Chương 35
Bang Uri, Thụy Sĩ

    
ãy quay trở lại mái tóc của hắn. Mày nói hắn tóc ngắn phải không, Sarah? Giống tóc của tao?”
“Dài hơn một chút”.
“Màu đen?”
“Vâng”.
“Nhưng có một vài chỗ muối tiêu, đúng không? Chính xác là hai bên thái dương”.
“Vâng, hai bên thái dương của anh ta tóc muối tiêu”.
“Bây giờ đến đôi mắt. Đôi mắt hắn màu xanh, đúng không? Xanh đến mức bất thường”.
“Mắt anh ta rất xanh”.
“Gã này có tài năng đặc biệt, đúng không?”
“Anh ta có nhiều tài năng”.
“Hắn ta có khả năng phục chế tranh?”
“Vâng”.
“Mày chắc chắn là chưa từng bao giờ nghe tên hắn ta chứ?”
“Tôi nói với ông rồi. Anh ta xưng mình là Ben”.
“Tao biết rồi, nhưng hắn có bao giờ nói về mình với cái tên khác không?”
“Không, không bao giờ”.
“Mày chắc chứ, Sarah?”
“Chắc chắn. Anh ta gọi mình là Ben”.
“Đó không phải là tên thật của bắn, Sarah. Tên của hắn là Gabriel Allon. Hắn ta là kẻ chuyên giết người Palestine. Bây giờ hãy kể tao nghe chuyện gì đã xảy ra sau khi hắn đến căn nhà tại Georgetown”.
Có tấm bảng hiệu tại lối vào con đường dẫn đến ngôi nhà ván. Tấm bảng ghi dòng chữ “CÁ NHÂN”. Cổng an ninh nằm thụt vào 300 métå giữa những hàng cây. Gabriel và Navot di chuyển ở một phía con đường, Mikhail và Yaakov phía bên kia. Tuyết rơi dày đặc dọc rìa con đường dẫn lên hẻm núi, nhưng trong rừng cây thì ít tuyết hơn. Nhìn qua cặp kính hồng ngoại, tuyết ánh lên màu xanh phản quang ma quái trong khi thân những cây thông và linh sam có màu đen nổi bật. Gabriel bò lên phía trước, cẩn thận tránh những cành cây bị rớt xuống có thể tạo thành tiếng rắc dưới sức nặng bước chân anh. Sự im lặng đầy chết chóc bao phủ khu rừng. Gabiel nghe được tiếng tim mình đập thình thịch trong lồng ngực và âm thanh tiếng bước chân của Navot ngay đằng sau. Anh nắm khẩu Beretta bằng cả hai tay - hai bàn tay không đeo găng.
Di chuyển trong rừng được mười lăm phút thì anh nhìn thấy ngôi nhà đầu tiên. Có ánh đèn từ cửa sổ tầng trệt, còn trên lầu hai chỉ có một cánh cửa sổ phản chiếu ánh sáng. Những tên lính gác đang trú lạnh trong một chiếc xe jeep. Động cơ xe đang chạy, nhưng đèn pha xe đã tắt. Cửa đang mở.
“Cậu bắn có tốt không, Mikhail?”
“Được”.
“Tên nào cậu hạ được nhanh nhất từ góc đang đứng?”
“Tên tài xế”.
“Khoảng cách gần 50 bộ, Mikhail. Cậu có thể hạ hắn gọn gàng không?”
“Tôi có thể giết được hắn”.
“Bắn vào đầu, Mikhail. Chúng ta cần hạ bọn chúng thật êm thấm”.
“Tôi làm được”.
“Cậu ngắm đi rồi đợi hiệu lệnh của tôi. Chúng ta sẽ bắn cùng một lúc. Chúa cũng chẳng giúp được chúng ta nếu bắn trượt”.
“Thế là Allon yêu cầu mày giúp hắn?”
“Vâng”.
“Và mày đồng ý?”
“Đúng vậy”.
“Ngay lập tức?”
“Đúng vậy”.
“Không do dự”.
“Không”.
“Tại sao không?”
“Bởi vì bọn mày độc ác. Vì tao ghét bọn mày”.
“Mày cẩn thận cái miệng đấy”.
“Mày muốn nghe sự thật mà”.
“Sau đó chuyện gì xảy ra?”
“Tao bỏ việc tại bảo tàng Phillips và chuyển đến Luân Đôn”.
Gabriel ngắm kỹ tên đang ngồi ghế sau.
“Cậu sẵn sàng chưa, Mikhail?”
“Sẵn sàng”.
“Bắn hai phát, theo hiệu lệnh của tôi. Năm, bốn, ba, hai…”
Gabriel kéo cò súng hai lần. Bốn lỗ thủng xuất hiện gần như ngay lập tức trên cửa kính chiếc xe jeep. Anh lao nước rút dọc con đường xuyên qua lớp tuyết dày đến đầu gối, Navot theo bén gót, rồi tiến về chiếc xe một cách cẩn thận, tay giơ khẩu Beretta. Mikhail bắn được hai phát chết người vào đầu tên tài xế, nhưng gã mà Gabriel bắn chỉ bị trúng vào má và ngực trên nên vẫn chưa chết hẳn.
