Chiến tranh giống như một tấm thảm kịch, có đoạn mở của nó. Nhưng thật bất hạnh là ít người có thể nhận ra được điều đó trước khi quá muộn. Mặt khác, ai biết được có bao nhiêu cuộc chiến tranh có thể đã được tránh không xảy ra.
Đầu năm 1964, không một ai có thể dự đoán được rằng, thế giới sẽ nhanh chóng chứng kiến một cuộc xung đột ở Đông Dương có tác động đến nhiều quốc gia và hệ thống lớn các mối quan hệ quốc tế.
Mặc dù, nhiều nhà quan sát đã rất lo ngại về tình hình ở Đông Nam Á và báo động về những phát triển nguy hiểm ở trong khu vực, nhưng đa số các chính trị gia và các nhà phân tích chính trị hy vọng là có thể tránh được bước ngoặt chết người của các sự kiện trên.
Trong số đó có các nhà lãnh đạo Xô viết, những người có lý do riêng của họ để đặt nhiều hy vọng về vấn đề này.
Năm 1964, ở Liên Xô người ta bắt đầu xuất bản một thứ của Nikita S. Khrusev, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô gửi nguyên thử các quốc gia trên toàn thế giới vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng này dự định (theo cách đặt vấn đề của ông) là "thu hút sự quan tâm tới một trong những vấn đề (theo quan điểm của chúng tôi) rất quan trọng cho sự nghiệp củng cố hoà bình" đó là về những cuộc tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia và các biện pháp giải quyết của họ.
Bức thư này là một sự khởi đầu mang tính hoà bình rất đặc trưng của Xô viết tập trung vào việc miêu tả
Liên Xô là một chiến sĩ đấu tranh cho hoà bình một cách bền bỉ. Đồng thời bức thư cũng thể hiện quan điểm của
Liên Xô về tình hình quốc tế lúc đó. Bức thư cũng bao gồm những đoạn nói về Việt
Nam, mặc dầu điều này không rõ ràng là vấn đề về tranh chấp lãnh thổ, Khrusev viết:
"Xét theo một vài khía cạnh thì một vấn đề nữa liên quan đến lãnh thổ. Đây là vấn đề sự thống nhất đất nước ở Đức, Triều Tiên và Việt Nam. Sau chiến tranh (Thế giới thứ II), mỗi nước này đã bị chia làm hai nước với những hệ thống xã hội khác nhau. Mong muốn thống nhất đất nước của nhân dân ở các nước đó đáng thông cảm và tôn trọng. Tất nhiên, nguyện vọng thống nhất đất nước phải được giải quyết bởi chính người dân trong các nước đó và bằng chính quyền của họ, chứ không phải bằng sự can thiệp quân sự từ bên ngoài hoặc xâm lược, ví dụ như đã xảy ra ở Nam Triều Tiên và Nam Việt Nam"…Mặc dù Việt
Nam được đề cập đến ở đoạn cuối trong phần bức thư của Khrusev, nhưng tình hình ở Đông Dương vẫn là mối lo ngại chủ yếu đói với Moskva và được coi như là một sự khác nhau cơ bản so với những diễn biến ở Đức và
Triều Tiên.
Trong bức thư của mình ông đã khẳng định quan điểm sau:
"Để giải quyết được vấn đề này thì việc tránh sử dụng vũ lực, cho phép người dân ở những nước đó giải quyết những yêu cầu về thống nhất đất nước một cách hoà bình là cần thiết. Tất cả các quốc gia khác phải khuyến khích cách làm này".Rõ ràng là tình hình bất ổn ở Việt
Nam đã làm các nhà chính trị Xô viết lưu tâm khi họ đề cập đến Việt
Nam ở hai đoạn trên trong bức thư của Khrusev. Nhưng liệu lời phát biểu này có phải là sự quan tâm của một nước xã hội chủ nghĩa này đối với nước xã hội chủ nghĩa khác?
Xét theo một vài khía cạnh nào thì điều này là đúng bởi vì nghi lễ xã giao đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống chính trị của Moskva. Nhưng các nhà lãnh đạo Xô viết dường như cũng đã lưu tâm đến các sự kiện ở Việt
Nam từ năm 1964. Không có điều gì bí mật đối với Moskva rằng kể từ năm 1959 các nhà cộng sản Việt Nam đã tập trung vào việc thống nhất đất nước bằng quân sự.
Những tài liệu chính thức của Đại hội Đảng lao động lần thứ 3 (Đảng của những người công nhân ở Việt Nam, được tổ chức vào tháng 9 năm 1960) đã được in ấn tại Liên Xô vào năm 1961, đã chứng tỏ sự xác định của Đảng đối với việc tăng gấp đôi nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, đó là sự công nhận Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Việt Nam và Công cuộc giải phóng miền Nam khỏi "sự thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai" và Công cuộc thống nhất đất nước.
Theo nghị quyết của Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam năm 1959 và cuộc họp đặc biệt của Bộ Chính trị diễn ra vài tháng sau đó, thì nhiệm vụ này bao gồm cả việc định hướng cho các đảng viên Cộng sản Việt Nam về một cuộc đấu tranh quân sự để thống nhất đất nước.
