Chương 18
Luân Đôn

    
ào thứ tư đầu tiên của năm mới, người ta loan tin phòng tranh Isberwood đã bán bức Daniel trong chuồng sư tử của Peter Paul Rubens với giá mười triệu bảng. Đến thứ sáu, thông tin chấn động này đã bị lu mờ bởi lời đồn đại Isherwood đang chuẩn bị giới thiệu người hùn vốn.
Chính Oliver Dimbleby, khắc tinh của Isherwood ở đường King, là người biết tin này đầu tiên, mặc dù sau đó anh ta cũng không thể nào tìm ra nguồn gốc của tin đồn. Theo anh ta nhớ chính Penelope, bà chủ quán bar gợi cảm ở đường Jermyn nơi Isherwood hay ghé qua trong những buổi trưa nhàn rỗi là người đầu tiên gieo rắc mầm mống tin đồn. “Cô ta tóc vàng”, Penelope nói. “Vàng tự nhiên, Oliver. Không giống những cô gái của cậu. Xinh đẹp. Người Mỹ có một chút giọng Anh”. Ban đầu Penelope nghi ngờ Isherwood đang bị một người phụ nữ trẻ tuổi hơn dụ dỗ, nhưng chẳng bao lâu sao cô ta nhận ra rằng đó chỉ là một người đến dự phỏng vấn xin việc. “Không phải là bất cứ công việc nào đâu, Oliver. Hình như là vụ gì lớn lắm”.
Có lẽ Dimbleby đã không nghĩ nhiều về chuyện này nếu không được nghe kể về cuộc gặp mặt lần thứ hai, lần này là từ Percy, một người hóng chuyện nổi tiếng phục vụ bàn trong phòng ăn sáng của khách sạn Dochester. “Họ chắc chắn không phải là tình nhân”, anh ta bảo Dimbleby với vẻ tự tin của người biết mình đang nói gì. “Họ toàn bàn chuyện về lương và quyền lợi. Họ tranh cãi rất nhiều. Cô ấy đang ra yêu sách đấy”. Dimbleby giúi cho Percy 10 bảng hỏi anh ta có nghe được tên của người phụ nữ không. “Bancroft”, Percy trả lời. “Sarah Bancroft. Đã ở hai đêm. Hoá đơn thanh thoán được phòng tranh Isherwood, ở Mason’s Yard, khu đường James trả toàn bộ”.
Lần gặp nhau thứ ba, một bữa tối ấm cúng tại Mirabelle, khiến Dimbleby khẳng định chắc chắn có chuyện bất thường đang diễn ra. Buổi tối hôm sau anh ta tình cờ gặp Jeremy Crabbe, Giám đốc bộ phận Bậc thầy Thời xưa của Bonhams, tại một quán rượu ở nhà hàng Green. Crabbe đang uống một ly whiskey lớn và vẫn đang gặm nhấm nỗi đau mà vụ mua bán lịch sử của Isherwood gây ra. “Tôi đã có bức Rubens đó, Oliver, nhưng Julie chơi tay trên tôi. Bây giờ hắn giàu thêm mười triệu, còn tôi sắp phải đối mặt với đội bắn súng tử hình lúc bình minh. Hiện tại hắn đang mở rộng làm ăn kinh doanh, thậm chí còn tuyển thêm một nhân viên xinh đẹp, theo như những gì tôi nghe được. Nhưng đừng nói lại với ai những lời tôi nói, chỉ tổ gây hiềm khích mà thôi”. Khi Dimbleby hỏi có phải nhân viên mới xinh đẹp của Isherwood là một phụ nữ tên là Sarah Bancroft, Crabbe nhếch mép. “Chuyện gì cũng có thể xảy ra, tình yêu ạ. Nên nhớ rằng chúng ta đang nói về Julie Isherwood Số Đỏ”.
Trong vòng bốn mươi tám tiếng sau đo,á Oliver dành thời gian dư dả của mình để nghiên cứu lai lịch của cô Sarah Bancroft nọ. Bạn nhậu ở khoa Courtauld mô tả cô là “Sao băng”. Anh ta còn kể một người quen ở Harvard bảo rằng ai có thái độ nghiêm túc với đề tài hoạ sĩ biểu hiện Đức thì nên tìm đọc luận văn của cô. Sau đó, Dimbleby gọi điện cho người bạn cũ làm nghề phục chế các bức họa ở phòng triển lãm Nghệ thuật Quốc gia Washington, nhờ dò la tại bảo tàng Phillips về lí do Sarah Cooft nghỉ làm việc ở đấy. Anh bạn này bảo là do tranh cãi về tiền lương. Hai ngày sau anh ta gọi điện lại cho Dimbleby bảo là do có liên quan đến chuyện yêu đương không thành với người trong bảo tàng. Cú điện thoại thứ ba thông báo Sarah Bancroft rời bảo tàng Phillips trong vui vẻ, và động cơ cô rời chỗ làm là do mong muốn có được một cơ hội việc làm tốt hơn. Còn về cuộc sống cá nhân, ý muốn nói tình trạng hôn nhân, thì cô vẫn độc thân nhưng không quen ai.
