Thuật ra tới cửa lò thì cai Tứ đã có đấy rồi, đang cắt đặt cho người phu làm. Nhận xẻng cuốc và đèn xong, Thuật cùng năm người phu khác chung một lò cùng đứng cả vào trong lô ri, một thứ thùng gỗ vuông bề cao chừng 80 phân tây và trên miệng có dây sắt buộc liền vào máy trục, nom y như dây quàng vậy. Máy bắt đầu chạy, lô ri từ từ bị nhấc bổng rồi từ từ bị thả sâu xuốnglò. Tới đất, sáu người vác xẻng cuốc leo ra ngoài, đoạn vào một cái hầm vuông ăn sâu vào trong lòng một ngọn gò đất sỏi. Chiều cao cái hầm độ thước tám, rộng chừng hai thước có nhiều khúc gỗ chống cho đất khỏi sụt. Tuy mỗi người tay đều cầm một chiếc đèn mà thoạt đầu Thuật cũng choáng váng, thấy mình vụt như bị mù cả hai mắt, không nhìn ra vật gì nữa. Thuật thoáng nhớ lại những chuyện ghê gớm, thật là nhiều tấn thảm kịch, mà anh ta nhiều lần nghe nói xẩy ra ở trong lò. Nào là cái hơi ghi- du nổ dữ như trái phá. Nó không có một dấu hiệu gì báo trước cho người ta khả dĩ biết mà phòng bị. Nó là cái hơi bốc ở than ra hễ bắt lửa là nổ liền. Có một lần, chính Thuật đã được xem các bị nạn, bọn phu mỏ đang cuốc than thì một tiếng nổ vụt bùng ra như sét làm cho than, đá bắn vung lên... Tất cả bọn phu đều chết không những bởi các mảnh than vụn, đá vụn bắn vào người như mảnh phá mà còn bởi cái hơi ghi-du thui chín nhừ. Lúc người ta lôi được các nạn nhân ra thì anh nào anh nấy quần áo đã cháy hết, thân thể trương to lên, nứt toác và đen thui lại như lợn nhà cháy, không còn phép tiên nào chữa được nữa. Nào cái nạn sụt lò. Những khúc gỗ chêm nếu không thay mới luôn thì thường bị mục nát, không đủ sức chống đỡ sự đè ép của ngọn gò ở trên thành thử cái nạn sụt lò xẩy ra, cũng ghê gớm chẳng kém gì cái nạn ghi-du nổ. Nhiều bận phu lò đang cuốc than thì đất sụt, đè họ bẹp dí như chuột bị cạm hoặc sụt ở phía ngoài, lấp hẳn lối ra khiến bọn phu phải ngạt thở. Nào cái nạn bị ngập lò, ở dưới đất thường có những túi nước ngầm không ai biết. Phu mỏ cuốc than nhỡ cuốc phải túi nước thế là cả lò bị ngập trong nháy mắt, bọn người lao động chết đuối hết vì không ai chạy kịp. Những tai nạn như thế không phải là chuyện hiếm và tuy cuộc đời họ chẳng có gì bảo đảm cho, bọn phu vẫn cứ phải lăn lưng vào mà làm. Loài người chẳng thường bị đói rét nó hãm vào một tình cảnh trái ngược: vào chỗ chết để giữ lấy sự sống đó ru? Thuật sợ lắm, chỉ muốn lên ngay trên mặt đất ra khỏi cái địa ngục tối om này nhưng Thuật tự nói: - Ra về rồi làm gì? Những cảnh thiếu thốn, khổ sở trong gia đình, những nông nỗi mẹ chàng ngấm ngầm lo sợ vì quanh năm suốt tháng luôn luôn cứ phải xoay xở với một số tiền lương chẳng bao giờ đủ lại hiện ra trước mắt Thuật với những lời hạch sách quát tháo, chửi bới của ông bố Thuật văng vẳng bên tai anh chàng.Thuật không dám nghĩ ngợi do dự nữa. Anh quả quyết theo bọn phu vào lò... Lần theo ánh