rời sớm chưa rạng hẳn đã nghe thấy tiếng gà te te gáy.
Tiếng gà non gáy e é như một giống rít hơi đưa từ trong cuống họng đưa ra. Rồi thì cả nhà ai cũng nhắc đến:
- Ồ, con gà gáy đã gọn giọng ra phết đấy!
Một lát sau, cu Lặc ra mở tung hai cái cánh cửa chuồng gà vịt. Lập tức, anh Gà trống te tái chạy ra đầu tiên, sau mới đến mấy mụ Ngan lạch bạch, mươi chú Ngỗng khề khà vừa bước vừa thò cái cổ dài nghêu ra nghe ngóng. Thật là một cuộc điểm binh long trọng mà anh Gà giữ địa vị một ông thống soái đi dẫn đầu. Nó nhảy phóc ngay lên cái sàn chạn bát ở ngoài hiên vỗ đồm độp đôi cánh rồi lấy thẳng gân cổ, gáy một câu rõ thật oai:
“Kéc... ke... ke... ke...”.
Xa đây chừng hơn một tháng, một ngày phiên chợ Bưởi, u tôi mua về đôi gà nhỏ giá có gần ba hào cả hai. Người bảo: “Có thêm mấy con gà lắt nhắt cho nó vui sân”. Hai con gà - một trống, một mái - còn bé tẹo, dáng như vừa mới lìa đàn, suốt ngày cứ rúc vào một góc sân và kêu chim chíp bằng một giọng thảm thê. Chúng nó biếng cả ăn. Gạo rắc đầy ra chỗ cạnh cái lon nước mà thỉnh thoảng mới mổ vài hột. Con gà trống đôi khi cũng nhanh nhẹn, chạy chỗ nọ, chỗ kia, ngơ ngác như muốn tìm đường về. Còn ả gà mái dễ thường ốm bệnh nhớ; nó nằm liệt vị trong giữa bụi cây sói mà kêu ai oán. Rồi được đâu có vài hôm, một buổi sáng, tôi mở cửa chuồng chỉ thấy có một nhách gà trống lò dò đi ra. Con gà mái nằm chết còng queo dưới bục gỗ. Người ta đem ném xác con gà chết ra đồng và hôm ấy, anh gà trống còn lại sống lủi thủi một mình.
Nó là một giống Gà gi, thấp bé và nhỏ nhắn hơn giống Gà thường. Nó còn nhỏ, chưa vỡ lông vỡ cánh mà lại ủ rũ như một người buồn, cho nên trông càng đáng ái ngại. Lông cánh nó màu đỏ có đốm trắng, đốm đen, nhưng bàn quả thành ra một màu xám xịt. Cái mào nhu nhú tái ngoét ở trên đôi mắt lờ đờ mà lúc nào Gà ta đứng cũng muốn nhắm. Hai cái chân nhỏ quá, thấp quá, xám đen lại, luôn luôn run rẩy như sắp ngã quỵ xuống, như không chịu được thời tiết, dù đấy là thời tiết đầm ấm của những ngày mùa xuân. Nên khi nó đứng ở một góc sân kia, Lặc ném từng nắm thóc ở đằng này cho Ngan, cho Ngỗng ăn mà nó cũng không buồn chạy lại. Nó ngẩn ra nhìn lũ Ngan con bước đi líu tíu. Những con Ngan nhỏ mới nở được ba hôm, chỉ to hơn cái trứng một ít. Chúng có bộ lông vàng óng - một màu vàng đáng yêu - như màu những con tơ nõn mới guồng. Nhưng đẹp nhất là đôi mắt và cái mỏ. Đôi mắt chỉ bằng hột cườm, đen nhánh hạt huyền, lúc nào cũng long lanh đưa đi đưa lại như có nước, làm hoạt động hai con ngươi bóng mỡ. Một cái mỏ màu nhung hươu vừa bẳng ngón tay đứa bé mới đẻ và có lẽ cũng mềm như thế, mọc ngăn ngắn đằng trước, cái đầu xinh xinh vàng nuỗn và ở dưới lũn chũn hai cái chân bé tí màu đỏ hồng. Chúng nó chỉ líp chíp khe khẽ và lẩn quẩn ở dưới chân mẹ. Mụ Ngan mẹ, lờ đờ như một người đàn bà đụt và hiền, lúc nào cũng như mải nghĩ ngợi một điều gì ở tận đâu đâu. Thỉnh thoảng mụ kêu kíu kíu, dụi mỏ vào lũ con và lúc lắc cái đuôi. Lối chăn con của mụ rất vụng.