Điều này khiến một thắc mắc mới nảy sinh: Tại sao Isherwood lại đột nhiên tìm người hùn vốn? Jeremy Crabbe bảo nghe đồn anh ta bị ốm. Roddy Hutchinson bảo nghe đồn anh ta có khối u to bằng trái dưa mật trong bụng. Penelope, bà chủ quán bar Isherwood hay ghé, bảo nghe đồn anh ta đang yêu một quý bà người Hy Lạp, đã ly dị và rất giàu có, và đang lên kế hoạch sống nốt quãng đời còn lại với người phụ nữ trời ban này tại một bãi biển ở Mykonos. Mặc dù những lời đồn đại này khá vui tai, nhưng Dimbleby nghi ngờ sự thật đơn giản hơn nhiều. Julian đang già đi. Julian đang mệt mỏi. Julian vừa mới làm xong một vụ ngon ăn. Tại sao không nhận người nào đó làm cùng với mình để giúp giảm nhẹ gánh nặng?
Ba ngày sau, những nghi ngờ của anh ta được củng cố khi một mẩu tin nhỏ cuối trang nghệ thuật của tờ Times thông báo rằng Sarah Bancroft, trước đây làm cho bảo tàng Phillips ở Washington, sẽ vào làm cho phòng tranh Isherwood với chức trợ lí Giám đốc đầu tiên của nơi này. “Tôi đã làm nghề tranh được 40 năm”, Isherwood trả lời tờ Times. “Tôi cần người chung lưng đấu cật, và các thiên thần gửi Sarah cho tôi”.
Ngày thứ hai tuần tiếp theo, Sarah Goft đến làm việc. Thật trùng hợp, Oliver Dimbleby đang đi trên đường Duke đúng lúc cô quẹo vào con đường dẫn đến Mason’s Yard. Hôm ấy cô bận áo khoác hiệu Burberry, mái tóc vàng óng ả mượt như sa tanh được cột lại sau lưng. Thoạt đầu Oliver không nhận ra cô là ai, nhưng sự nhạy cảm với nhan sắc không cho anh bỏ qua dễ dàng. Anh ta ngoảnh cổ ngoái nhìn theo cô. Trước sự ngạc nhiên của Oliver, cô đi về hướng phòng tranh Isherwood ở góc xa của khu đất. Ngày đầu tiên làm việc cô phải bấm chuông, và sau hai phút tưởng như vô tận mới thấy Tanya, cô thư ký thờ ơ của Isherwood ra mở cửa. Đây chính là lễ kết nạp của Tanya đối với người mới đến, Dimbleby thầm nghĩ. Anh ta cũng đoán là Tanya sẽ bị đuổi việc trước thứ sáu.
Sarah gây ảnh hưởng ngay lập tức. Sarah là cơn gió lốc. Sarah là luồng gió tươi mát rất cần thiết. Sarah là tất cả mọi thứ Isherwood không có: nhanh nhẹn, có tổ chức, có kỷ luật, và dĩ nhiên là rất Mỹ. Mỗi buổi sáng cô đến phòng tranh lúc 8 giờ. Isherwood, người thường bước vào nơi làm việc lúc 10 giờ theo phong cách Ý, cũng bắt đầu điều chỉnh giờ đi làm cho phù hợp. Cô sắp xếp những quyển sách vứt bừa bãi của anh cho ngăn nắp, và trang trí lại phòng làm việc chung của họ. Cô thay những chữ cái bị mất trên bộ đàm và cả tấm thảm đầy bụi trên cầu thang. Sau đó, cô bắt đầu thanh lý đống hàng tồn kho, và thương lượng êm thấm với cô Archer đang làm việc tại đại lí du lịch ế ẩm để mở rộng văn phòng liền kề. “Cô ta là người Mỹ”, Dimbleby nói. “Về bản chất cô ta là người thích mở rộng. Cô ta sẽ chiếm đất nước của người khác rồi nói rằng mình làm điều này vì lợi ích của người đó”.
