1. Các ý tưởng mới của Kim Dung về con ngưòi và về đời sống chánh trị. Cùng với việc thay đổi quan điểm của mình về chủ trương dân tộc và về lý tưởng chánh trị, Kim Dung cũng đã qua sự nghiên cứu các học thuyết và sự quan sát chánh trường thực tế mà có những ý tưởng mới về con người và về đời sống chánh trị. a. Nhận định về tánh cách không hoàn thiện của con người và của các đoàn thể do con người thành lập. Theo một số triết gia và người sáng lập các học thuyết chánh trị như Mạnh Tử, Jean Jacques Rousseau và Karl Marx thì con người bẩm sinh tốt, chỉ vì xã hội xấu nên người mới bị ảnh hưởng của xã hội mà trở thành xấu. Các triết gia và người sáng lập học thuyết chánh trị kể trên đây cho rằng nếu xây dựng được một xã hội tốt, ta có thể giáo dục cho mọi người trở thành hoàn thiện được. Kim Dung lúc đầu có thể đã tin theo các thuyết trên đây. Nhưng sau Thế Chiến II, một lãnh tụ cộng sản Nam Tư là Milovan Djiias sau khi đã nhận chân sự thật về xã hội cộng sản ở Liên Sô và ở chính nước ông, đã nêu ra ý kiến là con người vốn không hoàn thiện nên không thể xây dựng một xã hội hoàn thiện được. Có lẽ nhờ đọc các tác phẩm của Milovan Djilas hoặc nhờ nghiên cứu kỹ lưỡng sự tích các nhơn vật chánh trị trong quá khứ và theo dõi hành động của các nhơn vật chánh trị trong hiện tại, Kim Dung đã lần lần nhận chân rằng con người vốn không phải bẩm sinh tốt và chắc chắn có thể nhờ sự giáo dục mà trở thành hoàn thiện. Theo ý tưởng mới của Kim Dung thì trong thực tế, con người hoàn thiện rất hiếm có, ngay cả đối với những kẻ đã được đặt trong một khung cảnh tốt từ lúc mới sanh ra. Nói chung lại thì tuyệt đại đa số loài người đều có tật xấu chung với đức tốt. Dưới lăng kính của một người quan sát tinh tế, những người được ca ngợi là anh hùng hào kiệt thật ra cũng có những nhược điểm nhiều khi rất lớn. Nhưng mặt khác, con người cũng không phải bẩm sinh xấu như một số triết gia và người sáng lập học thuyết chánh trị lối Tuân Tử và Machiavel đã nghĩ. Bởi đó, những người mà dư luận cho là xấu xa cũng có thể có một vài điểm tốt. Với các nhận định như trên, Kim Dung đã đưa ra một ý tưởng mới về các vĩ nhơn. Ý tướng đó đã biểu lộ trong cách ông mô tả Vi Tiểu Bảo. Nhơn vật này không phải có những tài đức siêu việt như các vị anh hùng hào kiệt làm nhơn vật chánh yếu cho một tác phẩm võ hiệp. Đó chỉ là một con người xuất thân chốn ti tiện và có một tác phong rất tầm thường, chỉ nhờ có vài điểm tốt mà gây được cảm tình và sự mến phục của nhiều người. Nếu con người không hoàn thiện mà cũng không phải hoàn toàn xấu thì các đoàn thể do con người thành lập cũng khó có tánh cách hoàn thiện được, nhưng cũng không phải hoàn toàn xấu. Bởi đó, khi đã có ý tưởng mới về con người, Kim Dung đã không còn phân các đoàn thể làm hai loại tốt và xấu một cách tuyệt đối, mà cho rằng trong đoàn thể được gọi là tốt cũng có người xấu, và trong đoàn thể bị cho là xấu cũng có người tốt. Ý kiến này đã được biểu lộ rõ rệt trong cách Kim Dung mô tả các môn phái trong các bộ truyện võ hiệp của ông. Các chánh phái thật sự như phái Toàn Chân và phái Võ Đương đều có những người tệ hại như Triệu Chí Kinh, Doãn Chi Binh, Tống Thanh Thư. Ngay đến như chùa Thiếu Lâm kỷ luật nghiêm minh, thanh danh lừng lẫy cũng có những nhà sư đầy tham sân