Hà Nội tin rằng sẽ có "một tình thế cách mạng" ở Nam Việt Nam. Do vậy mà người ta quyết định tăng cường những nỗ lực quân sự ở miền Nam kết hợp với "một cuộc phản công chống lại kẻ thù trên mặt trận chính trị". Ủy ban Trung ương Đảng
Bắc Việt Nam đã đưa ra một kế hoạch hành động cụ thể để hoàn thành nhiệm vụ này. Tất cả những biện pháp này cũng với sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (viết tắt là NLFSV, hoặc Việt Cộng, một tổ chức mang tư tưởng và được sự trợ giúp của Bắc Việt Nam) tháng 12 năm 1960, đã cho những người Xô viết thấy rằng có một số phát triển mới đang được hình thành trong khu vực.
Đầu tiên, những sự kiện ở Đông Nam Á dường như rất có ý nghĩa đối với Moskva. Khu vực này chưa bao giờ là mối quan tâm chính của giới lãnh đạo Xô viết bởi sự xa xôi và yếu kém của phong trào cách mạng trong khu vực. Sự trợ giúp của Liên Xô cho Việt Minh đối với cuộc chiến Đông Dương đầu tiên và đối với Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sau năm 1954 là một ngoại lệ. Nhưng trong cả hai trường hợp này, viện trợ của
Liên Xô vẫn ít hơn so với
Trung Quốc, là nước mà các lãnh đạo Việt
Nam có những quan hệ chặt chẽ hơn. Điều này cũng đúng khi xem xét đến sự hợp tác quân sự giữa Liên Xô và
Bắc Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của người Việt Nam, Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã viện trợ cho Việt Nam vô số vũ khí đạn dược.
Sau năm 1954, Liên Xô tham gia vào việc tổ chức lại các lực lượng vũ trang của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và đã gửi tới Việt Nam các cố vấn quân sự và vũ khí, một số đã được chuyển cho Việt Cộng. Nhưng sự giúp đỡ này là không đáng kể. Vì vậy, trước năm 1964,
Liên Xô chủ yếu vẫn là một quan sát viên trước những diễn biến ở Việt Nam.
Với vai trò này đã phục vụ cho chiến lược cùng tồn tại hoà bình của Khrusev với phương Tây và tránh những cuộc xung đột giống như cuộc khủng hoảng tên lửa ở
Cuba năm 1962. Với vị thế này có thể thực hiện được trong bối cảnh ở Đông Dương vẫn tồn tại một cuộc đấu tranh giữa các phe nhóm khác nhau của xã hội Việt
Nam. Thậm chí việc các cố vấn quân sự Mỹ được phái tới miền Nam Việt Nam cũng không thể hiện mối quan ngại nhiều đối với Moskva bằng sự lớn mạnh về ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực.
Liên Xô có thể tiếp tục đưa ra những bài phát biểu và những tuyên bố kêu gọi một giải pháp hoà bình đối với vấn đề thống nhất đất nước, Liên Xô có thể đảm bảo với Việt Nam dân chủ cộng hoà về sự ủng hộ của họ trong cuộc kháng chiến của những người yêu nước ở miền Nam Việt Nam, Liên Xô có thể cung cấp cho họ (thông qua Hà Nội), viện trợ hứa hẹn dưới dạng vũ khí của Đức, cung cấp dược phẩm y tế và như vậy có thể xây dựng những mối quan hệ ổn định với phương Tây.
Thế nhưng quyết định của Trung ương Đảng Lao động Việt nam vào năm 1959 và 1960 đã thách thức những chiến thuật này của Kreml. Bằng việc thay đổi những quan điểm của Liên Xô vào đầu năm 1964 cũng nhanh chóng làm sâu sắc mối bất hoà giữa Liên Xô và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Sự xung đột giữa hai Đảng cộng sản lúc đó đã phát triển tới một sự kình địch công khai và những giai đoạn ngừng xung đột ngày càng trở nên hiếm hoi. Sự bất hoà Trung-Xô đã tác động mạnh mẽ đến những cân nhắc của Liên Xô đối với khu vực Đông Nam Á. Ảnh hưởng của
Trung Quốc vào khu vực này luôn luôn mạnh mẽ, không chỉ bởi lý do địa lý duy nhất.
Vào đầu những năm 60, vị trí của Trung Quốc trong khu vực, đặc biệt đối với Việt Nam, thậm chí còn phát triển mạnh mẽ hơn. Các nhà cộng sản
Trung Quốc và Việt
Nam phát hiện ra rằng họ có nhiều điểm
chung trên con đường đi tới phong trào cộng sản thế giới, về vai trò của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và về việc cùng tồn tại hoà bình với các nước tư bản chủ nghĩa.
Họ có
chung một tình cảm rất sâu nặng về chủ nghĩa dân tộc mà điều đó đã thống nhất quan điểm của họ về thái độ đối với các "đồng chí"
Liên Xô. Do có những triển vọng về một nước Việt
Nam thống nhất, nên Hà Nội và
Bắc Kinh có một sự nhất trí rằng đấu tranh chính trị, quân sự là những biện pháp chính để đạt được mục đích này.