Thực tế thì Tanya không thể trụ nổi đến thứ sáu. Cô ta rời khỏi phòng tranh lần cuối vào tối thứ tư. Đích thân Sarah xử lý việc ra đi của cô ta và khiến nó êm thấm một cách bất thường so với thông lệ xưa nay tại phòng tranh Isherwood. Sự đền bù cho nghỉ việc làm đã hài lòng cô gái. “Theo tôi biết thì Tanya được đền bù rất rộng rãi”, Dimbleby nói. “Số tiền đó đủ để cho phép cô ta đi nghỉ đông dài ngày ở Morocco”. Vào thứ hai tuần sau đã xuất hiện một cô gái mới ngồi làm việc tại phòng tiếp tân của Isherwood. Đó là một người phụ nữ cao ráo, da bánh mật, mái tóc đen bồng bềnh và đôi mắt màu caramel, tên là Elena Frames. Một cuộc thăm dò nhỏ do Roddy Hutchinson thực hiện cho thấy, theo ý kiến của những người đàn ông ở đường James, cô ấy còn xinh đẹp hơn Sarah vốn là người đang thu hút nhiều sự chú ý. Cái tên “phòng tranh Isherwood” bỗng có một ý nghĩa mới đối với những người sống trên đường Duke, và phòng tranh trở nên đông khách hơn, nhộn nhịp hơn. Thậm chí, ngay cả Jeremy Crabbe bên nhà đấu giá Bonhams cũng thực hiện những cuộc viếng thăm không báo trước để xem bộ sưu tập của Isherwood.
Sau khi củng cố lại phòng tranh của mình, Sarah bắt đầu làm quen với những người cùng nghề. Cô chính thức hẹn gặp những người có vai trò như ánh đèn dẫn đường tại các nhà đấu giá ở Luân Đôn. Cô ăn trưa với các nhà sưu tập những bữa trưa đắt tiền, sau đó lại nhâm nhi riêng với những người tư vấn và đủ loại bạn bè ăn theo của họ. Cô ghé thăm và chào hỏi các phòng tranh đối thủ của Isherwood. Cô cũng đến quầy bar nhà hàng Grenn một lần và bao mỗi người có mặt ở đó một cốc rượu. Oliver Dimbleby cuối cùng cũng lấy hết can đảm mời cô đi ăn trưa, nhưng cô đã khôn khéo chuyển thành bữa uống cà phê. Buổi trưa hôm sau họ cùng nhau thưởng thức cà phê sữa trong tách giấy tại một chuỗi cửa hàng của Mỹ ở Piccadilly. Oliver vuốt ve tay cô và mời ăn tối. “Tôi e rằng mình không thể nhận lời mời đi ăn tối”. Tại sao không? Oliver tự hỏi khi quay trở về phòng tranh của mình ở phố King. Thực sự thì tại sao không nhỉ?
Uzi Navot đã để mắt đến nó được một thời gian. Cậu ta luôn nghĩ đây là cảng trú hoàn hảo trong cơn bão. Nơi có thể an toàn trong những ngày chắc chắn mưa. Nơi này có vị trí cách đường vành đai M26 ở Surrey mười dặm - hay, theo như cậu ta giải thích với Gabriel, cách phòng tranh Isherwood một giờ đi tàu điện ngầm và xe hơi. Căn nhà xây theo kiểu Tudor thành một đống không có hình thù rõ ràng, có hàng cột cao và cửa sổ nhỏ bằng chì, có con đường cây sồi dẫn vào nhà do xe chạy nhiều mà thành. Ngôi nhà được bảo vệ bởi cánh cửa xây bằng sắt và gạch. Ở đây cũng có nhà kho xập xệ, hai nhà kính bị vỡ, có khu vườn cây cối um tùm để ngồi suy nghĩ, tám mẫu đất riêng để vật lộn với những con quỷ dữ trong bản thân mỗi người, và một cái ao không được đánh cá suốt 15 năm. Nhân viên đại lí cho thuê đã gọi nó là Thiên đường Winslow khi trao chìa khóa cho Navot. Đối với người như Navot, chốn này là cõi Niết bàn.
Dina, Rimona, và Yaakov làm việc trong thư viện bụi bặm; Lavon và Yossi thu xếp chỗ tác nghiệp trong một căn phòng ồn ào treo lủng lẳng đầu lâu của các con vật đã chết. Về phần Gabriel, anh dựng tạm xưởng vẽ trên căn phòng khách lầu hai, nơi có nhiều ánh sáng nhìn ra vườn. Bởi không thể xuất hiện trong thế giới nghệ thuật ở Luân Đôn, anh phái những người khác đi nhận nguồn hàng thay mình. Nhiệm vụ của họ cũng rất đặc biệt. Dina và Yossi thực hiện những chuyến đi riêng lẻ tới L. Cornelissen và Các con trai trên đường Russel, cẩn thận phân chia công việc giữa họ để những nữ nhân viên làm việc ở đó không nhận ra rằng họ đang làm theo lệnh của một nhà phục chế tranh chuyên nghiệp. Yaakow đến cửa hàng bán đèn ở Erla’s Court để mua đèn Halogens cho Gabriel, sau đó đến một người thợ mộc bậc thầy ở thị trấn Camden để lấy cọ vẽ đã đặt trước. Eli Lavon lo khung tranh. Là chuyên gia mới nghiên cứu về al-Bakari, anh ta tranh luận khi thấy Gabriel chọn đồ cổ của Ý. “Sở thích của Zizi là Pháp cao cấp”, anh ta nói. “Gu Ý choảng nhau chan chát với phong cách của Zizi”. Nhưng Gabriel nhận thấy loại khung được chạm trổ nổi bật của Ý rất phù hợp với lối vẽ đắp của Picasso, vì vậy Lavon đặt loại khung này tại cửa hàng Arnold Wiggins và Con trai trên phố Bury. Sarah đến với họ đầu giờ tối mỗi ngày, mỗi lần đi bằng một đường khác nhau, và luôn được Lavon kiểm tra lại lần nữa xem cô có bị bám đuôi hay không. Cô học rất nhanh, và đúng như Gabriel nghĩ, cô có trí nhớ hoàn hảo. Mặc dù vậy, anh vẫn cẩn thận không để cô bị ngạt thở bởi những đống thông tin khổng lồ. Ho thườngå bắt đầu lúc bảy giờ trong phòng ăn chính, sau đó ngừng lại để ăn tối cùng những người khác, rồi lại tiếp tục đến 12 giờ đêm. Sau đó cô được Yossi hộ tống về căn hộ của mình ở Chelsea. Yossi sống trong một căn hộ khác bên kia đường.
