫn láng sạch tinh tươm, thậm chí đến một hạt sạn cũng không có thì lấy đâu ra đất?
Chúng tôi đang suy nghĩ tìm cách giải quyết thì Lão Ngũ bỗng vỗ đánh đét, nụ cười đầy vẻ tinh quái, lão nói:
- Không phải là không có đất, nhưng sẽ hơi bẩn một chút đấy. – Nói rồi lão thò tay vào trong áo, giơ nách gãi gãi vài cái rồi xòe bàn tay ra, trong kẽ tay bám đầy những cục ghét đen sì.
Tôi nhăn mặt, mím chặt môi, không dám chạm vào chúng, vừa nhão vừa nhơn nhớt lại còn bốc mùi thum thủm, chỉ muốn phát mửa.
Lão Ngũ vẫn đứng bên cạnh nói thêm vài câu vẻ rất khoái chí:
- Đây là vảy rồng của Lão Ngũ đấy, bình thường muốn lấy cũng không cho đâu.
Tôi lè lưỡi, phục sát đất lão, không biết lão nghĩ gì mà gọi đấy là “vảy rồng”.
Quan sát thấy đầu ổ khóa đã bị hơ nóng đỏ lên, tôi mới vê “vảy rồng” thành từng cục nhỏ, lần lượt nhét vào những khe hở nơi tám thanh then nối với thân khóa, rồi dùng đầu trâm Quý Phi cào nhẹ lên đó. Kim loại gặp lửa sẽ dãn nở ra, khiến các đường khe cũng nhờ thế mà to hơn, nên việc nhét “vảy rổng” của Lão Ngũ vào cũng dễ dàng hơn.
Tôi thay một chiếc kim loại khác cào lên thân khóa, cảm giác như dung dịch thủy ngân khi gặp “vảy rồng” đã dừng chuyển động. Trong lòng tôi mừng thầm, lập tức tăng lực tác động lên cây kim cào mạnh thân khóa, thúc cho sợi dây da lừa từ từ cuộn vào đường xoắn ốc trên tám thanh then. Khi cảm thấy sợi dây đã cuộn chặt vào thanh then, tôi dùng một chiếc kim khác thắt tám đầu sợi dây da lừa thành một nút thật chặt, rồi không ngừng kéo ra, đồng thời dùng một chiếc kim khác cào mạnh lên thân khóa.
Hai tay tôi liên tục thao tác mở khóa, cứ như vậy khoảng năm mươi phút, thì bỗng nghe thấy tiếng động lách cách từ trong lõi vọng ra, đó chính là tiếng đường xoắn ốc bị nới lỏng. Tôi lập tức thả chiếc kim đang cầm trên tay trái, và miết tay lên thân khóa, tay phải vẫn cầm chiếc kim từ từ cậy thanh then tối, khiến chúng nhô lên khỏi bề mặt khóa. Cứ như vậy cho tới khi thanh then thứ tám cuối cùng cũng nhô lên, một tiếng “keng” vang lên, then sắt rơi xuống mặt sàn, để lộ ra tám lỗ nhỏ vuông vức trên thân khóa.
Tôi lấy kính chuyên dụng ra, nheo mắt nhìn thẳng vào bên trong, quả nhiên bên trong đó là một chiếc hộp sắt nhỏ, trên mặt có hai miệng lỗ hình vuông, bị bịt chặt bởi lớp thạch cao màu trắng, tôi đoán chắc rằng trong chiếc hộp đó chứa đầy dung dịch thủy ngân.
Tôi dùng đầu kim men theo đường khe để cậy lên, dần dần cuối cùng cũng mở được hai bánh răng trên thanh then sáng. Cạch! Cả thân khóa rơi xuống sàn đá, chỉ còn lại thanh then móc lủng lẳng trên cửa. Vậy là, chiếc khóa Thập diện mai phục coi như đã mở xong.
Lão Ngũ đá thân khóa rơi cạnh chân mình sang một bên, nói:
- Nhóc con, khá lắm, đến khóa Bá Vương mà cũng không cản được mi. Hay đây, hay đấy!
Tôi liền tỏ vẻ đắc ý, chọc chọc chiếc kim lên thanh then, định tháo chúng ra rồi mở cánh cửa để vào bên trong.
Thế nhưng, thật kỳ lạ, mặc dù thanh then đã tuột khỏi thân khóa, nhưng rơi xuống chừng một đoạn thì nó dừng lại treo lơ lửng trước cánh cửa, lắc qua lắc lại va cả vào cánh cửa phát ra âm thanh lục cục, rồi lại từ từ được kéo lên, giống như được nối với một sợi dây cao su vô hình vậy.
Cả ba chúng tôi đều hết sức ngạc nhiên, vội vàng ngồi sụp xuống để quan sát. Lão Ngũ vội tóm thanh then lại để nhìn rõ hơn mặc dù biết thừa nó vẫn còn bỏng rát, thì ra thanh then dính chặt vào mặt trong của cánh cửa bằng sợi dây tơ mỏng đến nỗi khó có thể nhận ra, để đánh lừa người mở khóa lúc không để ý.
- Lại trò gì nữa đây? – Lão Ngũ ra sức kéo sợi dây nhưng nó cứ thế giãn dài ra gấp nhiều lần. – Ái chà, hay đấy, hay đấy… - Lão vừa nói vừa bước lùi ra đằng sau, sợi dây cũng bị kéo mỗi lúc một dài hơn, nhưng không hề bị đứt mà chỉ nhẹ nhàng giãn ra bay phất phơ.
Lão Ngũ vừa thả tay ra, thân khóa liền rơi đánh cạch xuống mặt sàn, ngay sau đó thân khóa dựng thẳng dậy dịch chuyển dần về phía cánh cửa, hai sợi dây tơ kia cũng từ từ co lại.
Tôi thấy vô cùng kỳ quái, hùng hổ bước tới cánh cửa ra sức kéo đẩy nhưng cánh cửa sắt vẫn không một chút nhúc nhích, vẫn đứng lừng lững trước mặt tôi. Tôi suy nghĩ một lúc, rồi lôi chiếc kim ra, cào sâu vào đường khe trên cánh cửa, đầu kim đi qua một khoảng không ở giữa, rồi mới bị chặn lại bởi một bề mặt bằng đá tít sâu bên trong.
Lão Ngũ tỏ vẻ thiếu kiên nhẫn, tung người đạp mạnh chân lên cánh cửa.
