Chương 26
Point Mangin, Saint-Barthélemy

    
ọ tập trung trong phòng khách thoáng mát của biệt thự, nằm ườn ra trên ghế salon trải nệm và ghế đan bằng liễu gai. Dina pha một bình cà phê trong khi Lavon dán bản đồ hòn đảo lên tường. Gabriel im lặng nhìn tấm bản đồ rất lâu với vẻ mặt buồn rầu. Cuối cùng anh ta cũng lên tiếng phá vỡ sự im lặng, nhưng anh chỉ nói một từ “Zwaiter”, rồi nhìn Lavon. “Anh có nhớ Zwaiter không Eli?”
Lavon nhướng mày nhưng rồi chẳng nói gì. Hẳn nhiên Lavon nhớ Zwaiter. Người đứng đầu tổ chức khủng bố Palestine Tháng Chín Đen ở Italy. Kẻ đầu tiên chết vì cuộc thảm sát ở Munich vào năm 1972. Gabriel gần như có thể thấy lại Zwaiter ngay lúc này, một con người thông minh gầy ốm mặc áo khoác kẻ sọc, băng ngang qua khu Piazza Annibaliano ở Roma với chai rượu quả vả và cuốn ‘Ngàn lẻ một đêm’ trong tay.
“Anh theo dõi Zwaiter bao lâu hả Eli? Hai tuần?”
“Gần ba tuần”.
“Hãy kể với mọi người xem anh biết được gì về Wadal Zwaiter trước khi chúng ta nghĩ đến chuyện giết tên này”.
“Mỗi tối hắn ghé lại cùng một cái chợ nhỏ. Hắn luôn đến quán bar Trieste để gọi vài cuộc điện thoại, và hắn luôn đi vào tòa nhà chung cư qua cửa C. Đèn trong phòng giải lao của hắn được điều khiển tự động nhờ thiết bị cài giờ, và hắn luôn đứng trong bóng tối một lúc, tìm trong túi một đồng mười liar để vận hành thang máy. Đó là nơi anh hành động, đúng không Gabriel? Ngoài thang máy?”
“Xin lỗi, ông có phải là Wadal Zwaiter?”
“Không, đừng!”
“Và sau đó anh bốc hơi”. Lavon tiếp tục. “Hai chiếc xe để tẩu thoát. Một đội bao trọn tuyến đường. Trước khi trời sáng anh đã ở Thụy Sĩ. Shamron nói rằng điều đó giống như làm nổ tung cả trận chiến”.
“Chúng ta kiểm soát được mọi chi tiết. Chúng ta chọn thời gian và địa điểm để thi hành án tử hình và lên kế hoạch đến từng chi tiết nhỏ. Chúng ta đã thực hiện mọi thứ theo đúng kế hoạch đêm hôm đó. Nhưng chúng ta không thể làm bất cứ điều gì giống thế trên hòn đảo bé nhỏ này”. Gabriel nhìn vào bản đồ. “Chúng ta có thể hoạt động rất tốt trong thành phố nhưng không phải ở những nơi như thế này”.
“Điều đó có thể đúng”, Dina nói, “nhưng các anh không thể để tên bin Shafiq sống sót”.
“Tại sao không?”
“Vì hắn có mọi nguồn tài chính của một tỉ phú ngay trên đầu ngón tay của mình. Vì hắn có thể bay thẳng đến Najd trong tích tắc và vuột ra khỏi tầm tay chúng ta mãi mãi”.
“Có những cách đúng để thực hiện việc này, và cũng có những cách sai”.
“Đừng sợ khi phải bóp cò súng vì những gì đã xảy ra ở ga xe lửa Lyon, Gabriel à”.
“Chuyện này không liên quan đến Paris. Chúng ta có một mục tiêu chuyên nghiệp. Một mặt trận hẹp. Một lộ trình nguy hiểm để thoát thân. Một biến số khó lường mang tên Sarah Cooft. Tôi có thể tiến tới không?”.