Họ dành một tuần để nói về Zizi al-Bakari trước khi chuyển sang những người ông ta quen và những thành viên khác trong đoàn phụ tá và giới thân cận. Họ chú ý đặc biệt đến Wazir bin Talal, Trưởng bộ phận an ninh có mặt khắp nơi của AAB. Bin Talal thiết lập hệ thống tình báo trực tiếp của mình, gồm một nhân viên an ninh trong AAB và một mạng lưới thu mua tin tức trải rộng khắp thế giới, có nhiệm vụ cung cấp cho hắn thông tin về những nguy hiểm tiềm tàng đối với AAB và chính Zizi. “Nếu Zizi thích món hàng, thì chính bin Talal là người tiến hành những kiểm tra cần thiết”, Lavon giải thích. “Không ai tiếp cận được người đứng đầu mà không qua sự kiểm tra sơ bộ của bin Talal. Nếu ai đó bước ra khỏi vạch, chính bin Talal là người ra lệnh giải quyết”. Nghiên cứu của Yossi cho thấy ít nhất nửa tá người quen trước kia của al-Bakari đã chết một cách bí ẩn. Gabriel ra lệnh giấu kín việc này, không cho Sarah biết.
Trong những ngày tiếp theo, vài nhân vật được gọi là “chuyên gia có ích” của Văn phòng lần lượt ghé thăm ngôi nhà an toàn ở Surrey. Người đầu tiên là một phụ nữ từ Đại học Hebrew, bà đã dành hai đêm để giảng giải cho Sarah về những phong tục xã hội của người Arập Xêút. Tiếp đó, một nhà tâm lý học đã dành thêm hai đêm nữa khuyên cô những cách chiến đấu với sự sợ hãi và lo lắng khi làm nhiệm vụ tay trong. Một chuyên gia về giao tiếp dạy cô những hình thức cơ bản của loại chữ viết bí mật. Võ sư dạy cô về môn đấu tay đôi theo kiểu Israel. Gabriel chọn Lavon, người theo dõi giỏi nhất trong lịch sử của Văn phòng, để dạy cô khóa vỡ lòng về nghệ thuật theo dõi bằng điện tử và con người. “Cô sẽ phải bước vào nơi thù địch”, anh tổng kết. “Người ta sẽ theo dõi từng bước đi và lắng nghe từng lời cô nói. Nếu cô thực hiện được những điều này, sẽ không có gì bất ổn xảy ra”.
Trong phần lớn các buổi học, Gabriel chỉ đóng vai khán giả. Anh đón cô khi cô đến nhà mỗi tối, ăn tối cùng cả đội, sau đó tiễn cô lúc nửa đêm để cô quay lại Luân Đôn cùng Yossi. Ngày qua ngày, Gabriel bắt đầu tỏ ra bồn chồn. Lavon, người đã từng làm việc với anh nhiều hơn những người khác, phân tích tâm trạng của Gabriel là thiếu kiên nhẫn. “Anh ấy muốn cô bắt đầu tham gia trò chơi”, Lavon nói”, nhưng biết rằng cô chưa sẵn sàng”. Gabriel dành nhiều thời gian hơn mỗi lần đứng trước các bức vẽ, anh cẩn thận phục chế những hư tổn của bức Marguerite. Cường độ làm việc cao chỉ khiến anh thêm bất an. Lavon khuyên anh thỉnh thoảng nên nghỉ ngơi, và Gabriel ngập ngừng đồng ý. Anh tìm thấy một đôi ủng cao su trong phòng để đồ và bắt đầu thực hiện cuộc thám hiểm trên những con đường mòn quanh làng. Anh tìm đựơc cần câu trong nhà kho và dùng nó để câu một con cá hồi màu nâu rất to từ ao vườn. Dưới lớp vải dầu trong ga-ra, anh tìm thấy một chiếc xe. Chiếc MG cổ có vẻ như đã nằm im ở đó đến hơn hai mươi năm. Ba ngày sau, những người trong nhà nghe thấy tiếng xe rú lên từ phía kho, kế đó là tiếng nổ lớn làm rung chuyển cả vùng đồng quê. Yaakov lao thốc ra khỏi nhà và nghĩ rằng Gabriel đã bị nổ tung thành những mảnh nhỏ, nhưng thay vì vậy, Yakoov lại thấy anh đứng trước nắp xe đang mở, tay ngập dầu đến tận khuỷu, và mỉm cười lần đầu tiên kể từ khi họ đến Surrey. “Xe vẫn hoạt động tốt”, anh hét lên giữa tiếng động cơ nổ xình xịch. “Cái đồ phải gió này vẫn chạy tốt”.