si, và một cao tăng đã làm đến Phương Trượng chùa Thiếu Lâm là Huyền Tử Đại Sư lại có mối tình vụng trộm với một thiếu nữ và có đứa con tư sinh là Hư Trúc. Trái lại, đoàn thể bị xem là Ma Giáo như Triêu Dương Thần Giáo cũng có những người tốt như Khúc Dương và Hướng Vấn Thiên. b. Chủ trương cởi mở khoan dung và phản giáo điều. 1) Khi đã nhận chân rằng con người vốn không hoàn thiện còn các đoàn thể đều có người tốt và người xấu thì kết luận dĩ nhiên là người phải có tinh thần cới mở và có sự khoan dung đối với nhau thay vì tự cho là riêng mình hay đoàn thể mình là có lý và phục vụ đúng chánh nghĩa, còn người khác hay đoàn thể khác thì sai quấy và theo tà đạo, rồi nhứt quyết chế ngự hay tàn sát người khác hay đoàn thể khác, không cho họ có thể chung sống ngang hàng với mình. Cái đẹp của thái độ cởi mở và khoan dụng đã được Kim Dung nêu ra qua nhơn vật Lịnh Hồ Xung, ông này đã được thầy dạy theo tinh thần giáo điều đề cao các chánh phái nói chung, phái Hoa Sơn nói riêng và đặc biệt hơn là phe Khí Tông của phái Hoa Sơn, đồng thời thù ghét và miệt thị các tà phái, đặc biệt là Triêu Dương Thần Giáo bị gọi là Ma Giáo. Nhưng ngay từ lúc còn được thầy thương yêu và tin cậy, Lịnh Hồ Xung đã có những thắc mắc về cái chánh nghĩa tuyệt đối của môn phái mình và sự sai quấy tuyệt đối của giới hắc đạo và Ma Giáo. Vì vậy, ông đã có những hành động không đưọc thầy tán thành. Sau đó, ông càng ngày càng xa lập trường của thầy. Vì kết bạn với những người không thuộc các đoàn thể tự cho mình là chánh phái, ông đã bị các đoàn thể này lên án. Nhưng cuối cùng, thái độ cởi mở khoan dung của ông đã làm cho phần lớn các nhơn vật và đoàn thể thời ông ngưỡng mộ. 2) Sự cởi mở và khoan dung vốn chống lại tinh thần giáo điều, và tinh thần này không phải chỉ được xây dựng trên lập luận và thái độ đối với người và đoàn thể khác. Nó còn thể hiện qua phương pháp làm việc. Dưới quyền lãnh đao của Nhạc Bất Quần, các đệ tử của phái Hoa Sơn đã được dạy để luyện tập kiếm pháp theo những nguyên tắc cứng rắn. Họ phải học đúng theo chiêu thức mà môn phái đã sáng tác. Mỗi cái giơ tay cất chơn mà sai trật pháp độ một chút là đã bị đính chánh tức khắc để cho chiêu thức nào cũng được diễn ra một cách tận thiện tận mỹ, không mảy may sai trật. Lối luyện tập và tranh đấu như vậy có thể đưa đến một số kết quả tốt khi gặp những kẻ võ công tầm thường. Nhưng gặp kẻ võ công cao siêu thì người sử dụng các chiêu thức một cách cứng ngắc như vậy khó nắm phần thắng lợi vì đối thủ của họ sau khi đã biết đúng chiêu thức của họ có thể nghĩ ra cách phá chiêu thức đó và đánh bại họ. Các nhà lãnh đạo năm kiếm phái của năm hòn núi lớn đã tốn rất nhiều tâm tư đểnghiên cứu các chiêu thức kỳ diệu mà họ cố giấu kín, chỉ truyền dạy cho môn đồ mình. Nhưng khi họ hoặc các đệ tử của họ đem các chiêu thức đó ra sử dụng thi lần lần nó được các cao thủ võ lâm thuộc môn phái khác biết rõ. Bởi vậy, các trưởng lão của Triêu Dương Thần Giáo đã nghiên cứu được các chiêu thức của họ và đã nghĩ ra được cách phá giải tất cả các chiêu thức đó. Muốn cho đối thủ không thể thắng được mình, một cao thủ võ lâm phải phóng tâm hơn và không tự buộc mình một cách quá chặt chẽ vào chiêu thức đã học. Kim Dung đã nêu rõ nguyên tắc này với khẩu hiệu bóng bẩy “vô chiêu