Những bất đồng nhỏ về những vấn đề như thế này là:
Liệu Bắc Việt Nam có nên gửi lực lượng quân sự để giúp đỡ lực lượng Giải phóng dân tộc miền Nam Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và "bè lũ tay sai" hay không? Liệu Việt Cộng có nên trông cậy vào lực lượng quân sự riêng của mình hay không? Đã ít được để ý đến.
Sự phát triển ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Nam Á xảy ra đồng thời với sự giảm đi một cách tương đối lợi ích của
Liên Xô trong khu vực. Khrusev dường như đã được thuyết phục rằng cách thức tối ưu để giải quyết với những hoàn cảnh trên là để cho chúng tự phát triển với sự dính líu ít nhất của
Liên Xô, giới hạn chủ yếu ở sự ủng hộ về tinh thần.
Quan điểm này vẫn giữ nguyên, không thay đổi cho đến khi có chuyến viếng thăm của đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt
Nam tới Moskva vào tháng 1, 2 năm 1964.
Đoàn đại biểu Việt Nam tới Moskva vào ngày 31-1-1964 do Lê Duẩn dẫn đầu, cùng với những đại diện lỗi lạc của giới lãnh đạo Hà Nội như Lê Đức Thọ và Hoàng Văn Hoan (cả hai là Ủy viên Bộ Chính trị và là Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam).
Báo Pravda đăng một bài ngắn gọn về chuyến thăm của những người Việt
Nam này mà không có một lời tiết lộ nào về mục đích của chuyến đi. Độc giả đã có thể cho là những con người Việt
Nam này đến chủ yếu là để thăm quan Moskva-Lăng Lê-nin, Cung điện Thanh niên, Nhà hát lớn.
Nhưng vào ngày 9 tháng 2, báo Pravda đã in trên trang nhất về cuộc họp ở Điện Kreml giữa đoàn đại biểu Việt Nam và Bí thư thứ nhất Đảng cộng sản Liên Xô Khrusev cùng với một bức ảnh chụp nhà lãnh đạo Xô viết đang mỉm cười và những gương mặt rạng rỡ của các vị khách.
Bài báo nhận xét rằng, cuộc gặp đã diễn ra trong bầu không khí "thắm tình hữu nghị" và những vấn đề về lợi ích
chung đã được thảo luận.
Quan trọng hơn là đoạn tiếp theo đã nhấn mạnh rằng:
"Cả hai bên đã thể hiện sự đoàn kết của Phe xã hội chủ nghĩa và Phong trào Cộng sản thế giới, tăng cường tình đoàn kết và hữu nghị của CPSV (Đảng cộng sản Liên Xô) và PTV (từ Nga chỉ Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam) của Liên Xô và Việt Nam dân chủ cộng hoà trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lê nin và những nguyên tắc cơ bản của phong trào vô sản quốc tế. Cả hai Đảng đã đặt chính sách của họ dựa trên những nguyên tắc của cương lĩnh và tuyên bố của các Đảng cộng sản vì công nhân".Câu cuối cùng này ám chỉ rằng không có sự khác biệt giữa hai đảng đối với vấn đề trên và đó là trung tâm của sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc.
Theo bài báo đó thì Đảng Lao động Việt
Nam dường như là người ủng hộ mạnh mẽ cho những người Xô viết.
Nhưng tình hình thực tế thì phức tạp hơn.
Tháng 3 năm 1964, trong một bức điện của Ban bí thư Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô gửi Đại sứ Liên Xô ở Paris đã đưa nội dung chi tiết của những cuộc thảo luận trong chuyến thăm của Lê Duẩn và các đồng chí của ông ta ở Liên Xô.
Nội dung của bức điện đã thể hiện rõ ràng rằng chuyến thăm này đã được các nhà lãnh đạo Hà Nội chuẩn bị với mục đích là khuyên các đối tác Xô viết của họ hãy ủng hộ những quyết định của Đảng Lao động tại Hội nghị lần thứ 9 Ủy ban Trung ương tháng 12 năm 1963 và xem xét lập trường của Liên Xô đối với những quyết định này, để đạt được mục đích trên, những người Việt Nam đã chuẩn bị một bài phát biểu dài bảy mươi ba trang để giải thích quan điểm của họ về "những vấn đề chiến tranh và hoà bình, về phong trào giải phóng dân tộc và về sự thống nhất của Hệ thống cộng sản thế giới và Phe xã hội chủ nghĩa".
Hơn nữa,
Lê Duẩn cũng lưu ý rằng phái đoàn của ông ta chỉ đề cập đến những vấn đề có sự khác nhau về mặt quan điểm giữa Đảng Lao động Việt
Nam và Đảng cộng sản
Liên Xô.
Hội nghị lần thứ 9, Đảng của những người công nhân cũng đã đưa ra một quyết tấm to lớn nhằm chuẩn bị một cuộc tổng khởi nghĩa ở miền
Nam và đã dưa ra một chiến lược cho cuộc khởi nghĩa này.