“Nhưng Dina nói đúng”, Yossi nói. “Chúng ta phải hành động ngay bây giờ. Chúng ta có thể sẽ không bao giờ tóm được hắn thêm một lần nữa”.
“Điều răn dạy thứ mười một. Đừng để bị bắt. Đó là trách nhiệm đầu tiên của chúng ta. Mọi chuyện khác chỉ là thứ yếu thôi”.
“Anh đã thấy bin Shafiq trên tàu Zizi hôm nay chưa?” Rimona hỏi. “Chúng ta xem lại cuộn băng thu hình nhé? Anh có thấy mặt hắn khi hắn bước ra khỏi phòng họp không? Anh nghĩ chúng đang nói gì với nhau hả Gabriel? Đầu tư chăng? Hắn cố giết chúng tôi đấy. Hắn phải chết”.
“Chúng ta sẽ làm gì với mụ đàn bà?”. Yossi hỏi.
“Ả đó là tòng phạm”, Lavon nói. “Hiển nhiên ả là một phần trong đường dây của hắn. Tại sao chỉ có giọng ả vang lên trong điện thoại? Chẳng lẽ ả không thấy lạ là chồng ả chẳng bao giờ nhấc điện thoại lên sao?”
“Vậy chúng ta có giết ả không?”
“Nếu chúng ta không giết ả, chúng ta sẽ không thể xong việc ở đảo này được”.
Dina đề nghị họ bỏ phiếu cho cả chiến dịch hành động này. Yaakov lắc đầu. “Nếu mọi người không chú ý thì bỏ phiếu cũng chẳng dân chủ ”.
Gabriel ngó Lavon. Cả hai nhìn nhau một hồi rồi Lavon nhắm mắt lại và gật đầu.
Đêm đó họ không ngủ. Sáng ra Yossi mướn chiếc Suzuki Vitara thứ hai trong khi Yaakov và Rimona mướn riêng mỗi người một chiếc môtô Piaggio. Oded và Mordecai đến một tiệm cung cấp vật tư cho tàu bè ở Gustavia để mua hai chiếc thuyền máy động cơ gắn ngoài hiệu Zodiac. Dina dành phần lớn ngày hôm đó cố gắng gọi cho những nhà hàng sang trọng nhất để đặt một bàn cho ba mươi người. Vào lúc 1 giờ 30 phút cô tìm ra Le Tatou, một nhà hàng nằm trên bờ biển rất hợp mốt lúc bấy giờ ở Saint-Jean, đã được đặt toàn bộ cho một buổi tiệc riêng nên không thể nhận đặt bàn vào tối đêm ấy nữa.
Gabriel lái xe mô tô đến Saint-Jean để tự tìm hiểu khu vực này. Nhà hàng có cấu trúc thông thoáng với những dãy lụa đủ màu sắc buông rủ từ trần nhà và nhạc dance nghe nhức cả đầu dội ra từ mấy chiếc loa âm lượng lớn. Hơn chục cái bàn đặt trong một cái chòi chóp nhọn bằng gỗ và vài cái khác đặt rải rác dọc theo bờ biển. Có một quầy bar nhỏ, và giống như rất nhiều nhà hàng khác trên hòn đảo này, còn có một tiệm quần áo sang trọng chuyên bán đồ tắm phụ nữ với giá cắt cổ. Đang giờ cao điểm của các nhân viên phục vụ bữa ăn trưa, những cô gái chân trần chỉ mặc áo ngực bikini và váy bãi biển dài đến mắt cá chân lướt từ bàn này sang bàn nọ phục vụ thức ăn nước uống. Một người mẫu mặc đồ tắm thân hình uyển chuyển như một con mèo xuất hiện từ tiệm quần áo và ra dấu với anh. Khi Gabriel không tỏ dấu hiệu gì cho thấy rằng anh đồng thuận, cô gái cau mày và chuyển qua bàn khác có rất nhiều người Mỹ đã khá say đang hú hét phấn khích với sự hiện diện của cô.