Anh Gà trống gi bé nhỏ và cô độc lắm lúc đứng nhìn đàn Ngan bằng đôi mắt hó háy rất thèm muốn. Anh ngoe nguẩy cái đuôi ngắn củn khi có mấy con Ngan tí hon sán đến chân. Và khi chúng hấp tấp chạy lại với mẹ chúng đang lừ đừ đi, con Gà trống khốn nạn cũng lây cái vui sướng cong cóc đuổi theo. Nhưng đến gần, mụ Ngan cái xù xì liền giơ mỏ lên quàng quạc mổ nó. Nó chợt tưng hửng. Nó lùi lại, lảng đi một phía, ngẩn ngơ kêu chim chíp, khắc khoải như tưởng nhớ, như đau thương. Có lúc nằm gục xuống vệ cỏ, buồn nghiêng một bên má, màng trắng kéo che kín mắt.
Tội nghiệp con Gà gi bé nhỏ sống côi cút một thân một mình!
*
Nhưng rồi nó cũng lớn và đẹp, sau đấy hơn một tháng. Qua mấy bữa ốm o, tiếp đến những ngày đẹp trời, có ánh nắng dịu lồng đầy bóng sân, thì con gà trống bắt đầu rỉa lông, rỉa cánh, sửa sang bộ mã cho bớt bẩn ướt. Rồi trông nó cũng choai choai đẹp mắt và lớn dần lên. Đến bây giờ ngắm nó cũng đã khá đường được.
Một buổi sớm, cả nhà đều nghe thấy một tiếng gì khang khác ở đằng sau nhà. Tiếng rít như tiếng ho thủng thẳng của một người khản cổ. Một lát, cụ Lặc chạy hộc tốc vào gọi:
- Cả nhà ra xem con gà gi nó học gáy.
À ra đây là tiếng con Gà gi tập gáy. Thảo nào. Nghe như tiếng người ta ọe. Nó đứng ở trên đầu một cái cọc giậu nứa, chốc chốc lại thưỡn dài cổ, phồng tướng cái diều đựng cơm lên rồi đưa ra một hơi
“Quét... ke... ke...”. Cứ một lát lại thế... Gáy rất khó nhọc, nhưng xem ra anh Gà khoan khoái lắm, mỗi khi xong được một tiếng như vậy. Vì thấy lúc tiếng “ke” cuối cùng vừa thoát ra khỏi mỏ, Gà ta nhìn ngang nhìn ngửa, hiêng hiếc hai con mắt tráo trâng ra vẻ lắm! Và lại bộ tịch nữa.
Và rồi ngày ngày lần lần qua, con Gà trống trút được cái dáng điệu buồn thỉu, buồn thiu buổi nọ đi. Có lẽ nó quên đàn, quên mẹ, quên con gà em chết hôm mới đây, quên, quên hết rồi. Vì nó đã lớn; khi người ta lớn thì những ý tưởng liên lạc về gia đình có lỏng lẻo dần dần. Con Gà đang ở thời kỳ sắm sửa, thời kỳ ăn chơi của một người thanh niên.
Màu sắc trên bộ má nó sẫm lại, đen thì đen biếc, trắng thanh trắng bạch và đỏ trở nên đỏ khé. Mào nó mọc dài, thắm hoe như dải lá cờ nheo. Đuôi nó uốn vồng lên từng chiếc lông dài huyền bóng. Mỏ nó thẫm ngà vàng và rắn chắc, có thể mổ đôm đốp được vào thân một cây nứa tép.
Bây giờ những buổi sớm, cậu Gà trống gi thường trở dậy gáy te te tự lúc chưa tỏ mặt người. Mỗi ngày cái câu
“Kéc... ke... ke...” lại nối dài thêm tiếng
“ke” vào. Bác xã Khóm làm nghề bán cháo rong bên hàng xóm đã phải theo tiếng gà báo thức để trở dậy làm hàng. Bác thường khen con gà gáy đúng giấc lắm!