Hội nghị này đã nhấn mạnh đến nhu cầu hình thành những đơn vị vũ trang hùng mạnh và "định rõ việc đấu tranh ở ba khu vực chính của miền Nam: vùng núi, nông thôn và thành thị. Những người Cộng sản Việt Nam cũng tin rằng "sự phối hợp của các lực lượng" đã trở thành lợi thế cho sự thành công của cuộc cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Mặc dù thắng lợi cuối cùng của cuộc cách mạng này có thể giành được chỉ sau một giai đoạn chuyển tiếp".
Quyết định theo đuổi một cuộc đấu tranh quân sự của Hội nghị 9 đòi hỏi không chỉ sự huy động tất cả các nguồn lực của Việt Nam dân chủ cộng hoà mà cả sự giúp đỡ của các đồng minh, đặc biệt là từ Trung Quốc và Liên Xô.
Các nhà lãnh đạo Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam đến Moskva dưới dạng một phái đoàn thăm dò để khẳng định thái độ của
Liên Xô đối với Việt Nam.
Trong những lần gặp gỡ với các nhà lãnh đạo Xô viết, các sứ giả Việt
Nam không bó hẹp trong những vấn đề của Việt
Nam và Đông Nam Á.
Họ muốn biết quan điểm của
Liên Xô trên phạm vi lớn của các vấn đề vì họ hiểu rằng bất kỳ một sự bất đồng nào đều có thể cản trợ hoặc làm phức tạp nghiêm trọng đến sự hợp tác giữa hai nước.
Ấn tượng của Moskva trong những cuộc thảo luận này là quan điểm ở các đồng nghiệp Việt
Nam của họ, thể hiện sự ảnh hưởng rất mạnh từ
Bắc Kinh nhưng mềm dẻo hơn.
Lê Duẩn và các đồng nghiệp của ông ta đã không ngần ngại chỉ trích lập trường của Liên Xô trên những vấn đề như cùng tồn tại hoà bình với các nước phương Tây, việc giúp đỡ của Liên Xô cho Ấn Độ trong cuộc xung đột giữa Ấn Độ và Trung Quốc, việc Liên Xô từ chỗ giúp đỡ Trung Quốc chế tạo vũ khí hạt nhân và sự kiém nhiệt tình của Liên Xô trong việc giúp đỡ các Phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Những người Việt
Nam tin rằng có một hiểm hoạ thật sự về cuộc chiến tranh hạt nhân và rằng nền hoà bình chỉ có thể được bảo vệ thực sự bằng những cách thức của một cuộc đấu tranh cách mạng.
Cùng tồn tại hoà bình với các nước tư bản sẽ làm hạn chế tính triệt để của cuộc đấu tranh với "chủ nghĩa tư bản cố hữu" và đánh bại nó từng bước.
Các nhà lãnh đoạ
Liên Xô đã kết luận: "Nói cách khác, các nhà lãnh đạo Đảng Lao động Việt
Nam thực sự đã loại bỏ cơ hội
theo đuổi một chính sách cùng tồn tại hoà bình".
Theo phía Moskva, khi thể hiện quan điểm của họ về Phong trào giải phóng dân tộc, Lê Duẩn đã cường điệu hoá vai trò của họ trong "sự nghiệp cách mạng" vào các nước thuộc thế giới thứ ba và tin rằng khả năng thành công của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở châu Á, Phi và Mỹ La tinh sẽ sâu hơn so với các nước phát triển ở phương Tây.
Do vậy, nhiệm vụ chính của các nước xã hội chủ nghĩa và Phong trào Cộng sản quốc tế là tập trung những nỗ lực của họ để tạo ra "một bước đột phá vào sự liên kết yếu ớt giữa các mắt xích của chủ nghĩa đế quốc".
Các nhà lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam tin rằng hầu như không có một điều kiện thích hợp nào cho việc tổ chức những cuộc cách mạng dân chủ toàn quốc và tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách hoà bình.
Những người Xô viết kết luận: "Các nhà lãnh đạo Việt Nam tin rằng, chính các Phong trào giải phóng dân tộc (chức không phải hệ thống xã hội chủ nghĩa), đóng một vai trò tiên phong trong tiến trình cách mạng thế giới".
Như vậy, các vị khách từ Hà Nội đã "coi nhẹ tầm quan trọng của sự giúp đỡ mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã cung cấp cho những người đấu tranh cho tự do và độc lập dân tộc".
Các đại diện của Việt
Nam dân chủ cộng hoà cũng nhấn mạnh đến cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa xét lại và sự đoàn kết với phong trào cộng sản thế giới. Họ ủng hộ ý tưởng về một Hội nghị của các Đảng cộng sản và Đảng Công nhân quốc tế. nhưng khăng khăng yêu cầu về cuộc đàm phán sơ bộ giữa Đảng cộng sản Liên Xô và Đảng cộng sản
Trung Quốc.