Tối hôm đó lần đầu tiên Gabriel tham gia vào buổi huấn luyện Sarah. Lavon và Yaakov không ngạc nhiên, vì chủ đề của buổi thảo luận là Ahmed bin Shafiq, kẻ đã trở thành kẻ thù truyền kiếp của Gabriel. Anh chọn Dina, với chất giọng nhẹ nhàng và vẻ bề ngoài giống một góa phụ từ lúc còn trẻ, để truyền đạt những thông tin ngắn gọn. Trong đêm đầu tiên, cô giảng về nhóm 205, đơn vị bí mật của bin Shafiq, và cho mọi người thấy rằng, sự kết hợp giữa học thuyết Wahhabi và tiền của Arập Xêút đã gây ra những nguy hiểm như thế nào ở Trung Đông và Nam Á. Vào đêm thứ hai, cô điểm lại con đường biến bin Shafiq từ một nhân viên trung thành của nước Arập Xêút trở thành bộ óc của hội Huynh đệ Allah. Sau đó, cô mô tả chi tiết vụ tấn công vào Vatican, mặc dù không hề nhắc đến việc Gabriel đã có mặt tại hiện trường vụ tấn công. Gabriel nhận thấy rằng hầu hết thông tin là dư thừa, nhưng anh muốn tư tưởng Sarah thêm dứt khoát về việc Ahmed bin Shafiq xứng đáng với số phận đang chực chờ hắn.
Vào đêm cuối, Sarah được xem những tấm hình tái tạo từ máy vi tính cho thấy các diện mạo hiện tại của bin Shafiq. Bin Shafiq có râu. Bin Shafiq hói đầu. Bin Shafiq đội tóc giả muối tiêu. Tóác giả màu đen. Tóc xoăn. Không tóc. Khuôn mặt với những nét dữ dằn của người Arập du cư đã được làm nhẹ bớt nhờ phẫu thuật thẩm mỹ. Nhưng chính cánh tay bị thương mới là đầu mối quí giá nhất để nhận dạng hắn, Gabriel lưu ý với cô. Vết sẹo trong bắp tay mà hắn không bao giờ cho ai thấy. Bàn tay mà hắn không bao giờ chìa ra và luôn đutá vào túi nhằm tránh xa cặp mắt của những người không theo đạo.
“Chúng tôi biết hắn ta được che giấu ở nơi nào đó trong đế chế của Zizi”, Gabriel nói. “Hắn ta có thể đội lốt một ông chủ ngân hàng đầu tư hay nhà quản lý hồ sơ. Hắn ta có thể là nhà buôn bán bất động sản hay quản lý dược. Có thể một tháng hắn mới đến. Có thể một năm. Có thể không bao giờ. Nhưng nếu hắn đến, cô có thể chắc rằng hắn sẽ cư xử rất lịch sự, bặt thiệp và không hề giống một tên khủng bố chuyên nghiệp. Đừng tìm một tên khủng bố hay một người nào đó có cách cư xử như một tên khủng bố. Cô nên tìm một người đàn ông lịch lãm”.
Anh thu dọn lại những tấm hình. “Chúng tôi muốn biết tất cả mọi người ra vào trong quỹ đạo của Zizi. Chúng tôi muốn cô thu thập càng nhiều tên tuổi càng tốt. Nhưng đây mới là người đàn ông chúng tôi tìm kiếm”. Gabriel đặt một tấm ảnh trước mặt cô. “Đây mới là người đàn ông chúng tôi muốn”. Một tấm hình khác. “Đây là người đàn ông chúng tôi đang săn đuổi”. Một tấm khác. “Hắn ta chính là lí do tại sao chúng ta có mặt tại đây thay vì ở nhà cùng gia đình và con cái”. Một tấm khác. “Hắn ta chính là lí do tại sao chúng tôi yêu cầu cô hi sinh mạng sống của mình và gia nhập cùng chúng tôi”. Một tấm khác. “Nếu cô thấy hắn ta, hãy lấy cho chúng tôi các tên hắn đang sử dụng và công ty hắn đang làm việc. Lấy cả quốc tịch hắn sử dụng trong hộ chiếu nếu cô có thể”. Một tấm hình khác. “Nếu cô không chắc đó chính là hắn, cũng không sao. Hãy nói với chúng tôi. Nếu cuối cùng không phải là hắn, cũng không sao. Hãy nói với chúng tôi. Không có chuyện gì xảy ra nếu chỉ dựa vào lời nói của cô. Không ai bị tổn hại chỉ vì cô, Sarah. Cô chỉ là người đưa tin”.