- Tránh ra, tránh ra để ta thử mở xem sao! – Lão đạp mạnh lên cánh cửa khiến tôi có cảm giác mặt sàn bên phía dưới chân mình bỗng rung lên bần bật, nhưng ngay lập tức dừng lại.
Đang lúc chán nản, thì chị Giai Tuệ đứng đằng sau bỗng hét to.
- Mọi người nhìn lên tường xem!
Tôi lập tức hướng mắt nhìn lên bốn phía.
Không biết tự khi nào, ba bức tường sau lưng chúng tôi đã xuất hiện những đốm nhỏ màu trắng bạc, ban đầu nó chỉ là những điểm thưa thớt, nhưng sau đó xuất hiện dày đặc hơn, giống như một bầu trời đầy sao, chúng càng ngày càng lớn dần lên và khuếch tán một cách nhanh chóng, chỉ trong phút chỗ, cả bức tường đã biến thành một màu trắng bạc sáng loáng. Hình bóng của chúng tôi khi đó bị chia thành hàng trăm, hàng nghìn hình ảnh nhỏ xíu, lại còn không ngừng uốn lượn biến hình, giống như chúng tôi đang đứng trong ngôi nhà gương vậy.
Lão Ngũ tiến sát lại gần bức tường gương, lập tức lão nhảy dựng ra sau, hét toáng:
- Mẹ kiếp! Thủy ngân! Khi nãy ta đá vào khóa nên giờ nó bắt đầu chảy ra rồi.
Nghe đến thủy ngân bị rò, tôi hốt hoảng sợ hãi lùi người ra sau, dựa sát lưng vào cánh cửa sắt, rồi bịt chặt mũi, vì sợ bị nhiễm độc. Tôi hãi hùng nhìn dòng thủy ngân từ phía trong bức tường rò ra ngoài, chảy tràn xuống mặt sàn rồi từ từ tiến về phía chúng tôi, giống như dòng thủy triều đang dâng vội vã.
Lão Ngũ giậm chân giục giã, hối thúc tôi mau mở cánh cửa, dư vị chết chìm trong dung dịch thủy ngân không hề dễ chịu tẹo nào đâu. Tôi cũng cuống cuồng, nhưng tìm khắp mọi góc trên cánh cửa không thể nào tìm ra lỗ khóa. Trong lúc đang hốt hoảng tôi chợt nghĩ ra hai sợi dây kia, liệu có điều kì diệu xảy ra không?
Nghe thấy tôi nói vậy, chị Giai Tuệ lập tức lao tới giẫm chân lên sợi dây, kế đó dùng một con dao nhỏ chuyên dụng lấy hết sức mình cứa mạnh lên sợi dây. Ken két, ken két… Đến mặt sàn đá còn tóe ra tia lửa, vậy mà hai sợi dây tưởng chừng rất mỏng manh kia vẫn không hề sứt mẻ gì.
Lão Ngũ giọng hơi run run.
- Mẹ kiếp, là… là… sợi tơ bà bà. Nhanh cắt chúng đi, hãy dùng chiếc hộp tích lực ấy.
Mặc dù không biết “sợi tơ bà bà” là cái gì, nhưng giờ không phải là lúc hỏi, tôi lập tức lấy chiếc hộp tích lực ban nãy dùng để cắt sợi dây tơ đính viên ngọc bạc trên tường Quy Tàng. Tôi nhanh chóng đặt sợi dây da lừa lên lưỡi răng cưa, cuốn quanh một sợi tơ rồi lấy hết sức xoay nút lên dây cót. Phải ra sức xoay một lúc sau, sợi tơ mới đứt phựt, thế nhưng sợi dây da lừa cũng không còn trụ được lâu.
Tôi quay đầu lại, cả hành cung đá bỗng chốc như biến thành phòng chứa thủy ngân, dung dịch lóng lánh ấy chảy lan khắp mọi nơi, chỉ còn cách chân chúng tôi đứng rộng chừng hai mét vuông là chưa bị tràn tới, nhưng diện tích đó ngày càng bị thu hẹp lại.
Tôi vội vàng thay một sợi dây da lừa khác, để cắt sợi dây tơ còn lại. Khi sợi dây còn lại vừa đứt, tôi liền nghe thấy một âm thanh nhẹ phát ra, chiếc cửa sắt bỗng nhiên bung mở vào bên trong. Do không chú ý, tôi đã bị cánh cửa va vào, loạng choạng suýt ngã xuống dòng dung dịch thủy ngân đang lan tới phía sau.
Thấy người mình sắp ngã ngửa ra phía sau, tôi hốt hoảng thốt ra một tiếng “mẹ kiếp”, trong lúc chới với, hai tay tôi khua khoắng loạn lên. Lão Ngũ cực kỳ nhanh nhẹn, vội giơ tay tóm lấy tôi, rồi đẩy chị Giai Tuệ, quát lớn:
- Chạy, chạy nhanh đi! – Rồi cả ba chúng tôi vội bước qua cánh cửa sắt vừa mở được một nửa, chạy thục mạng vào bên trong.
Phía sau cánh cửa lại là một đường hầm bằng đá rất hẹp, bốn bức tường vuông vức, chạy thẳng tắp và hơi nghiêng về phía trước. Mới chạy được vài bước, tôi đã cảm thấy bước chân nặng nề như đang chạy trên một lớp keo dày, đi chưa được bao xa mà đã thấy quá mất sức.
Tôi quỳ xuống nhìn kỹ lại một lượt, mặt sàn như được phủ một lớp nhựa dẻo trong suốt, phản chiếu ánh sáng lấp lóa. Tôi thử sờ tay lên đó, cảm giác nó mềm và dính giống như kẹo kéo, thậm chí còn có mấy sợi tơ mỏng manh vương trên đầu ngón tay, đích thị đây chính là những sợi tơ bà bà.
Lão Ngũ lẩm bẩm câu gì đó, rồi nhổm người dậy lôi chiếc gương Dạ Minh ra soi lên hai bên tường và phía bên trên đỉnh đầu. Tôi thấy cả bốn phía đều một màu trắng đục, chăng đầy những sợi tơ bà bà, thì ra cả bốn bức tường của đường hầm đều bị lớp lớp sợi tơ bọc kín.