Nó đứng đắn và hóa ra có bộ mặt khinh khinh ta đây. Nó bắt đầu coi thường mấy chú Ngan nhép cứ quẩn bên chân, những con Ngan nhỏ nhắn xưa đã làm nó vướng nhớ đến mẹ nó. Nó thị uy bằng cách đá cho chúng mấy cái. Bọn trẻ con này sợ, phải lảng ngay ra xa. Nó rất bằng lòng cái sự tấn công đầu tiên mà lại được thắng lợi. Dần dần nó lấn lên một bước nữa, nghĩa là con Gà gi của tôi, một bữa kia mổ ông Ngỗng cao lêu nghêu một cái vào cổ rồi lùi lại rất nhanh để giữ miếng. Ông Ngỗng bại và lẩn. Thế là một lúc sau, con Gà anh hùng và kiêu hãnh ấy nhảy lên, vừa đá vừa mổ vào lưng bà Ngan cái lừ đừ. Lúc này lại khiêm tốn, bà Ngan cũng đờ đẫn làm ngơ đi.
Từ đấy, con Gà trống gi lên ngôi cửu ngũ ở cái sân nuôi gà vịt con con. Mỗi buổi mai, khi người ta mở cửa chuồng, nó bay ngay ra đậu trên một cái sào nứa ngất nghểu, cất cao tiẽng gáy trong khi mấy con Ngan, mấy con Ngỗng lần lượt diễn binh qua ở dưới chân.
Ra vẻ tài ba lắm! Cái dĩ vãng buồn teo kia thật là xa, xa lăng lắc.
*
Đáng tiếc một nỗi, Gà lại là giống Gà gi, một thứ Gà bé nhất trong loài Gà. Cho nên, những khi anh ta làm bộ tịch người lớn thì buồn cười như những anh lùn mà đi cái lối ngoe nguẩy. Gà cũng uống nước, cũng rỉa lông, cũng hếch mắt lên nhìn trời những khi nắng to. Chỉ phiền cái nỗi anh chàng bé và thấp lũn chũn. Những bác lùn tịt lại hay dùng bộ điệu của người cao. Có một lần, anh mon men sang bên sân nhà hàng xóm chơi, chợt gặp một bác trống thiến. Chao ôi! Sao mà bác Gà trống thiến kia mới to thế, béo mẫm làm sao! Nó đứng mới đến bẹn anh bạn khổng lồ. Nó chuồn ngay về và từ buổi đó không bén mảng sang bên ấy nữa.
Nó kiếm ăn phương khác.
Và con Gà gi nhỏ cũng đa tình lắm. Nó có cái tật mê gái như cái tình chung của loài Gà khi mới lớn lên. Nó yêu rất ham, mặc dầu con đường tình của nó rất khó khăn và gặp nhiều trở ngại lớn. Là bởi một duyên cớ:
Xung quanh cái khu vực chỗ nó ở, tuyệt nhiên không có đến hai gã Gà gi. Trước sau mỗi một mình. Tìm một người bạn tri âm bằng trạc, không tài nào thấy. Có vài ba chị láng giềng thì đã “nái xề” quá, chỉ biết đẻ trứng và biết “cục ta, cạc tác” loạn xạ chứ không thể hiểu những giọng yêu đương tình tứ. Mỗi khi anh Gà trống đến gần, chúng chỉ biết quỳ hai chân xuống cho bạn nhảy lên lưng, làm tình yêu theo cái lối cơm bữa của hai vợ chồng, chẳng hiểu tán tụng xuân tình nửa lời. Anh Gà gi đang ở cái tuổi mơ mộng, nghĩ những chuyện ái ân cao xa. Vả lại trạc vai cũng không bằng các ả mái nọ; có lúc buồn muốn gỡ gạc, anh đến bên cạnh để xòe xòe cái cánh theo kiểu ghẹ mái, chực tán phó-mát một đôi câu nhưng lập tức bị các nàng phản đối và bị các chú Gà trống lớn nhất là ông Gà chọi - đánh cho chạy bán xác không kịp. Anh Gà gi hoảng. Trong vùng quanh đấy cũng có hai chị mái tơ. Nhưng có lẽ nó đã biết thân phận cho nên không dám há mỏ tán tỉnh. Hai chị thuộc về giống Gà lớn. Tán như vậy nếu gặp những thằng nhân tình của chúng thì thật là một cơn tối đại nguy hiểm của những trận đòn ghen. Anh chàng chịu thua. Đành chịu làm ăn một mình.