Gabriel đến quầy bar, gọi ly rượu vang hoa hồng rồi đi về phía tiệm quần áo với ly rượu trong tay. Phòng thay đồ và toa-lét ở cuối một lối đi hẹp dẫn ra bãi đậu xe. Anh đứng đó một lát, hình dung mọi hành động, tính toán thời gian. Rồi anh nhấp nửa ly rượu và bước ra.
Nơi này thật hoàn hảo, anh nghĩ. Nhưng có một vấn đề: bắt cóc Sarah ra khỏi bàn ăn là bất khả thi. Bọn vệ sĩ của Zizi đều trang bị vũ khí hạng nặng và tất cả các cựu sĩ quan của đội Cận vệ Quốc gia Arập Xêút chỉ
vây quanh một người. Để đưa Sarah đi mà không bứt dây động rừng, họ phải đưa cô vào phòng thay đồ vào một thời gian đã được định trước. Muốn thực hiện được điều đó, cần phải báo tin cho cô. Lúc Gabriel nhảy xuống xe, anh gọi điện về tòa biệt thự để hỏi Lavon xem cô có ở trên đảo không.
Nhà hàng ở Saline không nhìn ra biển, chỉ thấy đụn cát và một đầm lầy nước mặn lớn bao quanh bởi những ngọn đồi nhỏ phủ đầy bụi rậm. Sarah ngồi dưới mái hiên, ngón tay cô bọc gọn lấy chân cốc rượu vang hoa hồng có thêm đá. Kế bên cô là Nadia, một phụ nữ Hồi giáo hiện đại, đang thưởng thức ly daiquiri thứ ba, tâm trạng càng lúc càng hưng phấn. Ở bàn đối diện Monique và Jean-Michel đang kín đáo cãi vã với nhau. Người đàn ông Pháp giấu đôi mắt sau cặp kính râm nhưng Sarah vẫn nhận ra hắn đang theo dõi nhất cử nhất động của một đôi nam nữ trẻ vừa mới đến bằng xe gắn máy và hiện đang bước lên bậc tam cấp dẫn tới hàng hiên.
Chàng trai cao lêu nghêu, mặc loại quần bơi dài tới đầu gối và áo thun chui đầu bằng vải coton, chân mang dép lê. Âm sắc Ănglê trong giọng nói cho thấy gã đã từng học ở những trường đại học cổ kính ở Anh, gã hỏi có còn bàn trống không bằng cái giọng kẻ cả. Giọng cô gái cho thấy cô là người ở vùng nào đó thuộc Trung Âu. Chiếc áo bikini cô đang mặc vẫn còn ướt và dán chặt vào bộ ngực rám nắng khêu gợi. Cô hỏi đường đến toilet, giọng đủ lớn để Sarah và tất cả mọi người trong nhà hàng nghe thấy, rồi bình tĩnh đáp lại cái nhìn của Jean-Michel khi cô lướt qua bàn của hắn, tấm choàng eo màu ngọc bích phấp phới để lộ bộ mông căng tròn.
Nadia nốc cạn ly daiquiri, trong khi Monique cau có với Jean-Michel như thể ả cho rằng sự thích thú của hắn đối với cô gái vừa mới đến đã vượt quá giới hạn ‘nghề nghiệp’. Hai phút sau, khi cô gái xuất hiện trở lại, cô hất mái tóc và lắc lư theo điệu nhạc reggae phát ra từ chiếc máy thu âm phía sau quầy bar. Quy tắc của phòng tình báo, Sarah nghĩ. Khi đang hành động ở những nơi công cộng như quán bar hay nhà hàng, đừng ngồi im lìm một chỗ hay ngồi đọc báo. Điều đó càng làm lộ rõ việc bạn đang do thám. Thu hút sự chú ý về phía mình. Ve vãn. Lớn tiếng. Uống rượu nhiều. Cãi nhau càng tốt. Nhưng luôn có một điều mà Sarah để ý và cô chắc chắn Jean-Michel đã không nhận ra. Rimona không đeo bông tai, điều đó có nghĩa là cô đã để lại một tin nhắn cho Sarah trong toilet.