thắng hữu chiêu”. Điều này hàm ý rằng người luyện tập võ nghệ phải biết linh động trong việc ứng phó với địch thủ. Muốn được như vậy, người cao thủ võ lâm phải có can đảm vượt ra ngoài khuôn khổ của môn phái mình nếu môn phái này có tinh thần quá bó buộc hay hẹp hòi. Trong các tác phẩm của Kim Dung, các nhơn vật chánh yếu có võ công siêu tuyệt đều là những người đã học nhiều môn võ của các môn phái khác nhau và đã tổng hợp các tri thức mình đã thâu hoạch được. Khi sự tổng hợp đã đến mức siêu tuyệt rồi thì các thế đánh đều tan biến vào trong một tổng thể duy nhứt chớ không còn là những bộ phận rời rạc. Cao thủ võ lâm đã đi đến mức đó rồi thì chiến đấu một cách tự nhiên, nhưng có thể chế ngự địch thủ của mình dầu địch thủ đó có bao nhiêu ngón đòn cũng vậy. Nguyên lý trên đây đã được Kim Dung nêu ra khi nói đến việc Trương Tam Phong, Tổ Sư phái Võ Đương, truyền Thái Cực Kiếm Pháp cho Trương Vô Kỵ. Người thụ huấn phải học các thế kiếm trước, nhưng sau đó, phải đạt được kiếm ý, mà muốn đạt được kiếm ý thì phải quên các thế kiếm đã học. Bởi đó, cao thủ võ lâm càng quên các thế kiếm thì càng thâu hoạch được sự thuần túy của pho kiếm mình học. 3) Các nguyên tắc trong việc luyện tập và sử dụng võ nghệ dĩ nhiên là cũng có thể áp dụng trong trường chánh trị. Người hoạt động chánh trị phải dựa vào một số nguyên tắc trong sự làm việc của mình. Bởi đó, họ phải nghiên cứu các chủ nghĩa chánh trị để hiểu biết nó. Họ có thể nghiêng về một chủ nghĩa nào đó. Nhưng nếu họ cuồng tín nơi một chủ nghĩa và chỉ biết có nó, hoặc cho nó là cao siêu hơn hết rồi nhứt định áp dụng nó cho bằng được đến mức sẵn sàng trừ diệt hết những người theo chủ nghĩa khác thì họ mắc phải bịnh giáo điều. Họ sẽ không thể thành công như ý muốn, hoặc có thành công thì cũng chỉ gây khổ sở cho nhơn dân dưới quyền thống trị của họ chớ không phải phục vụ nhơn dân, làm cho nhơn dân hạnh phúc như lý tưởng mà chủ nghĩa của họ đã nêu ra. Muốn thật sự thành công trong việc quản trị và xây dựng quốc gia, người hoạt động chánh trị phải có tinh thần cởi mở và khoan dung, sẵn sàng tiếp nhận các tư tưởng, các phương pháp làm việc khác hơn tư tưởng và phương pháp cố hữu của mình hay của đoàn thể mình. Trường hợp Cộng sản là một trường hợp điển hình trong thế giới hiện tại. Giáo Tổ của chủ nghĩa cộng sản là Karl Marx thấy người vô sản thời ông bị bóc lột thẳng tay và rất khổ sở nên đưa ra một hệ thống tư tưởng hướng đến việc lật đổ chế độ tư bản và đưa vô sản lên nắm chánh quyền. Cứu cánh của chủ nghĩa cộng sản là một xã hội không giai cấp, không có cảnh người bóc lột người, một thiên đường ở chốn thế gian này. Tư tưởng của Marx tự nó đã có chứa đựng nguyên tắc giáo điều rồi, vì nó hướng đến việc tiêu diệt tất cả những gì trái với chế độ và chủ trương cộng sản. Lenin đã làm cho nguyên tắc giáo điều này càng cứng rắn hơn với các phương pháp ông nêu ra để tổ chức một chánh đảng tranh đấu cho việc thực hiện lý tưởng cộng sản. Lúc chưa nắm đựợc chánh quyền, các Đảng Cộng sản ở các nước được nhiều người trong một quốc gia hoan nghinh, vì tưởng là nó sẽ đem hạnh phúc đến cho mình. Nhưng khi Cộng sản cầm quyền ở một nước, chánh sách giáo điều của họ đã làm cho nền kinh tế không phát triển nổi và nhơn dân hết sức khổ cực. Rốt cuộc, ở các nước bị