Nhưng anh rất bực mình. Những sớm sớm, những chiều chiều, đứng giương cặp mắt hau háu trong một bụi cây, nhìn từng cặp một vui thú tâm tình với nhau, lòng anh rạo rực và phiền muộn làm sao ấy. Chúng khinh anh bé nhỏ quá! Anh rất buồn rầu. Và buồn rầu, ảo não bao nhiêu anh lại càng hay cáu kỉnh, bực dọc với cái lũ Ngan, lũ Ngỗng ngu si bấy nhiêu. Anh đá, anh đạp, anh mổ, anh đuổi.
Chỉ khổ cho bọn ngốc nghếch!
Nhưng rồi anh Gà trống gi cũng học đòi đi kiếm ăn xa nhà. Hắn lẩn thẩn đến những khoảng vườn lạ. Như thế có lẽ lòng đỡ được buồn và trong khi rẽ bước giang hồ từ vườn cây này sang mô đất nọ, được từng trải và hiểu biết nhiều cảnh khác nhau, anh cũng giác ngộ thêm. Và anh còn có hy vọng mong gặp được một người bạn đồng tâm.
Anh hay đi vắng, ít khi phải về bới xó bếp nữa. Bây giờ anh đã tiêm nhiễm cái thú của sự du lịch. Có khi một ngày anh chỉ về nhà có một lần, lúc sẫm tối, khi trở lại chuồng ngủ.
Rồi không ai biết rõ là bữa nào, con Gà trống ra đi. Có lẽ hắn đi theo tiếng gọi của ái tình? Chỉ có một sáng, cu Lặc mở cửa chuồng như thường lệ, thấy vắng anh Gà gi, tìm cũng không có.
U tôi chép miệng:
- Mất con gà ranh con rồi!
Tưởng là mất hút. Nhưng một hôm chúng tôi ra ngoài đầu xóm chơi, lại bắt gặp anh Gà trống gi. Trông anh tang thương phờ phạc quá. Thật là gầy guộc phong trần cả đến lông đến cánh. Khi đó, chú Gà đương mải mê đi theo một chị Gà mái. Đó là một chị Gà mái gi. Chả trách được, bấy lâu nay vắng mặt chàng cũng là có lý và có lẽ lắm.
Bọn trẻ chạy về gọi Lặc. Lặc đuổi theo hai con gà thì thấy chúng chạy xô cả vào một ngõ gần đấy. Người ta bảo rằng:
- Một hôm, tự dưng có anh gà này không biết ở đâu, theo con gà mái của nhà tôi. Chẳng thấy ai trong xóm kêu mất gà nên tôi cũng mặc. Mà anh này thì mê tít con gà mái, ở liền ngày đêm, không rời đi đâu nữa!
Chúng tôi ôm con Gà trống gi về. U tôi bảo Lặc ra ngoài hỏi mua con Gà mái gi kia để cho có đôi. Và cốt là để buộc cẳng chàng Gà. Nhưng người ta trả lời:
- Ngày kia, nhà tôi có kỵ. Cũng phải giết thịt đến nó.
Thực thất vọng gớm ghê cho anh Gà gi. Và chỉ luẩn quẩn được vài hôm, anh ta lại biến đi đâu mất mặt. Nó đi tìm bạn tình của nó. Nhưng cái nàng Gà gi đã khiến cho gã phải bỏ cửa bỏ nhà, thì chết rồi.
Lần này gã đi biệt hẳn. Song chẳng phải là đi với nỗi nhớ thương con người má đào mệnh bạc ấy ngàn đời. Gã mau quên lắm. Và chắc là gã trẻ tuổi đó lại lần mò đi tìm một vài cái ái tình khác!