- Bà nó chứ, rơi đúng vào động bàn tơ rồi! – Lão Ngũ vừa lẩm bẩm chửi vừa cúi xuống nhấc đôi giầy lên. Tôi thấy tò mò nên dùng đầu kim gẩy lên vài sợi, thấy chúng mỏng manh chẳng khác những sợi tơ nhện bình thường là mấy.
Tôi đang định quay sang hỏi Lão Ngũ thực hư sự tình thì chị Giai Tuệ bỗng lên tiếng nhắc nhở:
- Lão Ngũ, chúng ta nên đi nhanh lên, một chút nữa là thủy ngân sẽ chảy vào trong này đấy.
Tôi hốt hoảng quay lại phía sau, thấy bậc cửa cũng tương đối cao, nên tôi cũng an tâm phần nào, để thủy ngân chảy được tới đây chắc cũng phải mất nửa ngày.
Không thể nào! Tôi dụi dụi mắt, thật không thể tin được! Cả khung cửa lẫn bậc cửa giờ đã biến sang màu trắng sáng giống như được khảm bạc, chỉ trong nháy mắt, đầu bên kia đường hầm đã biến thành một chiếc ống bạc, cả bốn bức tường cũng nhuộm mình trong màu trắng sáng lấp lánh của thủy ngân và chúng đang lao về phía chúng tôi với tốc độ chóng mặt. Cảnh tượng diễn ra trước mắt tôi giống như tất cả mọi vật xung quanh bỗng dưng bị đóng băng đột ngột.
Lão Ngũ vỗ mạnh lên đùi, hốt hoảng nhảy dựng lên.
- Mẹ kiếp! Chạy! – Lão thúc mạnh chúng tôi tiếp tục lao về phía trước, lực đẩy quá mạnh khiến tôi ngã dúi về phía trước.
Tôi lập tức đoán ra, dòng chảy thủy ngân này không dâng lên, mà nó men theo bốn bức tường để vào đây. Trời ơi! Vậy thì loại thủy ngân này là sinh vật sống có chân hay sao? Tại sao lại không chảy dưới mặt đất?
Thấy tôi vẫn ngơ ngác, chị Giai Tuệ liền kéo tôi chạy về phía trước, gần như lấy hết sức vừa chạy vừa đẩy lưng tôi, thế nhưng Lão Ngũ chạy sau cùng vẫn không ngừng thúc giục.
- Nhanh lên, nhanh lên… sắp chảy tới nơi rồi, sắp tới nơi rồi…
Do mặt sàn dưới chân quá dính, nên khi giẫm chân xuống phải dùng một lực mạnh mới có thể rút được chân lên. Tôi cắm đầu cắm cổ chạy miết, mệt đến đứt hơi, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, thở hồng hộc bằng mồm, thế nhưng càng cố sức càng chạy chậm đi.
Lão Ngũ có vẻ rối trí thực sự, nên khi chạy vượt qua tôi, lão cầm lấy tay tôi kéo cật lực, lại thêm chị Giai Tuệ đẩy từ phía sau lưng, tôi mới chạy nhanh hơn một chút.
Đường hầm thẳng tắp chạy hun hút về phía trước, không có một lối quặt hay ngã rẽ, và cũng không biết được chúng tôi còn phải chạy như vậy trong bao lâu nữa. Tôi vài lần tò mò quay đầu lại phía sau xem xét, nhưng mỗi lần quay lại đều khiến tôi sợ hãi vô cùng, dòng thủy ngân đó như đang rượt đuổi chúng tôi, chúng lan nhanh chóng trên tường, chỉ cách chúng tôi khoảng hơn chục mét, còn phát ra một thứ âm thanh rất lạ giống như đang có một đàn côn trùng đang tập hợp lại đây. Đoạn đường hầm phía sau gần như đã biến thành một ống bạc lớn đang phát ra những tia sáng long lanh.
Chạy thêm hơn chục phút nữa, tôi thấy mình mệt tới mức không thể nhấc nổi chân lên, đầu óc đau tới mức như muốn nổ tung, toàn thân không còn một chút sinh lực. Lúc này tôi gần như phó mặc cho hai người họ xô đẩy về phía trước. Bỗng nhiên, tôi chợt cảm thấy mặt đất dưới chân mình như cao dần lên. Tôi sung sướng hét to:
- Hay… quá, nâng… lên rồi!
Lão Ngũ nói mà không quay đầu lại:
- Hay cái con khỉ, tới miệng hầm rồi!
Không chờ cho tôi kịp phản ứng, Lão Ngũ bỗng dưng dừng phắt lại, hai chân đạp mạnh xuống mặt sàn vài cái, rồi quay đầu lại nhìn chúng tôi với vẻ mặt dữ tợn:
- Hai đứa, nắm chặt lất tay ta, chúng ta cùng bơi thôi!
Tôi ngồi thụp xuống, há miệng thở dốc, ngẩng đầu nhìn về phía trước, toàn thân phút chốc lạnh toát. Đúng là chúng tôi đã chạy đến miệng hầm, thế nhưng trước mặt chúng tôi lại là một tảng đá lớn màu đen dựng sừng sững, bịt kín lối đi phía trước. Tôi vội vã nhìn lại phía sau, dòng thủy ngân vừa đúng lúc lan tới đoạn dốc vừa xong, cách chúng tôi chừng hai mươi mét thì dừng lại. Điều kỳ lạ là ở chỗ, chúng không hề lan tới nữa, nhưng lại từ từ dầy lên, rồi hòa vào nhau thành một đám, tạo nên những bong bóng rất lớn, khi bị vỡ, chúng phát ra tiếng lục bục.
Tôi vừa sợ hãi vừa rối trí, lập tức đứng phắt dậy, cầm tay Lão Ngũ lắc mạnh.
- Lão Ngũ, làm thế nào bây giờ? Lão hãy nghĩ cách đi.
Đôi ngươi Lão Ngũ không ngừng đảo ngược xuôi trông rất lung, kế lão chán nản và thất vọng buông một câu:
- Chẳng còn cách nào nữa.
Rồi quay lưng bước tới hòn đá tảng phía trước lần xét thật kỹ. Chị Giai Tuệ cũng bước tới cùng quan sát, hy vọng tìm ra manh mối để mở hòn đá.
Tôi đứng bên cạnh, mắt không rời khỏi dòng thủy ngân đang sôi ùng ục cách đấy không xa, chỉ sợ chúng lan tới.