Cộng sản cai trị, sự phân chia giai cấp và bóc lột chẳng những không chấm dứt mà các đảng viên cộng sản lại còn trở thành một giai cấp mới bóc lột nhơn dân còn tàn nhẫn hơn các chế độ khác mà người cộng sản bài xích. Ở một số nước cộng sản hiện nay, một số nhà lãnh đạo đã nhận thấy tình trạng đó và có chủ trương cải biến bằng cách thâu nhận một số nguyên tắc và phương pháp làm việc của các nước theo chế độ dân chủ tự do bị cho là tư bản. Những người chủ trương cải biến này nếu nắm được địa vị then chốt thì đã có thâu hoạch được một số kết quả khá tốt. Nhưng họ đã gặp sự chống báng của những người bám vào giáo điều cộng sản nhấn mạnh trên những khuyết điểm hay tai hại không tránh được mà sự cải biến mang đến để đòi hỏi phải duy trì nguyên vẹn chế độ cộng sản đã được xây dựng. Do đó, sự xung đột nội bộ bên trong các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước trở thành trầm trọng và điều này dĩ nhiên là hạn chế các sự cải biến cần thiết để cho xã hội cộng sản có thể cải thiện được và đời sống nhơn dân được thanh thản hơn. 2. Các mơ ước lớn của Kim Dung về chánh trị: sự hoà giải hòa hợp giữa các phe phái và các dân tộc. Từ những nhận định đưa đến một quan điểm và một số ý tưởng mới của mình, Kim Dung đã xây dựng những mơ ước lớn về chánh trị cho dân tộc Trung Hoa và cả nhơn loại. a. Mơ ước của Kim Dung về dân tộc Trung Hoa. Cũng như mọi người ái quốc, Kim Dung chắc chắn là rất đau lòng trước sự phân hóa của dân tộc Trung Hoa do cuộc xung đột Quốc-Cộng mà ra. Từ khi đã nhận chân rằng Trung Cộng cũng có những khuyết điểm lớn và những nhơn vật không tốt, trong khi phía đoàn thể quốc gia Trung Hoa, nhứt là Trung Hoa Quốc Dân Đảng, cũng có những chỗ hay và những nhơn vật tốt, Kim Dung có ước vọng muốn thấy hai phe Quốc-Cộng hòa giải hòa hợp với nhau để cùng nhau xây dựng quốc gia. 1) Mơ ước hòa giải hòa hợp giữa người quốc gia và người cộng sản Trung Hoa đã được Kim Dung nêu ra trong bộ CÔ GÁI ĐỒ LONG. Nhơn vật chánh yếu của bộ truyện võ hiệp này là Trương Vô Kỵ đã thực hiện sự hòa giải và hòa hợp giữa hai phe đã từng thù nghịch nhau và chống chọi nhau mãnh liệt: một bên là các môn phái tự xưng là chánh phái thể hiện cho phía Quốc Gia Trung Hoa, một bên là Minh Giáo bị phe chánh phái cho là Ma Giáo và tượng trưng cho Trung Cộng. Sự hòa giải hòa hợp này đã thực hiện được một phần nhờ thân thế, tài năng, đức độ và chủ trương của Trương Vô Kỵ. Ông có mối liên hệ thân thuộc với cả hai phe lại là người võ công siêu tuyệt, đồng thời không mảy may nghĩ đến tư lợi và quyết tâm thực hiện sự hòa giải hòa hợp giữa hai bên. Ngoài ra, lại còn một điều kiện khách quan giúp ông thực hiện nguyện vọng của ông: đó là nhu cầu kết hợp mọi người thuộc Hán tộc để tự giải phóng khỏi ách thống trị của người Mông Cổ. Sự thành công của Trương Vô Kỵ đòi hỏi một số điều kiện khó họp tập được cả. Nhưng trong thực tế, Trung Quốc đã từng họp tập được các điều kiện đó trước năm 1945. Thời Ông Tôn Văn còn sống, uy tín và đức độ của ông đã đủ để làm cho hai Đảng Trung Hoa Quốc Dân và Trung Cộng hợp tác nhau để đối phó với các nước đương uy hiếp Trung Hoa. Sau khi ông chết, hai đảng ấy đã chống chọi nhau, nhưng đến lúc người Nhựt xâm lấn Trung Quốc, họ lại hợp tác với nhau trở lại trong một mặt trận