Các nhà lãnh đạo Xô viết đã không thoả mãn với lập trường của
Hà Nội. Khrusev đã cho phía Việt Nam hiểu rằng sẽ không có triển vọng cho việc hợp tác chặt chẽ giữa hai nước nếu Hà Nội không thay đổi lập trường của họ, khi Lê Duẩn và các đại biểu khác ở Kreml, ông ta đã nhấn mạnh "một cách thẳng thắn và thân tình" sự thiếu nhất quán giữa các bài phát biểu của các nhà lãnh đạo Việt Nam thể hiện sự thông cảm đối với Đảng cộng sản Liên Xô và Liên bang Xô viết với các hành động thực tế của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Khrusev đã cảnh báo các đối tác của ông rằng, những hành động như vậy là đi ngược lại sự đoàn kết và hợp tác giữa Đảng Lao động Việt Nam và Đảng cộng sản Liên Xô và cũng không phù hợp với lợi ích của xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản thế giới. Các nhà lãnh đạo Xô viết đã công khai thể hiện sự quan tâm đối với những Nghị quyết của Hội nghị 9 Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và cảnh báo về hậu quả xấu có thể xảy ra trong chính sách của Hà Nội.
Thực sự những ấn tượng do báo Pravda tạo ra về cuộc gặp giữa Khrusev và đoàn đại biểu Việt Nam chỉ là sự lừa bịp. Giữa hai nước có nhiều bất đồng hơn là nhất trí. Tuy nhiên, Moskva vẫn lạc quan về chuyến thăm của đoàn đại biểu Việt
Nam.
Sau khi nhận ra ra điều này, các nhà lãnh đạo của Đảng Lao động đã thực thi rõ nét lập trường ủng hộ Trung Quốc, một Bí thư của Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô đã viết trong bức điện gửi đến Pháp: "Cùng với việc đó, cách cư xử của các đại biểu Việt Nam, cách thức trình bày các vấn đề của họ làm cho ta có thể kết luận rằng Đảng cộng sản Liên Xô và các đảng anh em khác có thể duy trì và phát triển các mối liên hệ với Đảng Lao động Việt Nam trong khi vẫn kiên trì giải thích cho họ về đường hướng chung của Phong trào cộng sản thế giới, đó là đồng ý với các ý kiến tại các Hội nghị quốc tế năm 1957, 1960, và nêu lên mối hiểm hoạ của tình hình chia rẽ bè phái hiện tại của Trung Quốc và những người ủng hộ các bè phái này".
Rõ ràng là, mặc dù không đồng ý với các quan điểm của các đồng chí Việt
Nam, người Xô viết không mong muốn loại bỏ triển vọng của sự hợp tác. Nhưng điều đó có nghĩa là sự hợp tác này phụ thuộc vào sự thay đổi thái độ của Hà Nội đối với Moskva. Trong khi đó những người Xô viết chỉ hạn chế sự giúp đỡ của họ đối với Việt
Nam về mặt tinh thần.
Vài ngày sau chuyến thăm, một chương trình tuyên truyền mạnh mẽ này có thể đã được thiết kế để bù lại sự thiếu thiện chí của Moskva trong việc giúp đỡ về vật chất nhiều hơn đối với Việt
Nam.
Ngày 12 tháng 2 năm 1964, chỉ hai ngày sau khi đoàn đại biểu Việt Nam rời Moskva, báo Pravda đã đăng một bài báo với tựa đề: "Không ai có thể chiến thắng những người yêu nước Nam Việt Nam", với chữ ký đầy ý nghĩa là "người quan sát". Tác giả dấu tên này đã đảm bảo với "những người yêu nước" rằng Liên Xô ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam và rằng Liên Xô vẫn là "một người bạn đáng tin cậy của tất cả những ai đấu tranh cho hoà bình, tự do và giải phóng dân tộc".
Hai tuần sau, tờ Pravda lại đăng một bài báo về Việt Nam, nhưng lần này là một bài viết chính thức do TASS đưa ra, tuyên bố rằng "Nhân dân Liên Xô không thể thờ ơ với những biến chuyển ở Đông Nam Á". Bài báo một lần nữa nhấn mạnh rằng nhân dân Liên Xô là "những người ủng hộ trung thành chính sách đoàn kết với những ai đấu tranh cho tự do và độc lập và rằng Liên Xô sẽ tiếp tục cảm thông sâu sắc với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chính nghĩa của những người yêu nước miền Nam Việt Nam và sẽ có thể có sự giúp đỡ cần thiết cho Cuộc đấu tranh này".
Lời hứa về sự "giúp đỡ cần thiết" có thể đã được nghĩ ra không chỉ cho những người bạn Việt
Nam của Moskva, mà còn dành cho cả Mỹ.
Các nhà lãnh đạo Xô viết hiểu rằng những diễn biến nguy hiểm ở Đông Nam Á có thể được ngăn chặn khi có sự kiềm chế của cả Hà Nội và
Washington. Đó là lý do tại sao mà Moskva nhắc đi nhắc lại không mệt mỏi về việc chấm dứt sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam là cần thiết cho việc bình thường hoá tình hình trong khu vực Đông Nam Á.
Những lời hứa giúp đỡ Việt Cộng để biện hộ cho vị trí của Liên Xô với các đồng minh cộng sản của họ mà bằng chứng là chuyến thăm Moskva tháng 7 năm 1964 của đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã được Ủy ban đoàn kết Á-Phi của Liên Xô mời. Sự kiện này đã chứng minh rằng các nhà lãnh đạo Xô viết tránh những tiếp xúc chính thức với Việt Cộng ở cấp nhà nước.