sáng của chiếc đèn dầu sở. Thuật bước vào con đường ẩm ướt...Vừa vào chừng độ mười thước tây, Thuật đã khó thở, cảm thấy trên ngực như có một vác nặng gì nó đè ép. Là vì không khí trong lò phần hâm hấp nóng và đầy những hơi nước, phần sặc sụa những mùi khói đèn, mùi phân của bọn cu-li túng bí phóng bừa cả ra hai bên lối đi. Ba bề bốn bên, thành lò đều rỉ ra một thứ nước đen tong tỏng, nhớp nháp, ghê tởm quá chừng. Sức lực điền như Thuật mà chỉ trong vòng mươi lăm phút, toàn thân đã mệt mỏi rã rời, đầu nặng như đội cối đá, hơi thở nặng nhọc, hai chân tê buốt cóng hẳn đi... Thuật còn nhớ người ta nói rằng những người nào yếu vào lò thường ngất đi vì không thở được... Đang lúc Thuật phân vân thì một tiếng còi bỗng như xé bầu không khí hôi thối ẩm ướt... Bọn phu lò nhảy giạt cả sang hai bên, ép mình vào thành lò như mấy con nhái bén. Thuật hoảng kinh, cũng làm theo chúng bạn nhưng vẫn chưa hiểu rõ đầu đuôi tại sao thì rầm rầm, rầm rầm, một chuỗi goòng sắt chạy lướt qua như bão táp... Thuật quáng mắt, váng đầu. Anh sợ nhủn người vì nếu chỉ chậm chân một phút nữa thì anh đã bị goòng đè gãy xương nát thịt rồi!... Từ lúc ấy, Thuật luôn luôn để tai nghe ngóng. Hơi một tiếng động khác thường cũng làm cho Thuật hoảng hốt nhảy rạp vào bên đường. Chúng bạn khúc khích cười và chế giễu: - Nhát như con gái ấy thì ở nhà mà nấu cơm, gánh nước có hơn không? Thuật thẹn, cúi đầu không nói. Đến chỗ làm. Ai nấy treo đèn rồi bắt đầu vào việc. Người khỏe nhất và thạo nhất trong đám đứng lên trước, vừa cuốc vừa dò mạch than. Các người khác chia nhau từng khoảng, hẹn phải cố làm cho được việc. Thuật ra sức cuốc, cố làm để được nhiều tiền vì cùng một công làm. Toàn thân anh ta nóng bừng lên, lại thêm không khí trong lò nóng sừng sực, khiến anh phải cởi bỏ cả áo mới chịu được. Thấy Thuật làm khỏe, người min-nơ quay lại bảo một anh trong bọn: - Anh Nhỡ đâu, súc than vào goòng đi, để anh Thuật cuốc. Làm như thế thì ăn công nhì mới đáng chứ làm như gãi ngứa thì than đá nó buồn gì! Nhỡ, một anh phu gầy còm, cử động lẩy bẩy, lặng lẽ cầm xẻng xúc than đổ vào goòng. Anh ta không nói gì nhưng cứ cái liếc trộm của anh về phía người bạn mới, Thuật cũng đủ hiểu là anh ta không bằng lòng. Thuật cảm thấy một sự buồn thương và ngượng nghịu. Anh đoán trước kia Nhỡ cũng đã khỏe mạnh lắm; ngực cũng nở như ngực anh; bắp chân, bắp tay cũng to và rắn như bắp chân, bắp tay của anh. Nhưng vì lâu ngày làm vất vả quá mà ăn uống không đủ vì số lương của anh còn phải dùng để nuôi gia đình anh nữa. Vì thế mà người anh mỗi ngày một gầy mòn, ốm yếu đi như thế. Thuật phàn nàn cho Nhỡ rồi lại vơ vẩn nghĩ đến mình. ừ, một ngày kia, mà cái ngày ấy thì chắc chắn thế nào cũng tới, Thuật sẽ lại như Nhỡ bây giờ chứ không khỏi được. Người ta có phải là sắt đá đâu. Ngay đến sắt đá cũng mòn nữa là! Thuật