kháng Nhựt. Tuy nhiên, trong bộ CÔ GÁI ĐỒ LONG, Trương Vô Kỵ đã không nắm quyền lãnh đạo Minh Giáo cho đến lúc toàn thắng người Mông Cổ và làm người sáng lập của một triều đại mới. Sự rút lui của ông đã phần nào biểu lộ sự thất vọng của Kim Dung về chỗ sự hòa giải hòa hợp giữa hai phe Quốc-Cộng ở Trung Hoa không kéo dài được sau khi nước Nhựt đã đầu hàng các nước đồng minh. 2) Ngoài bộ CÔ GÁI ĐỒ LONG, bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ cũng biểu lộ mơ ước của Kim Dung thấy hai phe Quốc-Cộng ở Trung Hoa hòa giải hoà hợp với nhau. Trong bộ truyện võ hiệp sau này, các chánh phái thể hiện cho các đoàn thể quốc gia, với phái Hoa Sơn biểu tượng cho Trung Hoa Quốc Dân Đảng, trong khi Triêu Dương Thần Giáo là biểu tượng của Đảng Trung Cộng. Lưu Chánh Phong và Khúc Dương là những nhơn vật rẩt tốt và có tinh thần cởi mở khoan dung. Việc họ do lòng mê say âm nhạc mà kết bạn với nhau và cùng nhau sáng tác bản nhạc Tiếu Ngạo Giang Hồ biểu lộ cho mơ ước của Kim Dung là các nhơn vật tốt của hai phe Quốc và Cộng ở Trung Hoa có sự tôn trọng và thương mến nhau và thực hiện được sự hòa giải hòa hợp giữa hai bên. Nhưng Lưu Chánh Phong và Khúc Dương đã bị tinh thần giáo điều của các phe đối chọi nhau mà bị bức tử. Cái chết của họ biểu tượng cho sự thất bại của thế hệ các ông Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông trong việc thực hiện sự hòa giải hòa hợp giữa hai bên. Việc Nhậm Doanh Doanh vì yêu Lịnh Hồ Xung mà chấm dứt sự tranh chấp giữa Triêu Dương Thần Giáo với các chánh phái có thể xem như là sự thể hiện của giấc mơ mà Kim Dung ôm ấp, là sự hòa giải hòa hợp giữa hai bên Quốc-Cộng Trung Hoa sẽ thực hiện được với các thế hệ lãnh đạo sau này của hai bên. Lập trường của Kim Dung trong việc hòa giải hòa hợp giữa hai phe Quốc-Cộng Trung Hoa có thể nhận thấy một cách rõ ràng trong cốt chuyện của bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ. Trong cái chết của Lưu Chánh Phong và Khúc Dương, trách nhiệm lớn nhứt thuộc về phía các chánh phái. Chính Tả Lãnh Thiền với sự tán thành của phần lớn tác chánh phái đã cố tình sát hại hai nhân vật này. Nhưng trong việc hòa giải hòa hợp mà Kim Dung mong ước sẽ có, trách nhiệm lớn nhứt lại thuộc về phía Trung Cộng. Trong bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ, Nhậm Ngã Hành đã ngỏ ý chịu gả Nhậm Doanh Doanh cho Lịnh Hồ Xung lại mời Lịnh Hồ Xung làm Phó Giáo Chủ Triêu Dương Thần Giáo. Nhưng mặc dầu đã yêu Nhậm Doanh Doanh hết mực, Lịnh Hồ Xung đã cương quyết từ chối. Với sự kiện này, Kim Dung đã cho thấy rằng theo ông, sự hòa giải hòa hợp giữa hai phe Quốc-Cộng Trung Hoa không thể thực hiện được nếu Trung Cộng vẫn còn giữ nguyên tinh thần giáo điều và chế độ độc tài đảng trị. Trong bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ, sự hòa giải hòa hợp giữa Triêu Dương Thần Giáo và các chánh phái chỉ thực hiện được nhờ Nhậm Ngã Hành đột nhiên chết trong khi mưu đồ tấn công các chánh phái ấy và được Nhậm Doanh Doanh thay thế ở chức vị Giáo Chủ Triêu Dương Thần Giáo. Vì mối tình với Lịnh Hồ Xung, Nhậm Doanh Doanh đã thay đổi hẳn chánh sách của giáo phái này và Hướng Vấn Thiên là người ké vị cho bà đã tiếp tục chánh sách hòa giải hòa hợp với các chánh phái. Kết cuộc như trên đây thật sự không được tự