Bỗng nhiên, Lão Ngũ quát to:
- Nhanh nhanh nhanh, lùi ra đằng sau!
Chị Giai Tuệ kéo tôi lùi ra sau vài bước, đứng chắn trước tôi. Lão Ngũ lại lôi chuỗi vòng Ô Kim ra, hai tay kéo sang hai bên, sau một tràng tiếng lách cách vang lên, chuỗi hạt đã biến thành một đoạn dây xích, sau đó dồn lực lên cánh tay phải cầm sợi xích vừa hét lớn vừa vung mạnh cánh tay. Sợi xích vẽ nên một vệt sáng đen rồi đập mạnh vào tảng đá, tạo ra một vệt nứt dài trên bề mặt. Rồi cứ thế lão lại vung tay lần thứ hai, thức ba…. Tại khe giữa tảng đá dần dần tạo thành một đường rãnh sâu. Lão Ngũ vẫn ra sức quất mạnh sợi xích vào như lão có mối hận thù sâu đậm với nó. Lực mỗi lúc một lớn hơn, những mảnh đã dăm văng ra tứ phía.
Chị Giai Tuệ thấy không an toàn liền quay người sang đưa tay lên bịt mắt tôi, nhưng qua đường kẽ tay của chị tôi vẫn nhìn rõ lần cuối cùng Lão Ngũ vụt chuỗi dây xích vào tảng đá, vết rãnh kia tách đôi ra, để lộ ra một đám lúc nhúc những cục thịt nhỏ màu trắng muốt, còn ứa ra dịch mủ màu xanh lá cây đậm, nhỏ tí tách xuống mặt sàn.
Lão Ngũ lùi bước, tay xoa cằm, bật một nụ cười lạnh lùng.
- Mẹ kiếp, đúng là bọn giòi bọ thối tha. Hay đấy, hay đấy!
Tôi kinh hãi, nắm chặt tay chị Giai Tuệ bước tới gần để quan sát, nhìn thấy cảnh tượng này tôi sợ đến sở da gà. Thì ra phía sau tảng đá kia không phải là những viên thịt mà chính là những con sâu lớn màu trắng, chúng nhung nhúc trườn đè lên nhau, nhiều vô kể, mỗi con to chừng ngón tay cái, dài gần bằng chiếc bút chì. Lớp ngoài cùng có vài chục con bị chuỗi dây xích chém phải nên bị đứt đôi, dòng mủ màu xanh lá cây kia chắc là dịch thể trong người chúng tiết ra.
Nhìn kỹ lại, tôi thấy thân những con sâu kia giống như ống dẫn nước của máy giặt với những đường gân xoắn xung quanh ống, phần thân lại mọc ra rất nhiều những cái chân ngắn không ngừng cựa quậy, giống như chân rết, phần đầu có hai hạt màu đen sáng long lanh, hơi nhô ra ngoài, chắc là hai mắt, cạnh đó là chiếc mồm dẹt xấu xí đang nhả ra sợi tơ phóng thẳng vào trong tường.
Tiếng nhả tơ lạo xạo của chúng khiến tôi nghe đến rợn người, vội quay sang hỏi Lão Ngũ đây là con gì. Lão cười khùng khục và nói đây chính là tầm ngũ sắc, nó được Hoàng Đạo bà bà nuôi nên người ta gọi nó là Trùng bà bà.
Tôi không biết Hoàng Đạo bà bà là ai, liền hỏi chị Giai Tuệ. Chị Giai Tuệ kể rằng bà là người gốc Thượng Hải, làm nghề dệt vải. Tôi lại thắc mắc là tại sao nghề dệt vải lại có liên quan trong chuyện này?
Lão Ngũ nhìn chằm chằm vào đám tằm ngũ sắc mà nói:
- Nói về Hoàng Đạo bà bà này còn lưu truyền lại một câu chuyện nữa đó là, từ khi còn là thiếu nữ bà ta đã tới miền Nam Phúc Kiến để học nghề, rồi mang theo loại tằm của vùng đó về quê hương nuôi, qua nhiều lần lai tạo đã tạo ra một loại tằm khác.
Đừng chỉ có quan tâm tới vẻ ngoài xấu xí, mà hãy quan tâm đến loại tơ đặc biệt do loại tằm này nhả ra, nó thậm chí còn có độ bền chắc không dễ gì cắt được, câu thành ngữ tơ trời không đứt cũng chính từ đây mà ra… - Nói rồi lão liền nở nụ cười khóa chí. – Tơ trời không đứt, loại hoạt bảo được lưu truyền qua nhiều đời nay, vậy là chúng ta đã may mắn được tận mắt chứng kiến, hay đấy, hay đấy!
Lão Ngũ còn nói với chúng tôi, giờ đây người ta hay nhắc đến từ “hoạt bảo”, nhưng thực ra từ này đã được dùng từ thời cổ đại với ý nghĩa là bảo bối sống. Trong truyền thuyết, miền Bắc và miền Nam mỗi nơi đều có một hoạt bảo. Miền Bắc là cây Bất tử, gỗ của loại cây này có khả năng hồi sinh, nên không bao giờ diệt được nó. Miền Nam chính là loại tằm ngũ sắc này, loại tơ chúng nhả ra cũng không thể nào tiêu hủy nổi. Thế nhưng hai loại bảo bối này vốn chỉ được lưu danh trong giới giang hồ vài trăn năm nay mà chưa có ai được tận mắt chứng kiến, hóa ra chúng ở dưới lòng đất của Cố Cung, vậy thì loại cây bất tử kia chắc cũng là có thật, coi như ba ông cháu chúng tôi đã được mở mang đầu óc.
Nghe Lão Ngũ giải thích, trong lòng tôi chợt nhớ ra: Hoạt bảo, chẳng phải hồi nhỏ ông nội hay gọi tôi là “hoạt bảo” hay sao, xem ra nó cũng có một ý nghĩa rất đặc biệt.
Lão Ngũ vỗ tay lên bức tường bên trái, cắn răng nói:
- Mẹ kiếp, đúng là rơi vào động bàn tơ rồi, ta đoán rằng phía sau này cũng có không ít loại tơ như thế. Thằng khốn độc địa nào tạo ra động này không những nuôi bọn sâu bọ thối tha này ở sau bức tường mà còn dùng khóa Bá Vương để khóa lại bên ngoài, rồi hút những dòng thủy ngân chạy tới, quả thật là quá cao tay.