Gabriel bắn hắn thêm hai phát xuyên qua lớp cửa kính sau xe, sau đó đứng bất động trong giây lát, mắt quét khắp địa hình tìm xem có dấu hiệu nào cho thấy sự hiện diện của họ đã bị lộ không? Chính Navot là người nhìn thấy tên lính gác đang bước ra khỏi rừng cây ở cánh trái ngôi nhà, còn Mikhail là người hạ gục hắn bằng một phát đạn duy nhất vào đầu, khiến máu và óc phụt ra tung tóe trên lớp tuyết trắng trinh nguyên. Gabriel quay người băng qua khu đất trống tiến về phía ngôi nhà, theo sau là ba đồng đội của mình.
“Hãy kể tao nghe về gã Julian Isherwood này”.
“Julian là một người rất ngọt ngào”.
“Hắn ta người người Do Thái à?”
“Tôi chưa bao giờ hỏi nên không biết”.
“Julian Isherwood là điệp viên lâu năm của Cục Tình báo Israel phải không?”
“Tôi không biết”.
“Vậy thì sau khi rời khỏi bảo tàng Phillips, mày đến làm trợ lý giám đốc ngay lập tức cho Julian Isherwwod à?”
“Đúng vậy”.
“Nhưng mày là dân không chuyên. Mày được huấn luyện vào thời gian nào?”
“Vào ban đêm”.
“Ở đâu?”
“Tại ngôi nhà nông thôn phía Nam Luân Đôn”.
“Ngôi nhà nông thôn này nằm ở đâu?”
“Tôi nghĩ là ở Surrey. Tôi chưa bao giờ nhớ được tên ngôi làng”.
“Đó có phải là căn nhà an toàn cố định của bọn Israel không?”
“Một căn nhà thuê. Rất tạm bợ”.
“Có những người khác ngoài Allon chứ?”
“Vâng”.
“Chúng sử dụng những người khác để giúp huấn luyện mày à?”
“Vâng”.
“Cho tao biết tên bọn chúng”.
“Một số người từ Tel Aviv sang, nhưng họ không cho biết tên”.
“Còn những thành viên khác trong đội Luân Đôn của Allon thì sao?”
“Ông muốn biết gì về bọn họ”.
“Cho tao biết tên của bọn chúng”.
“Làm ơn đừng bắt tôi làm điều này”.
“Cho tao biết tên bọn chúng, Sarah”.
“Làm ơn, đừng ép tôi”.
Hắn đánh cô mạnh đến nỗi đẩy cô té ngửa khỏi ghế. Cô khuỵu ở đó một lát, còng tay bấm sâu vào cổ tay, trong khi hắn gào lên đòi cô tiết lộ tên.
“Nói cho tao biết tên của bọn chúng, Sarah. Tất cả các tên”.
“Có một người tên là Yaakov”.
“Còn ai khác nữa?”
“Yossi”.
“Cho tao một cái tên khác, Sarah”.
“Eli”.
“Tên khác”.
“Dina”.
“Tên khác”.
“Rimona”.
“Đây cũng là những đứa theo mày đến Saint-Bart phải không?”
“Đúng vậy”.
“Ai là gã lần đầu tiếp cận mày trên bãi biển tại Saline?”
“Yaakov”.
“Ai là người phụ nữ để lại tin nhắn trong phòng tắm cho mày tại nhà hàng ở Saline?”
“Rimona”.
“Ai là cô gái bị tật chân đến nhà hàng Le Tetou ngay trước khi mày vào nhà vệ sinh?”
“Dina”.
“Bọn chúng đều là người Do Thái phải không”.
“Điều này khiến mày ngạc nhiên à?”
“Còn mày thì sao, Sarah? Mày có phải là người Do Thái không?”
“Không, tao không phải là người Do Thái”.
“Thế thì tại sao mày giúp bọn chúng?”
“Vì tao ghét bọn mày”.
“Ừ, và mày hãy nhìn xem mày phải lãnh hậu quả gì”.
Họ gặp thêm một tên lính gác nữa trước khi vào được ngôi nhà. Hắn đang đi phía bên phải họ, đến khúc cua, hắn ngu ngốc bước ra chỗ trống với vũ khí giắt bên hông. Gabriel và Mikhail nổ súng cùng lúc. Những phát súng im lặng do gắn nòng giảm thanh, nhưng tên lính gác thét lên đau đớn khi loạt đạn trúng ngực hắn. Hai gương mặt, giống hình nộm trong khu tập bắn thử, đột ngột xuất hiện trong những ô cửa sổ được chiếu sáng - một tên ở tầng trệt ngay trước mặt Gabriel, tên thứ hai ở trên lầu chỗ đỉnh mái nhà. Gabriel hạ gục tên ở cửa sổ lầu một trong khi Mikhail chăm sóc tên ở cửa sổ lầu hai.