Trong các cuộc gặp với đại diện của Ủy ban đoàn kết Á-Phi, những người Cộng sản ở Nam Việt Nam đã đưa ra một số những yêu cầu, bao gồm cả những yêu cầu về việc tăng viện trợ vũ khí, đạn dược. Đặc biệt là họ yêu cầu viện trợ y tế và tiền (bằng đô la Mỹ).
Họ cũng chuẩn bị mở một phái đoàn thường trực của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ở
Liên Xô, nếu như có được một lời mời sẵn sàng từ phía Chính phủ
Liên Xô.
Ủy ban đoàn kết Á-Phi đã đề nghị Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tiếp đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và đề nghị này cũng như những yêu cầu từ phía các đại biểu miền Nam Việt Nam đã được Ban đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản (Liên Xô) cân nhắc.
Ban đối ngoại đã chuẩn bị một bản dự thảo để đáp lại những người yêu nước Việt Nam. Ban này đề nghị rằng Ủy ban đoàn kết Á-Phi và các tổ chức quần chúng của Liên Xô sẵn sàng cung cấp thuốc men cho Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam, mời một nhóm bệnh binh mới đến chữa ở các bệnh viện của Liên Xô, cho phép thanh thiếu niên từ miền Nam Việt Nam tới học tại các trường trung học chuyên nghiệp và đại học ở Liên Xô.
Về việc viện trợ quân sự, Ủy ban này đã thông báo với các đại biểu rằng đây là vấn đề thuộc trách nhiệm của Nhà nước và phải được quyết định ở cấp Nhà nước giữa Liên Xô và Việt Nam dân chủ cộng hoà và việc vận chuyển vũ khí cho Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phải thông qua Hà Nội. Nhưng Ủy ban này đã từ chối đón tiếp đoàn đại biểu ở cấp trung ương, bởi vì nếu trường hợp đó xảy ra thì "các nhà yêu nước" có thể "lại một lần nữa" yêu cầu được viện trợ vũ khí và tài chính và đồng thời phải trả lời một cách dứt khoát. Ủy ban này cũng đề nghị tránh trả lời vấn đề thành lập phái đoàn thường trực của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ở
Liên Xô.
Các nhà lãnh đạo Xô viết đã đồng ý với những đề nghị trên. Chính sách của
Liên Xô đối với Việt
Nam có một số hạn chế, đó là chỉ ủng hộ trên lĩnh vực tuyên truyền và hạn chế trên tất cả các lĩnh vực hoạt động khác.
Rõ ràng là Hà Nội không thoả mãn với lập trường của Moskva. Để biến những kế hoạch thống nhất đất nước thành hiện thực, Bắc Việt Nam cần sự giúp đỡ vật chất dưới dạng vũ khí, đạn dược, lương thực và các phương tiện vận tải từ các đồng minh của họ.
Vào mùa hè năm 1964, chỉ có Trung cộng là sẵn sàng cung cấp những viện trợ như trên, mà việc làm này phần nào đó trùng khớp với những quan điểm của Trung Quốc về những diễn biến đang xảy ra ở Đông Nam Á.
Kết quả là, vị thế của Liên Xô đối với Việt Nam dân chủ cộng hoà và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam nhanh chóng bị phai mờ, trong khi đó ảnh hưởng của Trung Quốc phát triển vững chắc.
Moskva đã có thể bằng lòng với vị thế này để duy trì sự ổn định trong khu vực. Nhưng tiến trình của các sự kiện ở Đông Dương dần dần đã dẫn đến cuộc chiến.
Nếu Liên Xô hy vọng tháo bỏ giải pháp quân sự của
Bắc Việt Nam bằng cách từ chối không cung cấp tất cả sự giúp đỡ từ bên ngoài thì thực sự họ đã bị thất bại.
Hà Nội vẫn kiên trì trong quyết tấm đạt tới mục tiêu của mình bằng tất cả các biện pháp, trong đó có quân sự.
Theo Spasovski (đại diện của Ba Lan ở Ủy ban kiểm soát quốc tế vè Việt
Nam), lập trường của
Hà Nội đã được khẳng định. Trong một lần nói chuyện với Konstatin (Đại sứ Liên Xô ở Campuchia), Spasovski, người vừa đến thăm Hà Nội, đã nói với đồng nghiệp Xô viết của ông ta rằng Bắc Việt Nam đã sẵn sàng tham chiến với Mỹ và chế độ Sài Gòn để giành thắng lợi hoàn toàn, mặc dù điều đó có nghĩa là sẽ xảy ra một cuộc chiến kéo dài nhiều năm.
Bắc Kinh đã khuyến khích quyết tấm của các nhà lãnh đạo Việt
Nam tiến hành cuộc chiến lâu dài.