Tôi nghe mà thấy đầu óc mơ hồ như đang nghe truyện thần thoại vậy, tưởng chừng những thứ này chỉ có thể xuất hiện trong Tây du kí mà thôi. Trong đầu tôi bỗng vụt ra một câu hỏi, đã qua bao nhiêu năm rồi, vậy thì những con tằm này chúng ăn gì để sống?
Nghe câu hỏi của tôi, Lão Ngũ vừa lạnh lùng vừa đáp:
- Chúng ăn thịt! – Nói rồi lão kéo tôi bước gần tới nhìn cho rõ.
Tôi hoảng hốt phát hiện ra, những con tằm bị thương đang bị những con còn lại bâu tới ăn thịt, chúng đau đớn kêu lên, cả thân quằn quại lăn trườn cố thoát ra, nhưng chỉ một lúc sau chúng đã bị ăn sạch tới nỗi cả những sợi tơ chúng nhả ra cũng bị nuốt trọn, nhìn thấy cảnh tượng trên, tôi dựng cả tóc gáy.
Chị Giai Tuệ kéo tôi tới gần, rồi hỏi Lão Ngũ làm thế nào để thoát ra, liệu có phải khoét lỗ trên tường không?
Lão Ngũ suy nghĩ một lúc, rồi bảo chị Giai Tuệ lôi chiếc bật lửa ra, đốt nóng góc tường bên phía tay trái. Những đám tơ ngũ sắc càng bị hơ nóng thì càng trắng bệch ra, dần biến thành trong suốt và phát sáng, nhưng không thấy dấu hiệu bị đứt đoạn. Khi ngọn lửa lan đến đám tằm ngũ sắc, lập tức phát ra âm thanh xì xèo như đang xào nấu, một lúc sau tỏa ra mùi thịt nướng khét lẹt. Những con tằm phía ngoài vội vàng bò vào trong, những con không kịp chạy đã bị lửa đốt cháy biến thành màu vàng nhạt, rồi co thành một dúm rơi xuống mặt sàn, nhưng những sợi tơ trong bụng chúng vẫn dính chặt trên tường.
Lão Ngũ bật cười khoái chí, nói:
- Ha ha, mẹ kiếp! Hoạt bảo thì cũng là sinh vật sống. Chúng sợ lửa, vậy thì cũng dễ giải quyết thôi. – Nói rồi lão bảo tôi và chị Giai Tuệ đứng lùi ra xa, vung mạnh chuỗi Ô Kim quật vào bức tường, tạo thành một khe nhỏ, giờ mới nhìn được hết phía sau, những con tằm ngũ sắc chi chít dày đặc, cũng không đếm xuể là bao nhiêu con, chỉ thấy đầu đuôi chúng chen chúc lên nhau, nhung nhúc cử động, nhìn đã thấy buồn nôn.
Lão Ngũ bảo chị Giai Tuệ lôi ra vài viên đạn, rồi dùng mũi dao tách vỏ đạn ra, lấy thuốc nổ bên trong rắc lên trên chốc đám tằm ngũ sắc, dùng một nhúm vải cuộn chặt, châm lửa ném vào trong.
Một tiếng nổ vang lên, đám tằm ngũ sắc lập tức bị thiêu rụi bởi một ngọn lửa màu xanh lam, chúng kêu lên rin rít, rồi tự co rúm lại thành một nhúm rơi xuống mặt đất. Những con thoát được thì bò sát vào phía trong bám chặt lên tường, khi ngọn lửa lụi tắt, tôi thấy miệng khe đang dần dần mở rộng ra. Mùi thịt nướng tỏa ra thơm nức, khiến tôi phải bịt chặt mũi, vì cảm thấy mình đã bắt đầu đói.
Nhìn một lúc, Lão Ngũ vỗ lên hai vai đứa chúng tôi, cười vang và nói:
- Thế nào, hai nhóc, nếu không sợ bẩn thì đi vào trong đó với ta. – Nói rồi, lão tiến thẳng vào bên trong.
Tôi nhìn chị Giai Tuệ với ánh mắt sợ hãi, trong lòng không khỏi lo lắng vào trong đó nhỡ bị lũ tằm ngũ sắc đó ăn thịt thì làm sao? Chị Giai Tuệ vẫn giữ vẻ điềm nhiên, an ủi tôi vài câu rồi kéo tay tôi từ từ bước vào trong.
Phía sau bức tường đá là khoảng không gian trống trải, nóng hừng hực giống như đang đứng trong lò nướng vậy, khói trắng bay cuồn cuộn khắp nơi, dày đặc tới mức không thể nào mở mắt ra. Tằm ngũ sắc bị cháy sẽ tiết ra chất dầu, khiến cho ngọn lửa càng cháy mạnh, không thể nào dập được, những con tằm tránh lửa càng lùi về phía sau, hang càng đi càng thấy sâu, chúng tôi tiến thẳng về phía trước chừng hơn hai mươi mét, mà vẫn chưa tới được miệng hang.
Những xác tằm cháy lép bép dưới chân khiến tôi vừa sợ hãi vừa cố liều mình bước tới trước, Hoàng Đạo bà bà kia vốn là người miền Nam, còn Thẩm Dương lại ở miền Bắc, vậy hàng ngàn con tằm ngũ sắc này từ đâu ra? Đang miên man suy nghĩ thì chợt nghe Lão Ngũ hét dừng lại, tôi vội quay sang nhìn theo hướng tay lão chỉ.
Trước mắt chúng tôi, ngọn lửa vẫn đang bùng bùng cháy, nhưng không biết vì sao, những con tằm ngũ sắc kia biết là sẽ bị thiêu cháy mà vẫn không hề nhúc nhích, thậm chí còn bám chặt vào ngọn lửa. Trên tường hang chi chít những lỗ nhỏ bằng đầu ngón tay, một đám tằm ngũ sắc còn nhiều hơn lúc nãy bò ra, theo hàng tiến thẳng tới ngọn lửa như con thiêu thân, dường như chúng đang muốn lấy thân mình lấn át ngọn lửa kia.
Lão Ngũ chửi thề vài câu rồi lập tức lôi mấy viên đạn khác ra, tách lấy thuốc nổ bọc vào mảnh vải rồi ném về phía ngọn lửa, khiến ngọn lửa càng bùng lên dữ dội hơn. Lũ tằm ngũ sắc bị thiêu cháy quằn quại không ngừng nổ lách tách, nghe mà thấy inh tai.