Bây giờ họ không còn yếu tố bất ngờ nữa. Gabriel và Mikhail vừa lên nòng súng vừa lao qua khoảng sân dài ba mươi bộ về phía cửa trước. Yaakov có nhiều kinh nghiệm thâm nhập chỗ trú ẩn của bọn khủng bố tại Bờ Tây và dải Gaza nên chạy trước dẫn đường. Anh ta không thèm đếm xỉa đến chốt cài cửa. Thay vì vậy, anh ta xả một loạt đạn vào giữa cửa tiêu diệt bất cứ tên nào đang ở phía bên kia cửa, sau đó bắn văng khóa và rầm cửa bằng gỗ. Navot, người to lớn nhất trong bốn người, quăng thân hình của mình đập vào cánh cửa, khiến cánh cửa đổ sập như quân cờ đôminô.
Ba người kia ngay lập tức đặt chân lên sảnh vào nhà. Gabriel canh chừng không gian bên trái, Yaakov chính giữa, còn Mikhail bên phải. Gabriel, vẫn đang đeo kính hồng ngoại, nhìn thấy gã anh bắn hạ qua lớp cửa sổ đang nằm giữa vũng máu trên sàn nhà. Yaakov và Mikhail nổ súng ngay lập tức, và Gabriel nghe tiếng thét của hai tên khác vừa bị bắn hạ. Họ tiến sâu hơn vào ngôi nhà, tìm thấy bậc thang dẫn xuống tầng hầm, và đi xuống. Chúng ta sẽ bắt đầu từ chỗ đó, Gabriel đã nói. Những kẻ tra tấn luôn thích làm công việc của mình dưới đất.
Cô đang kể lại cho hắn ngày diễn ra vụ bán tranh thì nghe có tiếng náo loạn trên lầu. Muhammad khiến Sarah im miệng bằng cách tát mạnh vào mặt cô, sau đó đứng dậy, tay cầm súng, di chuyển nhanh chóng về phía cửa. Vài giây sau cô nghe tiếng thét, tiếng la hét và tiếng chân nặng nề trên bậc cầu thang. Muhammad quay người lại, dí súng vào mặt cô. Sarah, tay vẫn đang bị còng cứng vào bàn, cúi đầu xuống theo phản xạ giữa hai tay khi hắn nổ hai phát súng. Trong căn phòng nhỏ tiếng súng nghe như tiếng đại bác. Loạt đạn xé toang lớp không khí ngay trên đầu Sarah và ghim vào bức tường phía sau lưng.
Muhammad thét lên trong cơn thịnh nộ khi thấy Sarah thoát khỏi loạt đạn của mình, và bước lên một bước nữa, tiếp tục nhả đạn. Đột nhiên cánh cửa đổ sầm xuống như bị văng ra do bom nổ. Cánh cửa đập vào lưng Muhammad khiến hắn đổ nhào xuống sàn. Khẩu súng vẫn nằm trong tay Muhammad. Hắn gượng dậy, quỳ trên một đầu gối đưa súng ngắm bắn cô một lần nữa trước khi hai người đàn ông kịp lao qua cánh cửa, khuôn mặt trùm kín. Bọn họ bắn hạ Muhammad. Họ nã súng vào người Muhammad cho đến khi không còn viên đạn nào nữa.
Họ tháo còng tay và cùm cho Sarah, dìu cô qua thi thể của những người đã chết. Khi ra ngoài trời, cô lao vào vòng tay của Gabriel như một đứa trẻ. Anh đưa cô qua khu đất trống phủ đầy tuyết, qua con đường nhỏ dẫn tới đường cái, nơi Lavon và Moshe đang chờ trong hai chiếc xe hơi. Vẻ tĩnh lặng của khu rừng bị xáo trộn bởi tiếng khóc rưng rức của cô.
“Tôi phải nói cho bọn chúng nghe nhiều chuyện”.
“Tôi biết”.
“Bọn chúng đánh tôi. Bọn chúng bảo sẽ giết tôi”.
“Tôi biết, Sarah. Tôi đã nhìn thấy căn phòng”.
“Bọn chúng biết về anh, Gabriel. Tôi đã cố…“
“Không sao đâu, Sarah. Đó là lỗi của chúng tôi. Chúng tôi đã làm cô phải như thế này”.
“Tôi xin lỗi, Gabriel. Tôi thật lòng xin lỗi”.
“Không, Sarah. Đừng như vậy”.
“Tôi lại nhìn thấy hắn”.
“Ai?”
“Bin Shafiq”.
“Hắn ở đâu?”
“Ở Zurich. Hắn vẫn chưa xong việc, Gabriel”.
“Hắn nói gì?”
“Hắn sẽ tấn công Vatican một lần nữa”.