Sarah dõi theo Rimona. Cô ngồi xuống bên Yossi và đánh anh một cái vì tội không gọi thức uống hộ còn trong khi cô đi toilet. Ở đường chân trời, mây đùn thành một đám to, và gió bất ngờ nổi lên chạy đuổi với những ngọn cỏ trong đầm. “Sắp bão to thì phải”. Jean-Michel nhận xét, nhưng hắn vẫn tiếp tục gọi chai vang thứ ba để xua đi ý nghĩ về cơn bão. Nadia đốt một điếu Virgina Slims, rồi đưa cho Monique hộp thuốc lá. Sarah xoay lưng lại nhìn cơn bão đang ào đến, nhưng thật ra cô đang nghĩ đến cái đồng hồ và tự hỏi mình nên chờ bao nhiêu phút trước khi tìm cách vào toa-lét. Và cả thứ mà cô có thể tìm thấy khi đi toilet nữa.
Năm phút sau khi mây giãn ra, một cơn gió mạnh thốc ngược vào lưng Sarah. Jean-Michel ra hiệu cho cô phục vụ hạ tấm bạt che mưa xuống. Sarah đứng dậy, tóm lấy cái giỏ đựng đồ đạc đi biển của mình và đi về phía cửa sau của nhà hàng.
“Cô đi đâu vậy?”. Jean-Michel hỏi.
“Chúng ta uống đến chai rượu thứ ba rồi. Anh nghĩ tôi đi đâu đây?”
Hắn đứng bật dậy và theo sau cô.
“Cám ơn sự ân cần của anh, nhưng thật sự tôi không dám phiền anh giúp đỡ. Tôi quen với việc tự làm chuyện này khi tôi còn là một đứa bé cơ”.
Hắn nắm lấy cánh tay Sarah và dẫn cô đến toa-lét. Cửa vẫn mở he hé. Hắn đẩy cửa vào đưa mắt nhìn quanh rồi bước ra ngoài để cô vào. Sarah chốt cửa cẩn thận rồi ngồi lên bồn cầu, cô gây ra tiếng động đủ lớn để người ở bên ngoài cánh cửa có thể nghe thấy.
Chúng tôi có vài nơi để giấu những thứ cần trao đổi, Gabriel đã nói trước với cô. Những thứ đó thường được dán vào mặt trong của bồn dội nước toa-lét. Giỏ rác cũng thường được trưng dụng, đặc biệt là đối với giỏ rác có nắp đậy. Chúng tôi giấu tin nhắn trong vỏ hộp tampon - băng vệ sinh phụ nữ - bởi vì chúng tôi nhận thấy bọn đàn ông Arập, dù chuyên nghiệp cỡ nào, cũng rất kinh tởm, không muốn đụng vào thứ đó.
Sarah nhìn phía dưới lavabo, thấy một thùng rác nhỏ bằng nhôm, cô đạp chân lên cần bẫy dưới đế thùng rác để bật nắp thùng lên và thấy một chiếc hộp. Nó bị che khuất một phần bởi đống giấy nhàu nát. Cô cúi xuống nhặt nó ra. Đọc tin nhắn nhanh lên Sarah, Gabriel đã từng nói. Hãy tin tưởng mình sẽ nhớ hết mọi chi tiết. Đừng bao giờ, tôi nhấn mạnh là đừng bao giờ, để tin nhắn trong người. Chúng tôi dùng giấy mỏng, nên nếu cô có bật lửa hoặc diêm quẹt thì đốt nó ngay trên bồn rửa mặt để phi tang. Nếu không đốt được thì bỏ vào cầu cầu toa-lét và giật nước. Trường hợp tệ nhất thì bỏ tin nhắn vào hộp và vùi lại vào trong đống giấy rác đó. Chúng tôi sẽ vào kiểm tra lại và ‘dọn sạch’ giùm cô.