Chúng tôi từ từ ngồi xuống, vừa quan sát vừa thắc mắc không hiểu bọn tằm ngũ sắc kia cuối cùng là bị điên hay do chúng quá ngốc nghếch. Không biết lửa đã cháy trong bao lâu, chỉ thấy rằng xác lũ tằm phủ lên mặt đất một lớp dầy đen sì, những con tằm bò ra ít dần đi. Đang lúc mơ hồ, tôi bỗng nhìn thấy hình như sau đống lửa đang cháy kia có một cái gì đó màu đen.
Lão Ngũ nhảy chồm lên, chửi thề một câu:
- Mẹ kiếp, gặp phải con yêu tinh chúa rồi!
Lúc đó, ngọn lửa đang yếu dần đi, chị Giai Tuệ cầm chiếc đèn soi vào đám lửa, tôi sợ hãi đứng núp vào phía sau Lão Ngũ, thò đầu nhìn qua vai lão. Con vật phía sau ngọn lửa kia màu nâu đậm, có hai đầu nhọn, phần giữa thô và to, hình như nó chính là con tằm chúa, toàn thân nó kéo ra vô số những sợi tơ mảnh và din dít với nhau, đầu còn lại của tằm chúa cắm vào thân tường. Con tằm chúa có vẻ cũng không chịu được nóng nên toàn thân cũng đang run lên. Trên đầu nó chỉ có một con mắt tròn xoe to chừng hai đầu ngón tay, thỉnh thoảng lại nhả ra một sợi tơ, sợi tơ được nhả cũng nhanh chóng bị cháy rụi bởi ngọn lửa trong chốc lát.
Lão Ngũ cười sang sảng, nói với chúng tôi đây chính là nhộng chúa. Con tằm ngũ sắc sau khi nhả hết tơ sẽ chỉ biến thành nhộng chúa mà không biến thành ngài, cả ngày không làm gì khác ngoài nhiệm vụ chính là sinh sản. Có thể là do nóng quá không chịu nổi, nên lũ tằm con mới lao vào đống lửa hi sinh thân mình để cứu lấy nhộng chúa! Lão còn nói thêm, lao vào đám lửa để dập lửa chính là bản năng của loài ngài, bướm đêm, bản năng này được hình thành từ khi chúng còn nằm trong bụng mẹ.
Tôi ngẩn ngơ đứng nhìn lũ tằm con cứ thế lao vào đám lửa mà thấy thương xót cho chúng, lúc trước, khi nhìn chúng ăn thịt đồng loại tôi thấy sao mà quá sức tàn nhẫn, còn giờ đây khi chứng kiến cảnh chúng lao vào lửa hi sinh quên mình để bảo vệ nhộng chúa, mới thấy rằng thì ra loài động vật cũng có tình cảm. Tôi chợt nghĩ tới ông nội, nhớ hồi còn nhỏ ông nội đi đâu cũng ôm theo tôi, vì chỉ sợ tôi sơ sẩy ngã vào đâu đấy, sau này khi tôi đã lớn, mỗi lần trước lúc đi ra khỏi nhà ông đều dặn dò cẩn thận. Nghĩ đến đó, tôi không cầm được nước mắt, quay sang phía chị Giai Tuệ, tôi cũng thấy chị nhíu đầu mày lại như đang có tâm trạng, và không nỡ lòng nhìn sự việc đang diễn ra.
Khi nghe Lão Ngũ nói:
- Đợi đến khi lửa tắt, ta sẽ dùng chuỗi xích này giết chết con nhộng chúa kia, mở đường cho hai đứa mi đi.
Trong lòng tôi bỗng thấy áy náy vô cùng, kéo nhẹ tay áo lão, nói nhỏ:
- Lão Ngũ, chúng ta không giết nó có được không, thôi, lão tha cho nó đi.
Lão Ngũ trợn trừng mắt, đang định nói, thì nhìn thấy hai mắt tôi đỏ hoe giàn giụa nước mắt nên lão suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Thôi được, để xem tình hình thế nào đã.
Chỉ một lúc sau, ngọn lửa bị lũ tằm con kia dụi tắt dần đi, chỉ còn sót lại vài chục con, nhưng cũng bị thương nghiêm tọng, nằm cạnh đống lửa quằn quại trong vô vọng. Mùi thịt cháy khét nồng lên khiến tôi thấy buồn nôn.
Thấy tôi mềm lòng, Lão Ngũ cũng không nhắc đến chuyện giết con nhộng chúa, mà chỉ kéo chúng tôi đi vòng qua nó. Những sợi tơ nhả ra từ con nhộng chúa đan thành một chiếc lưới lớn, ba chúng tôi phải khoét một lỗ ở giữa để chui qua. Con nhộng chúa vẫn đứng yên không nhúc nhích, dường như cũng muốn cảm ơn chúng tôi vì đã tha mạng.
Đi chừng hai mươi mét, chúng tôi lại gặp một bức tường đá màu đen chặn lại, Lão Ngũ tiến đến gần nhìn qua, rồi dùng chuỗi xích đập lên mặt tường vài cái thì thấy có tiếng cộp cộp, có vẻ như bức tường này không dày lắm. Lão nói thêm đây chỉ cánh cửa đá nhô từ dưới lên, chỉ cần tìm ra nơi ổ khóa được cất giấu, là có thể đi qua.
Không lâu sau, tôi phát hiện ra hai lỗ mắt cách nhau chừng vài centimet nằm ở phía dưới chân cánh cửa đá, dùng chiếc kim dài chọc vào bên trong để thăm dò, tôi thấy rằng kết cấu của chúng khá đơn giản, nó gồm hai chiếc bản lề có trục giữa, chúng giao với nhau để đóng chặt cánh cửa lại. Tôi nhanh chóng mở chiếc bản lề, nhưng cánh cửa vẫn nằm im lìm không nhúc nhích, đúng lúc đó con nhộng chúa phía sau chúng tôi bỗng nhiên chuyển động, phát ra tiếng kêu ù ù rất lạ, giống như lũ tằm kia đang cắn kén chui ra.
Lão Ngũ giật nảy người lùi về phía sau vài bước, ngón tay vừa nắm những sợi tơ lập tứ hét lớn:
- Mẹ kiếp, đây chính là cỗ máy liên hợp!