“Còn nếu tôi đưa cho anh một cái tên?”, cô hỏi. “Khi đó chuyện gì sẽ xảy ra?”
Gabriel nhìn đồng hồ. “Tôi nghĩ đã đến lúc Sarah và tôi nói chuyện riêng với nhau. Mọi người cho phép chúng tôi chứ?”
Anh đưa cô lên lầu đến phòng vẽ và bật đèn. Marguerite Gachet tỏa sáng một cách khêu gợi dưới ánh đèn sáng lóa. Sarah ngồi xuống chiếc ghế bọc cổ; Gabriel đeo kính phóng đại vào và chuẩn bị bảng màu.
“Còn bao lâu nữa?”, cô hỏi.
Đó cũng chính là câu hỏi Shamron đặt cho Gabriel vào buổi trưa lộng gió tháng Mười khi ông đến đường Narkiss để lôi anh ra khỏi chốn lưu đày. Một năm, đáng lẽ hôm ấy anh phải trả lời như thế. Nếu vậy thì anh đã không phải ở đây, vào giờ này, trong một căn nhà an toàn ở Surrey, chuẩn bị cài một cô gái người Mỹ xinh đẹp vào Tập đoàn Thánh chiến.
“Tôi đã chùi sạch lớp bụi bẩn và làm trơn láng các nếp nhăn bằng dao trộn bột vẽ ấm và ẩm”, Gabriel đáp. “Bây giờ tôi còn phải khôi phục cho xong những hình vẽ và quét một lớp vécni - chỉ vừa đủ để thấy được sự ấm áp của những màu sắc ban đầu mà Vincent đã chọn”.
“Tôi không nói về bức họa”.
Anh ngước lên từ bảng màu. “Tôi nghĩ chuyện này phụ thuộc hoàn toàn vào cô”.
“Tôi sẵn sàng khi anh yêu cầu”, cô đáp.
“Cũng không hẳn”.
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Zizi không cắn câu? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông ta không thích bức vẽ, hoặc không thích tôi?”
“Không nhà sưu tập nghiêm túc mà nhiều tiền nào kiểu như Zizi lại từ chối một bức Van Gogh mới được khám phá. Còn về phần cô, ông ta sẽ không có nhiều sự chọn lựa trong việc này. Chúng tôi sẽ biến cô thành một người không thể cưỡng lại”.
“Bằng cách nào?”
“Có một vài điều cô không biết thì hơn”.
“Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với Ahmed bin Shafiq nếu tôi gặp hắn?”
Anh thêm chút màu vào một ô trong bảng màu rồi dùng cọ trộn lại. “Cô biết chuyện gì sẽ xảy ra với Ahmed bin Shafiq mà. Tôi đã nói rất rõ với cô trong cái đêm chúng ta gặp nhau lần đầu ở rồi”.
“Hãy nói cho tôi nghe mọi chuyện”, cô nói. “Tôi cần biết”.
Gabriel hạ kính xuống và đưa cọ lên bức vẽ. Khi cất tiếng, anh không nói chuyện với Sarah mà nói với Marguerite. “Chúng tôi sẽ theo dõi hắn. Chúng tôi sẽ nghe trộm hắn nếu có thể. Chúng tôi sẽ chụp hình hắn, thu âm giọng nói hắn lại vào băng rồi gửi cho các chuyên gia của chúng tôi phân tích”.
“Nếu các chuyên gia bên anh xác định đó là hắn?”
“Vào thời gian và địa điểm mà chúng tôi cảm thấy thích hợp, chúng tôi sẽ hạ hắn”.
“Hạ hắn?”
“Ám sát hắn. Giết hắn. Trừ khử hắn. Hãy chọn từ nào cô cảm thấy thích hợp, Sarah. Đến giờ này tôi vẫn chưa tìm ra từ đó”.
“Anh đã làm chuyện này bao nhiêu lần?”
Anh ghé sát mặt vào bức vẽ, thì thầm. “Nhiều lần rồi, Sarah”.