dừng tay, bảo Nhỡ: - Tôi cũng nghèo khổ như anh em mới phải đem thân đi làm vất vả thế này, chứ còn nước non gì mà bảo tranh hơn tranh kém. Thuật nói thế là cốt để Nhỡ khỏi nghĩ khác. Thuật không muốn cùng một tụi với nhau lại còn có sự bất hòa. Nhưng, anh chàng Nhỡ, đang lúc bực mình, đâm ra hiểu lầm ý tốt của Thuật: - Anh tranh thế đếch nào được! Việc anh, anh làm; việc tôi, tôi làm. Anh làm nhiều thì anh ăn nhiều; tôi làm ít thì tôi ăn ít. Tôi không thèm tranh đua với anh. - Ô hay! anh này mới nóng nảy chứ? Tôi nói thế không phải à? Thấy hai bên có ý lôi thôi, min-nơ hét: - Cãi nhau cái con khỉ! Không làm đi cho xong mà về à? Ông cho đến giờ mà không đủ than, cai nó lại không phạt cho bỏ mẹ ra ấy!... Thuật nín lặng và lại cầm cuốc làm việc. Trong khi ấy, Nhỡ cũng xúc than vào goòng nhưng miệng vẫn lẩm bẩm nói những gì không rõ. Goòng than đã đầy, Nhỡ và một người nữa đẩy ra ngoài cửa lò để máy trục lên mặt đất. Người min-nơ giục: - Làm đi! Làm rấn đi, còn những sáu goòng nữa kia đấy! Hôm nào cũng cố sức làm cho chóng xong để về chứ vùi đầu trong xó tối này khổ lắm! Min-nơ vừa dứt lời thì một anh trong bọn vội vàng vứt cuốc chạy phá ra một chỗ như ma bắt. - Thông! Đi đâu đấy? Thông vừa chạy vừa đáp: - Xin phép bác, em tự nhiên đau bụng quá! Thế là, mấy phút sau, không khí trong lò lại thêm nồng nặc một mùi ghê gớm. Min-nơ nhổ toẹt một bãi và lẩm bẩm chửi bâng quơ: - Tiên sư khỉ!... Cứ đau bụng với đau bão mãi thì đến bố người ta cũng phải chết! Thuật bật cười, tuy tình thế chẳng có gì đáng cười cả. Min-nơ phát cáu, quay lại hỏi vặn: - Anh cười cái gì? Thuật lúng túng: - Tôi buồn cười anh chàng Nhỡ hay cáu... - Cáu sằng thì làm đếch gì cái tính ấy! Làm đã chẳng được, thấy người ta làm lại đâm ghen hão!. - Anh ta trước hình như cũng sức lực lắm thì phải. Min-nơ vừa cuốc vừa trả lời: - Phải, trước kia Nhỡ cũng sức vóc như anh. Nó làm ít ai theo kịp nhưng từ khi vợ nó bị goòng đè chết, nó buồn đâm ra rượu chè hút sách nên người nó mới gầy mòn đi như thế!... Lặng im một phút, min-nơ tiếp theo: - Vợ nó lại đang chửa gần đến tháng đẻ mới thảm chứ! - Chị ta nặng nề thì nghỉ nhà có hơn không? - Hứ! Nghỉ nhà thì lấy gì mà ăn! - Lương anh ta lại không đủ cho hai vợ chồng hay sao? Min-nơ chống cuốc. - Anh làm như người ta ở lỗ nẻ chui lên không bằng! Còn cha mẹ ở nhà quê nữa chứ? Còn họ hàng làng nước, còn sưu thuế tạp dịch dễ thường ì ra được đấy! Thuật nín lặng. Vì chính những lẽ mà bác min-nơ viện ra ấy nó cũng đương hành hạ anh và bó buộc anh phải đâm đầu vào cái hầm ẩm thấp tối đen này. Min-nơ nhìn Thuật đoạn khẽ thở dài: - Chẳng qua vợ Nhỡ số nó phải chết thảm chết hại như thế! Người ta rút đến số thì không nói mạnh được! Câu ấy Thuật đã nghe thấy người ta nói nhiều lần và chính Thuật cũng nói đến nhiều lần. Nhưng có lẽ vì câu chuyện thương