nhiên. Nhưng chúng ta có thể nghĩ rằng với lối kết cuộc đó, Kim Dung đã biểu lộ sự mơ ước của ông là một ngày nào đó, các nhà lãnh đạo Trung Cộng sẽ thay đổi hẳn chánh sách của Đảng mình để cho người Trung Hoa không theo chủ nghĩa cộng sản có thể hợp tác một cách chơn thành với họ mà xây dựng Trung Quốc. 3) Trong thực tế, giắc mơ của Kim Dung về sự thống nhứt người Trung Hoa sẽ có thể trở thành sự thật hay không? Hiện nay, chúng ta chưa có thể trả lời câu hỏi này một cách dứt khoát. Các nhà lãnh đạo Trung Cộng đã có nhiều thay đổi trong chiều hướng cởi mớ khoan dung hơn. Họ đã chịu để cho người dân Trung Hoa tích cực hoạt động sản xuất được hưởng lợi nhiều hơn. Họ cũng đã khôi phục danh dự và quyền lợi các nhà trí thức đã bị bạc đãi và hiếp bức trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa. Họ lại bỏ chủ trương mạt sát tất cả những người không theo đúng đường lối của họ mà tỏ ra công bằng và khách quan hơn trong sự phê phán các nhơn vật lịch sử. Một trong những trường hợp đáng lưu ý là trường hợp ông Trần Độc Tú. Ông này là một trong những người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Marx ở Trung Quốc và là một trong các sáng lập viên của Đảng Trung Cộng. Ông đã được bầu làm Tổng Thư Ký Trung Ương Thư Ký Xứ của Đảng này trong Đại Hội đầu tiên triệu tập năm 1921 và đã đóng vai tuồng lãnh đạo cho đến năm 1927 là năm ông bị Mao Trạch Động thay thế. Đến năm 1929, ông bị trục xuất khỏi Đảng Trung Cộng và bị kết án là phản bội. Nhưng hiện nay, các nhà lãnh đạo Trung Cộng đã công khai nhìn nhận rằng mặc dầu đã có những sai lầm, ông Trần Độc Tú đã có công trong việc nêu cao ngọn cờ dân chủ và khoa học ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 20. Về phần ông Tưởng Giới Thạch, người đã chống lại Trung Cộng mãnh liệt từ năm 1927, mặc dầu có lúc đã cùng với Trung Cộng đứng chung trong mặt trận kháng Nhựt, thì Trung Cộng đã xem như là một kẻ thù và một người có tội lớn (tội với nhơn dân Trung Hoa. Nhưng hiện nay, các nhà lãnh đạo Trung Cộng cũng đã công khai nhìn nhận rằng ông Tưởng Giới Thạch đã có công trong việc kháng Nhựt để bảo vệ nền độc lập của Trung Quốc. Tuy nhiên, đồng thời với những sự thay đổi trên đây, các nhà lãnh đạo Trung Cộng xác nhận rằng họ vẫn trung thành với bốn nguyên tắc: noi theo tư tưởng của Marx, Lenin và Mao Trạch Đông, duy trì chế độ xã hội chủ nghĩa, theo chánh sách nhơn dân chuyên chánh, và tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng. Một số những nhà lãnh tụ và cán bộ của Đảng Trung Cộng đã dựa vào các nguyên tắc trên đây để chống chọi hay ít nhứt cũng để chỉ trích các sự thay đổi được đem ra áp dụng. Những người quan sát chánh trường Trung Cộng có thể tự hỏi: trong tương lai, Trung Cộng sẽ trở về với chủ trương giáo điều cứng rắn trước đây và bãi bỏ các thay đổi đương có, hay sẽ duy trì các thay đổi này hoặc sẽ thay đổi nhiều hơn nữa trong chiều hướng cởi mở, khoan dung? Việc người Trung Hoa có thực hiện được sự hòa giải hòa hợp với nhau hay không tùy thuộc cách Trung Cộng trả lời cho câu hỏi trên đây. Sự hòa giải hòa hợp giữa hai phe Quốc-Cộng thể hiện bằng sự sáp nhập Đài Loan vào lãnh thổ Trung Hoa Nhơn Dân Cộng Hòa Quốc chỉ có thể có khi Trung Cộng nếu không thay đổi nhiều hơn nữa trong chiều hướng cởi