Sarah nhìn vào túi xách và thấy hộp diêm quẹt. Cô thò tay lấy hộp diêm ra, nhưng nghĩ rằng mình không có gan đốt tờ giấy khi đang có người ở ngoài; thế nên cô xé vụn tờ giấy, bỏ vào bồn cầu tiêu và giật nước. Cô đứng trước gương một lát và kiểm tra kĩ lưỡng vẻ mặt của mình trong khi nước chảy ồ ồ xuống đáy bồn cầu. Mày là Sarah Bancroft, cô tự nhủ với chính mình. Mày không phải là người đàn bà bỏ cái hộp tampon vào thùng rác. Mày chưa bao giờ nhìn thấy người đó.
Cô đóng vòi nước lại và quay trở ra mái hiên. Mưa chảy tràn thành dòng trên máng xối. Yossi đang ồn ào trả lại chai Sancerre. Rimona thì săm soi cái thực đơn như thể tìm thấy cái gì thú vị trong đó. Jean-Michel chằm chằm quan sát Sarah y như thể mới gặp cô lần đầu. Sarah ngồi xuống và dõi theo cơn bão đang cuộn dần xuyên ngang qua đầm nước, cô biết rằng bão sẽ tan nhanh cũng như cảm giác vừa sợ hãi vừa hồi hộp của cô sẽ qua nhanh thôi.
“Cô sẽ ăn tối ở nhà hàng Le Tetou tối nay”, tin nhắn viết. “Khi cô trông thấy chúng tôi, hãy giả vờ cảm thấy khó chịu và đi vào toa-lét. Đừng sợ nếu họ có cho bảo vệ đi theo. Chúng tôi sẽ xử lý chuyện ấy”.
Cái họ cần là người khách mời danh dự mà gần như cả ngày họ đã không trông thấy. Gabriel bắt đầu lo rằng bằng cách nào đó bin Shafiq đã trốn thoát mà không bị phát hiện. Anh cân nhắc việc gọi điện đến tòa biệt thự ấy để xem có ai ở nhà hay không; nhưng vào lúc 11 giờ 30 phút họ thấy hắn tắm nắng trên sân thượng một tiếng đồng hồ sau cữ bơi thường lệ.
12 giờ 30 phút, hắn đi vào nhà, và vài phút sau đó chiếc Cabriolet trắng đã hạ mui thả dốc xuống đường. Một người phụ nữ ngồi sau vô lăng. Cô ta lái xe đến tiệm thịt lợn ở làng Lorient, ở trong tiệm mười phút rồi quay trở về biệt thự ở Pointe Milou để ăn trưa ngoài trời.
Vào lúc 3 giờ, khi cơn giông đang gầm thét bên bờ biển, chiếc Cabriolet lại thả dốc xuống đường một lần nữa, nhưng lần này bin Shafiq cầm lái. Lavon bắt đầu theo sát hắn bằng một trong những chiếc tay ga vừa kiếm được với sự hỗ trợ của Mordecai và Oded. Rõ ràng là tên người Arập Xêút đang kiểm tra xem có ai theo dõi mình hay không bởi hắn cứ đi thẳng trên những con đường đông đúc dọc bờ biển bắc thay vì rẽ sang bờ biển đông nơi dân cư thưa thớt. Hắn tăng tốc dọc theo bờ biển đầy núi đá ở Toiny rồi rẽ về phía đất liền và phóng nhanh qua hàng loạt thôn xóm nhếch nhác của vùng đồi cỏ ở Grand Fond. Hắn giảm tốc trong vài giây ở ngay lối rẽ vào Lorient - khoảng thời gian đủ dài để Mordecai chạy vòng qua hắn. Hai phút sau, ở giao lộ của con đường đến Saint-Jean, hắn lại làm một cú thử thời gian như thế và lần này Oded phải từ bỏ cuộc rượt đuổi.