Khoảng đầu năm 1956, Mao Trạch Đông đã nói với các nhà lãnh đạo Việt Nam:
"Không thể giải quyết vấn đề chia cắt đất nước trong chốc lát. Nó cần một thời gian… nếu mười năm không đủ, chúng ta sẵn sàng đợi đến một trăm năm". Sau đó ý kiến này đã được các cố vấn
Trung Quốc đã liên tục nhắc đi nhắc lại.
Tương tự như vậy, hy vọng của các nhà lãnh đạo Xô viết rằng việc tuyên bố ủng hộ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam bằng quân sự có thể hạn chế Mỹ leo thang trong cuộc chiến ở Đông Dương hoá ra là vô ích.
Cũng trong cuộc nói chuyện với Krutikov, Spasovski đã trích lời của Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hoà Phạm Văn Đồng rằng, Bắc Việt Nam có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi cho một cuộc rút lui của Mỹ trong danh dự, nếu như chính quyền Mỹ mong muốn điều đó. Nhưng thật không may,
theo nhận xét của Spasovski, người Mỹ đã không biểu lộ mong muốn như vậy.
Sự e ngại của Moskva tăng lên khi tình hình ở Đông Nam Á ngày càng phức tạp. Điều đó đã thể hiện trong diễn biến hoạt động của Chính phủ
Liên Xô ngày 27 tháng 7.
Việc Liên Xô đe doạ rút khỏi chức Chủ tịch Hội nghị Geneve về Lào là một lời cảnh báo rõ ràng từ phía Moskva đối với các bên tham chiến ở Đông Dương.
Nhưng thậm chí sự thể hiện này của Liên Xô cũng đã không làm chậm lại được tốc độ của cuộc xung đột mà điều đó trở nên thực sự nguy hiểm vài ngày sau đó ở Vịnh Bắc Bộ, khi Mỹ buộc tội Bắc Việt Nam rằng tàu phóng ngư lôi của Bắc Việt Nam đã tấn công hai trong số những tàu tuần tiễu của Mỹ khi đang làm nhiệm vụ: Ngày 3 tháng 8, báo Pravda có một mẩu tin ngắn về sự kiện ở Vịnh Bắc Bộ, trích dẫn nguồn tin từ Tổng hành dinh của Tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương. Không một ai trong số các độc giả của tờ báo chú ý đến đoạn tin này. Thậm chí rất ít người trong số họ biết được Vịnh Bắc Bộ ở đâu. Nhưng đối với các nhà lãnh đạo Xô viết thì tin tức này là đáng chú ý: tình hình ở Đông Nam Á đã tới độ nguy hiểm.
Khi Việt Nam còn đang ở trong một cuộc nội chiến với sự tham gia hạn chế của các cố vẫn Mỹ, thì Moskva có thể cung cấp sự giúp đỡ cho Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam mà không can thiệp sâu hơn vào tình thế phức tạp của Việt Nam. Trong bối cảnh như vậy, Liên Xô có thể chống trả lại sự chỉ trích ác liệt của Trung Quốc cho rằng Liên Xô tìm kiếm để đạt tới một sự thoả hiệp với phương Tây bằng chính sinh mệnh đồng minh của họ.
Nhưng một khi cuộc chiến tranh tổng lực xảy ra tại Việt Nam, thì Kreml có thể phải có một lập trường rõ nét hơn, thậm chí điều đó có thể gây tổn hại đến quan hệ giữa hai nước. Sự việc xảy ra bất ngờ như vậy không có lợi gì đối với các nhà hoạch định chính sách của
Liên Xô. Trong khi họ chủ động tìm thấy lợi ích từ sự sa lầy của Mỹ trong cuộc xung đột ác liệt, Việt
Nam có thể là một trường hợp sai lầm của
Liên Xô: đó là, họ phải đối phó với nhiều nhân tố không xác định và với một đồng minh không đáng tin cậy.
Do vậy,
Liên Xô đã đáp lại sự kiện Vịnh Bắc Bộ với một thái độ có phần tương phản.
Ngày 5 tháng 8, TASS đã đưa ra một bản tin (cùng với sự thống kê các sự kiện) trong đó có cảnh báo với Mỹ rằng những hành động của Mỹ có thể dẫn tới một cuộc xung đột quân sự rộng lớn như các nhà quan sát đã nhận xét, giọng điệu của bản tin này rất ôn hoà.
Cùng ngày hôm đó, Chủ tịch Khrusev đã gửi một bức thư tới Tổng thống
Lyndon Johnson.
Một lần nữa, lời lẽ của bức thư rất thận trọng và dè dặt. Khrusev đã thông báo với Tổng thống Jonhson, ông đã biết về sự kiện Vịnh Bắc Bộ:
"Ngay từ lúc đầu, ngoài những tuyên bố đã được đưa ra trong những ngày gần đây ở Washington, từ mệnh lệnh đã được ban bố cho các lực lượng quân đội Mỹ, từ các bản tin của các hãng thông tấn và cũng từ tuyên bố… của người phát ngôn của Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam… chúng tôi không có một thông tin nào khác".Bằng cách thu hút sự chú ý của Jonhson vào các nguồn tin của ông ta, Khrusev rõ ràng muốn nhấn mạnh một thức tế rằng Liên Xô không dính líu gì đến các cuộc xung đột ở Vịnh Bắc Bộ.