mở khoan dung thì ít nhứt cũng duy trì các thay đổi đã có hiện nay. Dầu thế nào thì việc hòa giải hòa hợp giữa hai phe Quốc-Cộng Trung Hoa cũng không thể thực hiện ngay trong lúc này, vì ông Tưởng Kinh Quốc và các nhà lãnh đạo Trung Hoa Quốc Dân Đảng hiện nay còn thuộc về một thế hệ không chấp nhận sự hòa giải hòa hợp với người cộng sản. Nếu ta lấy các nhơn vật trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung để thí dụ thì ta có thể nói rằng họ không phải thuộc thế hệ của Lịnh Hồ Xung mà thuộc thế hệ trước đó. Đối với những người sẽ kế vị các nhà lãnh đạo Trung Hoa Quốc Dân Đảng hiện tại để lãnh đạo đảo Đài Loan thì dầu có muốn hòa giải hòa hợp với Trung Cộng, họ cũng còn phải quan sát kỹ diễn tiến của chế độ Trung Cộng trong các thập niên sẽ tới. Chánh sách của Trung Cộng đối với Hongkong trong tương lai sẽ là một yếu tố có tầm quan trọng quyết định cho người Trung Hoa ở Đài Loan. Như chúng tôi đã trình bày trên đây, theo hiệp ước đã ký giữa nước Anh với Trung Hoa Nhơn Dân Cộng Hòa Quốc thì đến năm 1997, Hongkong sẽ được sáp nhập vào lãnh thổ Trung Hoa, nhưng Chánh Phủ Trung Cộng đã cam kết là người dân Hongkong sẽ tiếp tục được hưởng một số quyền tự do, và chế độ kinh tế theo lối tư bản cũng như nếp sanh hoạt của người Hongkong sẽ được duy trì ít nhứt là 50 năm sau 1997. Việc duy trì chế độ kinh tế và nếp sanh hoạt của người Hongkong là điều cần thiết để cho đất Hongkong vẫn phồn thạnh và làm lợi cho Trung Quốc. Như vậy, Trung Cộng có nhiều lý do để giữ lời cam kết của mình. Nếu các nhà lãnh đạo Trung Cộng trong tương lai chống đỡ được áp lực của các phần tử trung thành với chủ nghĩa giáo điều, và để cho người Hongkong được huởng các quyền tự do căn bản, đồng thời duy trì được lề lối tổ chức kinh tế và nếp sanh hoạt hiện nay của họ, thì người Đài Loan sẽ có thể chấp nhận sự hòa giải hòa hợp với Trung Cộng một cách dễ dàng hơn. Nhưng điều này chỉ sẽ có thể xảy ra trong tương lai, sau năm 1997, nếu nó có xảy ra. Dân tộc Trung Hoa vốn là một dân tộc đã chứng tỏ được tinh thần khoan dung của mình trong quá khứ với việc tìm cách dung hợp các lý tưởng chánh trị khác nhau. Khi mới thống nhứt Trung Quốc hồi thé kỷ thứ ba tr. C.N., nhà Tần đã áp dụng một chánh sách khắc nghiệt và chỉ tôn thờ học thuyết của Pháp Gia. Nhưng chính vì đó mà chỉ một thời gian ngắn, triều đại này đã sụp đổ. Nhà Hán kế tiếp theo đó đã dung hợp tư tưởng của Pháp Gia với tư tưởng các học phái khác, đặc biệt là tư tưởng Nho Gia vốn chống chọi lại tư tưởng Pháp Gia. Ta có thể so sánh thời kỳ ông Mao Trạch Đông cầm quyền với thời kỳ nhà Tần ngự trị, và xem các cải bién của các nhà lãnh đạo hiện tại như là các cải biến đã thực hiện vào đầu đời nhà Hán. Nếu nó duy trì được thì các nhà lãnh đạo Trung Cộng hiện nay sẽ chứng tỏ được là họ đã rút được những bài học hữu ích trong chính lịch sử dân tộc họ, thay vì nhắm mắt đi theo một chủ nghĩa ngoại lai. Và như vậy thì những người có cảm tình với Kim Dung chỉ còn ước mong rằng ông sẽ còn sống đến sau năm 1997, cho đến ngày ông thấy giấc mơ của ông được thực hiện. Dầu sao thì việc các nhà lãnh đạo của hai phe Quốc-Cộng Trung Hoa hiện nay đều đã cho phép nhơn dân dưới quyền họ được đọc các tác phẩm của ông cũng cho phép ông có nhiều hy vọng về vấn đề này.