Lão nói thật nhanh về cỗ máy liên hợp vừa nhắc đến, từ căn phòng chứa dung dịch thủy ngân cho đến cánh cửa đá trước mặt đều được nối bằng vô vàn sợi tơ tạo thành một cỗ máy hoàn thiện, còn gọi là cỗ máy liên hợp. Mà mắt xích của chúng lại chính là con nhộng chúa kia, xem ra không giết nó không xong.
Lão Ngũ dùng mũi dao rạch lên thân con nhộng chúa tạo thành một đường dài, rồi cầm hai mảnh da lớn của con nhộng chúa phanh ra. Tôi ngó vào phía trong bụng nhộng chúa thì thấy có một con tằm lớn trắng nõn to chừng cánh tay đang cuộn tròn, bề ngoài giống như củ sen, thế nhưng điều đáng sợ là ở chỗ, trên thân nó móc đầy những vòng tròn bằng sắt màu bạc to bằng chiếc nhẫn, chúng móc lại với nhau, và chỉ nhô ra ngoài một nửa. Những sợi tơ được giăng ra từ bên trong chiếc vòng sắt, đâm xuyên qua thân nhộng chúa và bức tường đá.
Chứng kiến cảnh tượng trên khiến tôi vô cùng choáng váng, đây chẳng phải chính là chiếc khóa tơ vòng, là một loại khóa kết hợp giữa tơ và khóa vòng hay sao? Thế nhưng thật không ngờ tới, nó lại được giấu trong bụng của con nhộng chúa này. Vậy là bao nhiêu năm nay, con tằm này bị xích lại bằng những vòng sắt, phải nằm đây chịu tội, thật quá dã man, không biết kẻ thất đức nào đã gây ra tội ác này. Trong đầu đang chồng chất những suy nghĩ, thì tôi thấy con tằm trong bụng nhộng chúa ngẩng đầu lên hướng về phía tôi, đầu không ngừng lắc qua lắc lại, đôi mắt to bằng hạt lạc long lanh nhìn thẳng vào mắt tôi như van xin tôi hãy giải thoát cho nó khỏi nỗi đau về thể xác.
Lão Ngũ vỗ vai giục tôi nhanh chóng giải quyết. Tôi cau mày, dồn hết sức tập trung của mình vào lưng con tằm, đưa tay lôi một vòng xích lên, con tằm dường như sợ đau nên cũng rung mình. Tôi nhẹ nhàng vuốt ve để trấn an nó. Quan sát một lúc tôi phát hiện chiếc khoa tơ vòng này vô cùng phức tạp, vô số những sợi tơ xuyên qua những chiếc vòng nối chúng lại, rồi móc chặt lên lưng con tằm, nếu để tháo từng cái một thì không biết sẽ phải mất bao lâu, chỉ còn cách giết con tằm đi, nhưng tôi nỡ lòng nào giết nó đây?
Đang lúc còn do dự, chị Giai Tuệ bỗng hét lên bên tai tôi:
- Thủy ngân! – Tôi vội vàng ngẩng đầu nhìn lên. Trời ơi! Không biết từ bao giờ dung dịch thuỷ ngân đã lọt qua khe đá chảy vào trong này, chỉ còn cách chúng tôi khoảng tám chín mét, mặt đất giờ đã phủ đầy dung dịch màu xám.
Tôi sợ hãi tới mức tay run lên cầm cập, vô ý giật mạnh chiếc vòng sắt khiến con tằm quằn quại đau đớn, dòng thủy ngân phút chốc đã tiến vào thêm vài mét. Con tằm dường như cảm nhận được mối nguy hiểm nên lập tức nằm yên, dòng thủy ngân cũng theo đó dừng lại.
Tôi nuốt nước bọt, trong lòng rối như tơ vò, phải làm sao bây giờ? Nói thật tôi không muốn giết con tằm kia chút nào, thế nhưng không giết nó thì chúng tôi sẽ mãi bị nhốt ở đây không ra được.
Thấy tay tôi lóng ngóng, Lão Ngũ rút chuỗi xích Ô Kim ra, vừa vung lên vừa nói:
- Nhóc con, tránh ra. Không giết nó thì ra không thoát ra được đâu.
Chị Giai Tuệ cũng nắm chặt hai vai tôi, an ủi:
- Lan Lan, để Lão Ngũ xử lí đi, con tằm đó cũng đã phải chịu đau đớn hàng trăm năm như thế là đủ rồi, giờ ta phải giải thoát cho nó thôi.
Trong lòng tôi vô cùng đau xót, nước mắt chỉ chực trào ra, tôi đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve đầu con tằm rồi nói nhỏ với nó:
- Tằm ơi, xin lỗi! – Nói rồi tôi mím chặt môi, từ từ quay đầu bước ra sau.
Lão Ngũ lập tức vung chuỗi xích Ô Kim, trong nháy mắt đập mạnh lên đầu con tằm. Phựt một tiếng, rồi từ vết thương trên thân con tằm tiết ra dung dịch màu xanh lá cây, sợi xích hoàn toàn chìm sâu vào bên trong.
Tiếng kêu của con tằm thét lên chói tai, toàn thân nó giãy giụa điên cuồng, có vẻ như chưa thể chết được. Ngay lập tức, dung dịch thủy ngân trên bốn bức tường tràn vào, có vẻ như sắp nhấn chìm chúng tôi chỉ trong giây lát.
Lão Ngũ cũng không kịp vụt thêm một lần nữa, vội ném chuỗi xích đi, hét lên:
- Chạy! – Rồi kéo mạnh hai đứa chúng tôi bỏ chạy, thế nhưng chúng tôi đang mắc kẹt bên trong lớp lưới tơ dày đặc, thì chạy được đi đâu chứ?
Đúng lúc đó, con tằm bỗng nhiên ngoi nửa thân người lên, phần đầu vị vụt nát bét vẫn cố vươn về phía chúng tôi. Nhìn thấy chiếc đầu nhầy nhụa dịch xanh lè đang tiến sát đến, tôi giật nảy mình, bất giác đưa tay lên che, sẵn trong tay có chiếc kim dài, đầu mũi kim quay ra ngoài, trong lúc hoảng loạn, tôi nhìn thấy hai con mắt của nó ánh lên tia sáng vàng.