Lavon chắc chắn rằng đích đến duy nhất của bin Shafiq là Gustavia. Anh vội vã vào thị trấn bằng con đường khác đứng chờ gần khách sạn Carl Gustav khi chiếc Cabriolet từ Lurin xuống dốc đồi. Tên Arập Xêút đậu xe phía rìa cảng biển. Mười phút sau đó, khi đã kiểm tra kĩ lưỡng xem có ai bám đuôi không, hắn đi bộ đến quán cà phê trên bến cảng để gặp Wazir bin Talal. Lavon ăn sushi ở một nhà hàng trên phố và chờ chúng đi ra. Một giờ sau anh trở về biệt thự, báo cho Gabriel biết rằng họ đang gặp vấn đề.
“Tại sao hắn lại gặp bin Talal? Bin Talal là tay chân của Zizi. Chúng ta phải tính đến khả năng Sarah đã bị lộ. Ta ở đây được vài ngày rồi. Chỗ này chỉ là một hòn đảo nhỏ trong khi chúng ta là những người chuyên nghiệp, nhưng…”. Lavon bỏ lửng câu nói.
“Nhưng cái gì cơ chứ?”
“Bọn tay chân của Zizi cũng chuyên nghiệp không kém, bin Shafiq cũng thế. Trưa nay hắn lái xe như thể hắn biết mình đang bị theo dõi vậy”.
“Đó là quy trình chuẩn”. Gabriel phản đối và không tỏ ra lo lắng.
“Anh luôn có thể chỉ ra sự khác biệt giữa một người đang di chuyển và một người nghĩ rằng mình đang bị bám đuôi. Tôi cảm thấy bin Shafiq biết có ai đó đang theo dõi hắn”.
“Anh đang muốn nói điều gì, Eli? Hoãn việc này lại chăng?”
“Không, nếu ta chỉ có thể chọn một mục tiêu đêm nay thì ta nên chọn Sarah”.
Mười phút sau. Đèn bật xanh. Tiếng quay số điện thoại vang lên đột ngột.
“La Terrazza xin chào quý khách”.
“Cho tôi đặt chỗ tối nay”.
“Xin quý khách vui lòng cho biết quý khách đi bao nhiêu người?”
“Hai người”.
“Vào mấy giờ ạ?”
“Chín giờ tối”.
“Xin quý khách vui lòng đợi máy trong khi chúng tôi kiểm tra”.
“Vâng, cảm ơn”.
“Vào lúc chín giờ mười lăm được không ạ?”
“Được chứ”.
“Vậy cho phép chúng tôi được lặp lại: một bàn cho hai người lúc chín giờ mười lăm phút. Xin quý khách cho biết tên ạ”.
“Al-Nasser”.
“Xin cám ơn. Hẹn gặp quý khách”.
Cúp máy.
Gabriel bước đến chỗ bản đồ.
“La Terrazza ở đây”. Anh gõ gõ ngón tay vào địa điểm ngọn đồi phía trên Saint-Jean. “Chúng sẽ phải rời khỏi làng sớm nhất là khoảng chín giờ tối”.
“Trừ khi chúng đi đâu đó trước khi đến nhà hàng”. Lavon thêm vào.
“Bữa ăn tối của Zizi bắt đầu lúc tám giờ. Ta có gần một giờ để hành động trước khi sắp đặt Sarah đúng chỗ để cô ấy tháo lui”.
“Trừ phi Zizi đến muộn”. Lavon lại chêm vào.
Gabriel bước đến khung cửa sổ và nhìn ra ngoài. Trời nhá nhem. Mặt biển dần sẫm màu, phía kia đồi bắt đầu sáng đèn.
“Chúng ta sẽ xử hết chúng nó ở phía trong biệt thự hoặc phía sau bức tường chỗ đường lái xe vào nhà”.
“Chúng nó à?”
“Đó là cách duy nhất để thoát khỏi đảo này. Ả đàn bà cũng phải chết”.