“Anh đã giết bao nhiêu người? Mười? Hai mươi? Việc giết chóc đã giải quyết được vấn đề khủng bố chưa hay chỉ làm việc này tồi tệ hơn? Nếu anh tìm thấy Ahmed bin Shafiq rồi giết hắn, chuyện này sẽ được gì? Sẽ kết thúc, hay liệu một tên nào khác sẽ bước ra nhận thay vị trí của hắn?”
“Cuối cùng thì một tên sát nhân khác sẽ nhận vị trí của hắn. Trong thời gian quá độ đó, nhiều mạng người sẽ được cứu sống. Và công lý sẽ được thực thi”.
“Đây có thật sự là công lý không? Chẳng lẽ công lý có thể thực sự được thực thi bằng một khẩu súng lục hay xe hơi gài thuốc nổ sao?”
Anh nhấc kính ra và quay người lại, đôi mắt xanh biếc ánh lên trong vùng đèn chói chang. “Cô thích tranh cãi về khía cạnh đạo đức của việc chống khủng bố à? Điều ấy khiến cô dễ chịu hơn phải không? Cô an tâm đi, Ahmed bin Shafiq không bao giờ phí thời gian vật lộn với những câu hỏi về đạo đức. Cô có thể chắc chắn rằng nếu hắn nắm được thiết bị hạt nhân, băn khoăn duy nhất của hắn sẽ chỉ là dùng thiết bị này để phá hủy New York hay Tel Aviv”.
“Đây là công lý hay chỉ là sự trả thù, Gabriel?”
Một lần nữa anh lại thấy như mình đang ở cùng Shamron. Lần này bối cảnh không còn ở nhà anh trên đường Narkiss mà là một buổi trưa ấm áp tháng chín năm 1972 - ngày đầu tiên Shamron đến tìm anh. Gabriel đã đặt câu hỏi giống như Sarah vậy.
“Mọi việc vẫn chưa quá trễ, Sarah. Cô có thể rút lui nếu cô muốn. Chúng tôi sẽ tìm người khác thay thế”.
“Không có ai khác giống tôi. Thêm nữa, tôi cũng không muốn rút lui”.
“Vậy cô muốn gì?”
“Yên ổn lương tâm để ngủ ngon mỗi tối”.
“Ngủ đi, Sarah. Hãy ngủ ngon”.
“Còn anh?”
“Tôi còn một bức vẽ phải làm nốt”.
Anh quay người lại và đeo kính vào. Sarah vẫn chưa chịu buông tha.
“Chuyện đó có đúng không?”, cô hỏi. “Tất cả những điều viết về anh trong các báo nhắc đến vụ tấn công ga Lyon?”
“Hầu hết”.
“Anh đã giết những người Palestine của nhóm Tháng Chín Đen, những người đã thực hiện vụ tàn sát hàng loạt ở Munich?”
“Một vài tên trong số đó”.
“Anh có làm chuyện ấy lần nữa không, sau khi biết mọi chuyện đã xảy ra như bây giờ?”
Anh do dự trong giây lát. “Có, Sarah. Tôi vẫn làm. Tôi sẽ nói cho cô biết tại sao. Đó không phải là trả thù. Tháng Chín Đen là nhóm khủng bố tàn ác nhất trên thế giới, bọn chúng cần phải bị tiêu diệt”.
“Nhưng anh hãy nhìn lại xem chuyện này đã khiến anh phải trả giá như thế nào. Anh đã mất gia đình”.
“Tất cả những ai tham gia vào cuộc chiến này đều phải mất mát một thứ gì đó. Đất nước của cô đã từng yên ổn trong hòa bình, từng là ngọn đèn soi sáng về tự do và tính đúng mực. Bây giờ đất nước cô tay đã vấy máu, nhiều người đang bị nhốt trong những nhà ngục bí mật. Chúng tôi không làm công việc này vì thích thú. Chúng tôi làm vì không còn sự chọn lựa nào khác. Cô nghĩ tôi có sự chọn lựa nào ư? Cô nghĩ Dina Sarid có quyền lựa chọn ư? Chúng tôi không có. Cô cũng không”. Anh nhìn cô trong giây lát. “Trừ phi cô muốn tôi tìm người khác thay cô trong vụ này”.
“Không người nào khác có thể thay tôi”, cô lặp lại. “Khi nào tôi phải sẵn sàng?”
Gabriel quay người lại đưa cọ lên bức vẽ. Sớm thôi, anh nghĩ. Thêm một hai ngày khôi phục lại những hình vẽ. Sau đó quét một lớp vécni. Lúc đó Sarah sẽ sẵn sàng lâm trận.