A!... Chiếc kim đã đâm sâu vào trán con tằm, thứ dịch nhơn nhớt xanh xanh bắn đầy lên mặt và lên tay tôi, vị đắng chát, con tằm quay phắt đầu lại, run lẩy bẩy rồi trườn về phía con nhộng chúa.
Mọi việc chỉ diễn ra trong nháy mắt, đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng, không kịp nghĩ đến điều gì, chỉ có cảm giác mọi thứ coi như đã chấm dứt, chỉ còn biết nhắm chặt mắt đợi cho dòng thủy ngân kia tràn đến nhấn chìm mình. Thế nhưng, chỉ một lúc sau, cảm thấy phía dưới chân tôi không có điều gì khác đặc biệt xảy ra, tôi vội mở mắt ra, dung dịch thủy ngân đã đông đặc lại ngay bên dưới chân tôi và càng ngày càng mỏng dần, cứ như dưới mặt đất có một lớp bông khổng lồ đã hút hết đống thủy ngân này đi, tôi vội vàng ngó xung quanh, hai bên tường cũng xảy ra tương tự. Chỉ một lúc sau dòng thủy ngân đã biến mất không để lại chút dấu vết gì. Quay sang nhìn những sợi tơ trong suốt kia thì thấy chúng cũng nhanh chóng biến thành màu đen và mềm oặt rơi xuống mặt đất.
Lão Ngũ vội chạy ra đưa tay khua khoắng sờ soạng lên mọi chỗ trên bề mặt bức tường, hai chân giẫm mạnh xuống đất, nói với vẻ hồ nghi:
- Mẹ kiếp! Vẫn chưa chết. Hay đấy, hay đây!
Tự tôi cũng thấy rất kỳ lạ, rồi nghĩ đến tia sáng vàng vừa nhìn thấy lúc này, vội vàng ngó vào trong bụng nhộng chúa. Con tằm đang nằm cuộn tròn bất động, chết cừng, giữa trán bị xỏ một vòng tròn màu vàng. Tôi đưa tay thận trọng rút chiếc vòng ra, lấy tay áo lau chất dịch bám trên bề mặt, lập tức sửng sốt đến ngây người. Đây thực chất chính là chiếc nhẫn vàng, một mặt rộng một mặt hẹp, bề ngoài nhẵn thín nhưng mặt trong lại khắc chìm vài biểu tượng rất kỳ lạ, không biết nó có nghĩa là gì.
Lão Ngũ giật lấy, rồi lôi thêm mấy chiếc vòng khác trên thân con tằm, chúng thực ra là những chiếc nhẫn bạc rất đỗi bình thường. Lão nghiên cứu một hồi lâu, mới đưa ra kết luận rằng, đây thực ra chỉ là những chiếc nhẫn bình thường, chắc là do người tạo ra cỗ máy này nhét vào đây.
Tôi ngẩn ngơ nhìn xác con tằm đã chết, thấy thật tội nghiệp, nó khiến tôi nhớ ra vài điều. Ông nội đã có lần kể rằng, kết cấu của khóa tơ vòng có rất nhiều dạng, không chỉ có khóa Thiên Cương nối tơ mới có kết cấu kiểu này, mà cả khóa vòng luồn tơ hay khóa xích đều có kết cấu dạng mạng, trong số đó nhất định phải có một mắt xích chính đảm đương vai trò khống chế và điều khiển, còn gọi là điểm then chốt, bình thường người ta hay nói “điểm then chốt” của vấn đề, chính là từ đây mà ra. Phải chăng trước khi chết, con tằm kia đã gắng hết sức ra ám hiệu cho tôi nhìn thấy chiếc nhẫn vàng trên trán, vừa đúng lúc tôi cầm chiếc kim trên tay chọc thủng, nên đã may mắn vượt qua ải này. Nghĩ đến đây tôi lại xúc động rơi nước mắt, cảm thấy con tằm kia quá đỗi cao thượng, nó thà hi sinh thân mình còn hơn giết hại chúng tôi.
Nghe tôi kể lại sự tình, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cũng cảm kích vô cùng, Lão Ngũ còn thở dài nói:
- Con vật cũng có linh hồn, có thể nó đã nhìn thấy mi là người lương thiện, nên trước khi chết còn cố ra hiệu. Chiếc nhẫn này cũng thật cổ quái coi như là một món quá, hãy giữ lấy làm kỉ niệm.
Tôi từ từ nhận lấy chiếc nhẫn đeo vào ngón trỏ, thế nhưng trong lòng lại vô cùng buồn bã, cảm giác như mình vừa gây ra tội lớn. Tôi thành khẩn quỳ xuống, nhẹ nhàng nói:
- Tằm bà bà, cảm ơn người, cháu nhất định sẽ giữ cẩn thận món quà của người.
Lão Ngũ nhìn vào bên trong con nhộng chúa, vừa thò tay vào lôi ra mấy hạt màu đen, vừa giải thích với chúng tôi cái này gọi là phân tằm, thông thường người ta còn có thể dùng chúng làm thuốc, phân của loại tằm ngũ sắc này thì càng quý hơn, nghe nói còn có thể phòng độc.
Tôi đưa tay nhận lấy, nhìn qua thì thấy chúng nhỏ bằng hạt gạo, hình trụ dài, rất cứng, không hôi chút nào thậm chí còn có mùi hương thanh nhã. Lão Ngũ là người cực kì tham lam, lão nhét đầy chúng vào balô của tôi và chị Giai Tuệ, làm xong lão quay ra cười khì rồi nói, đợi sau khi ra khỏi đây sẽ nhồi thành gối, mùa hè nằm ngủ thì muỗi cũng không dám bén mảng tới.
Chúng tôi lại tiến tới tảng đá phía sau lưng xem xét, lần này chỉ cần vỗ nhẹ lên đó vài cái là cánh cửa đá tự động nâng lên. Nhờ ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh, tôi nhìn thấy phía sau đó lại có một đường hầm khác, thế nhưng phía bên trên đỉnh đầu là một hình vòm cung, phía dưới chân là những bậc thang bằng đá xám dốc xuống dưới khoảng bốn mươi lăm độ. Ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh có hạn, nên chúng tôi không nhìn rõ phía dưới kia là gì. Thế nhưng, thật sự không biết sẽ phải làm thế nào, vì một luồng khí trong trẻo và mát lành thổi ngược từ phía dưới lên, xem ra phía dưới kia là một loại máy lọc khí vô cùng kỳ diệu.