tâm kia nên Thuật lần này nghe min-nơ nói đến số, anh ta không thấy làm thỏa, cảm thấy trong lòng tức tối, khó chịu thế nào ấy: Thuật lẩm bẩm: - Số hệ con chó gì lại số hệ như thế! - Bác không tin à? Tôi thì tôi tin người ta hay dở đều do số hệ cả! - Nhưng số gì lại phân ra kẻ giàu người nghèo? Kẻ giàu thì ăn không hết, tha hồ vung tay quá trán; kẻ nghèo thì thiếu cơm thiếu áo, suốt đời khổ cực... - Đó tôi tưởng cũng do một lẽ tiền định. Vả lại tôi thấy người ta nói rằng kẻ nào kiếp trước ăn ở phúc hậu thì kiếp này được sung sướng. Kẻ nào kiếp này ác nghiệp thì kiếp sau phải khổ sở. Điều ấy có thể tin được. Thuật lắc đầu. - Nói thì vẫn thế nhưng câu chuyện nó vẫn mơ hồ thế nào ấy. Tôi chẳng thấy chán vạn đứa ác như hùm mà vẫn sung sướng đó ư? Tôi thì tôi cho rằng... Thuật lúng túng không biết nói hết câu như thế nào vì các tư tưởng của anh ta đều lộn xộn không có chút thống hệ nào hết. Anh ta không nói được nhưng anh ta vẫn tấm tức khó chịu vì một ý tưởng gì nó sạo sục trong đầu anh. Một lão già nói chen một câu buông thõng: - Tôi thì tôi chẳng tin số lý gì hết. Tôi cho ở đời này hễ thằng nào khôn và khỏe là thằng ấy được, thằng nào khù khờ, hèn yếu là thằng ấy chết! Min nơ hỏi đùa người phu già: - Thế cụ khôn hay dại? - Chẳng dại, chẳng hèn lại phải rúc vào đây làm như con chuột cống ấy! Cả bọn phá lên cười. Chiếc xe goòng vào ra đã bốn lượt. Min nơ đắc chí reo: - Bốn goòng rồi! còn ba goòng nữa là các bố ăn xu!... Mau lên anh em!... Những nhát cuốc trở nên hăng hái; mảnh than bắn tung tành... Giữa lúc ấy, cai Tứ xuống lò xem công việc. Ai nấy dừng tay và cất tiếng chào: - Lạy ông ạ! Không đáp, Tứ hỏi: - Được bao nhiêu rồi? Min nơ đáp thay cho mọi người: - Thưa ông, xe ra bốn goòng rồi. Còn chỗ này cũng được độ goòng rưỡi nữa. - Còn goòng rưỡi nữa là xong công việc, giỏi đấy! - Thưa ông bây giờ độ mấy giờ? - Lúc tôi xuống đây thì vừa đúng một giờ. - Vậy chỉ ba giờ là chúng con xong việc. - Phải, cũng chỉ độ thế. À, Thuật đâu? - Dạ. - Min nơ, Thuật làm khá không? - Bẩm, anh ta cuốc khỏe và khéo lắm! - Thế à? Thế thì cho Thuật ăn công nhì. Thuật sung sướng: - Cảm ơn ông. Cai Tứ quay trở ra. Min nơ lẩm bẩm: - Thằng còng làm cho thằng ngay ăn! Ấy thế mà nó có thí bỏ cho mình một chút thì mình đã phải cảm ơn, cảm huệ rối rít!... Lão phu già nói: - Thế cho nên lão cho rằng chẳng có số lý cóc khô gì hết! Anh nào láu cá là anh ấy được phần hơn. Thuật lắng nghe. Tuy anh không thích hai tiếng láu cá mà câu nói của lão già anh vẫn chịu có một phần đúng, nó làm cho sự bực tức trong người anh như nhẹ được vài phần. - Phải, cụ nói phải. Mình cũng biết thế đấy nhưng làm quái gì được! Lão già khẽ thấp giọng xuống như người nói một chuyện bí mật, hai mắt liếc ra phía cửa lò: - Bây giờ lão ta rích lắm! Tậu bao nhiêu ruộng ở nhà quê, lại những bốn cô vợ!