Những việc còn lại là huấn luyện thực địa cho Sarah. Lavon và Uzi Navot hướng dẫn trong chừng mực cô có thể tiếp thu. Suốt ba ngày đêm họ đưa Sarah đi khắp các đường phố và dạy cô những nguyên tắc căn bản trong nghề. Họ dạy cô làm cách nào để tiến hành một cuộc gặp bí mật, và làm sao biết được một địa điểm đã bị cài đặt. Họ dạy cô cách phát hiện mình đang bị theo dõi và làm sao để cắt đuôi. Họ dạy cô cách tạo hộp thư bí mật và trao tài liệu cho người chuyển tin. Họ dạy cô cách gọi số khẩn cấp của Văn phòng trên điện thoại trả tiền bình thường, và làm cách nào để giúp họ có thể nhận dạng cơ thể cô nếu xác cô bị nổ tung. Sau buổi đó, Lavon khen ngợi cô là nhân viên thực địa không chuyên có năng khiếu bẩm sinh nhất mà ông từng huấn luyện. Anh có thể hoàn tất khóa học trong hai ngày, nhưng Gabriel, có lẽ để yên tâm hơn, nhất mực đòi thêm ngày huấn luyện thứ ba. Khi Lavon, cuối cùng cũng trở về căn nhà an toàn ở Surrey, nhìn thấy Gabriel đang đứng suy tư bên ao cá, tay cầm cần câu còn mắt thì dõi theo mặt nước chăm chú tựa như đang dùng ý chí bắt cá phải xuất hiện. “Cô ấy sẵn sàng rồi”, Lavon thông báo. “Nhưng vấn đề bây giờ là anh đã sẵn sàng chưa?”. Gabriel chầm chậm thu dây câu và theo Lavon trở lại vào nhà.
Buổi tối hôm đó, khi ánh đèn vụt tắt trong đại lí du lịch nhỏ bé ở Mason’s Yard, cô Archer, tay ôm chồng hồ sơ cũ, ngừng chân một lát trên đầu cầu thang nhìn sang lối vào phòng tranh Isherwood thông qua lớp cửa kính lấp lánh. Ngồi đằng sau quầy tiếp tân là Elena, cô thư ký người Ý xinh đẹp của ông Isherwood. Cô ngước lên khỏi màn hình máy vi tính gửi cô Archer một nụ hôn gió tạm biệt, sau đó nhìn xuống tiếp tục làm việc.
Cô Archer mỉm cười buồn bã bước xuống cầu thang. Không có giọt nước mắt nào trong mắt cô. Cô đã khóc một mình ở nơi không ai nhìn thấy, đúng như việc cô luôn phải một mình làm hầu hết mọi việc. Cũng không có sự do dự trong bước chân cô. Suốt hai mươi bảy năm, cô đến văn phòng này năm buổi sáng một tuần. Cả buổi sáng thứ bảy nữa, nếu cần phải có người trực văn phòng. Cô đang mong chờ đến ngày nghỉ hưu, thậm chí đến sớm hơn dự định một chút cũng được. Có lẽ cô sẽ đi nghỉ dài ngày, hoặc mua một căn nhà nhỏ ở miền quê. Cô đã để mắt đến một căn nhà nho nhỏ ở Chilterns được một thời gian. Cô chắn chắn một điều: Cô không hề hối tiếc khi rời bỏ nơi này. Mason’s Yard sẽ không bao giờ còn giống như trước kia, nếu cô Bancroft chưng diện vẫn còn làm việc ở đây. Cũng không phải cô có Archer thành kiến với người Mỹ. Cô chỉ không hứng thú khi làm việc gần người Mỹ.
Khi cô bước gần tới cuối cầu thang, có tiếng rè rè vang lên và ổ khóa tự động ở cửa bên ngoài bật mở. Cám ơn, Elena, cô nghĩ khi bước chân ra ngoài trong không khi se lạnh của buổi tối. Cô không thèm nhấc cái mông đít tròn trĩnh của mình ra khỏi ghế để chào tạm biệt cho đàng hoàng, trong khi chính cô đã đẩy tôi ra khỏi cửa như thế này đây. Cô những muốn vi phạm quy định của ông Isherwood về việc chờ cửa tự động khóa lại, nhưng, chuyên nghiệp đến phút cuối, cô ở lại thêm mười giây nữa, cho đến khi nghe tiếng đóng cạch của chốt cửa rồi mới từ từ bước chân về phía lối ra.
Cô Archer không hề biết rằng có ba người thuộc nhóm neviot, ngồi trong một chiếc xe tải nhỏ đậu bên kia đường Duke, đang cẩn thận theo dõi nhất cử nhất động của mình. Cô đi rồi mà họ vẫn ở lại trong xe tải thêm một tiếng nữa, đề phòng trường hợp cô còn quên thứ gì. Sau đó, trước tám giờ một chút, họ nhẹ nhàng bước xuống lối đi, chầm chậm băng qua sân gạch cũ, tiến về phòng tranh. Đối với Julian Isherwood, người đang dõi theo những bước đi không lấy gì làm vội vã của họ từ cửa sổ phòng làm việc của mình, họ giống như những người đào huyệt có một đêm dài đang ở phía trước.