Sau đó, ông Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô này đã tiếp tục lập luận của mình, chỉ trích sự đáp lại bằng vũ lực của Mỹ chống Việt Nam dân chủ cộng hoà và lưu ý đến những hậu quả nghiêm trọng mà sự kiện này có thể gây ra đối với tình hình quốc tế.
Điều này dường như là mối lo ngại chính của các nhà lãnh đạo Xô viết. Khrusev đã không chỉ rõ những khu vực, con người bộc lộ tham vọng thổi bùng lên lòng ham muốn, đổ thêm dầu vào lửa và ông cũng không chỉ rõ những kẻ trong trạng thái hiếu chiến nên xem xét một cách thận trọng và kiềm chế…
Rõ ràng rằng Khrusev đang đề cập đến ứng cử viên Tổng thống Đảng Cộng hoà
Barry Goldwater, nhưng nhà lãnh đạo Xô viết này cũng có thể đề cập đến
Bắc Kinh với sự trợ giúp của họ trong cuộc đấu tranh giành thống nhất bằng bạo lực của Việt Nam.
Thú vị hơn là, cũng trong số báo Pravda, với những tin tức về sự kiện Vịnh Bắc Bộ xuất hiện một cây bút tên là Ivanov (một cái tên rất thông dụng ở Nga), đã viết một bài báo tựa đề:
"Một cuộc chiến tranh ư? Đó không phải là điều tồi tệ".Tác giả đã trích dẫn những bài phát biểu của các quan chức cao cấp của chính phủ Trung Quốc, như Trần Nghị, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Trung cộng và một quan chức giấu tên khác để gửi cho một tờ báo của Áo ông ta nêu câu hỏi: "Đại diện cao cấp của Trung Quốc đang nói gì?" và "Cộng đồng thế giới đang lo lắng về tình hình căng thẳng ở Đông Nam Á".
Liên Xô và các nước yêu chuộng hoà bình thực hiện mọi nỗ lực để ngăn chặn cuộc chiến đang bùng nổ trong khu vực này của thế giới. Nhưng một thành viên cao cấp của Chính phủ Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa, sau những lập luận mập mờ đã nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn rằng:
"Chiến tranh ở Đông Nam Á không phải là một điều thực sự tồi".Trong bất kỳ một sự kiện nào, Khrusev đều cố gắng thuyết phục Tổng thống Mỹ thể hiện sự bình tĩnh và kiềm chế đối với những diễn biến ở Đông Dương. Sự đề cập của ông ta tới "trách nhiệm to lớn" của hai cường quốc trong việc đảm bảo rằng những sự kiện nguy hiểm xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên thế giới sẽ không biến thành những yếu tố đầu tiên trong một chuỗi những sự kiện còn nghiêm trọng hơn và không thể đảo ngược" mà được ủng hộ bởi vai trò công bằng, công khai của Liên Xô đối với cuộc chiến".
Ông cũng nhấn mạnh rằng không có một yêu cầu Chính phủ Liên Xô đề cập đến Tổng thống Mỹ trong mối quan hệ với những diễn biến ở Vịnh Bắc Bộ:
"Nếu có xuất hiện một mối đe doạ cho hoà bình, tôi tin tưởng một cách sâu sắc rằng chúng ta không phải đợi những lời yêu cầu và thỉnh cầu từ bất kỳ ai, mà chúng ta phải hành động nhằm loại bỏ mối đe doạ đó không một chút do dự".Tuy nhiên, lời kêu gọi của Khrusev đã không làm thay đổi quyết tấm của Mỹ chống lại "xâm lược" của Bắc Việt Nam đối với chế độ Sài Gòn.
Lời giải đáp của
Johnson đối với bức thư của các nhà lãnh đạo Xô viết để lại cho Moskva một hy vọng mỏng manh rằng những diễn biến ở Đông Nam Á có thể thay đổi cơ bản
theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Tổng thống Mỹ nhấn mạnh một lần nữa rằng, đất nước ông "sẽ luôn dứt khoát và kiên định trong sự đáp lại tích cực đối với những hoạt động xâm lược và sức mạnh của chúng tôi thể hiện tương xứng với bất kỳ thách thức nào đó". Với sự đáp lại mang tính tiêu cực của Jonhson, điều rõ ràng đối với các nhà lãnh đạo Liên Xô là sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã đánh dấu một bước ngoặt mới ở Đông Dương.
Như Douglas Pike đã nhận xét:
"Trong khi bản thân nó không có gì đặc biệt quan trọng, sự kiện Vịnh Bắc Bộ biểu tượng cho mối quan hệ mới mà Hà Nội đòi hỏi từ Moskva. Bản chất của chiến tranh đã thay đổi như là thực tế của nó: từ anh Việt Cộng chân đất với khẩu súng ngắn tự tạo cho tới những lực lượng quân đội Cộng sản Việt Nam được trang bị những vũ khí hiện đại nhất mà thế giới cộng sản có thể sản xuất".Nhưng phải trải qua một khoảng thời gian,
Liên Xô và
Bắc Việt Nam mới đạt được sự hợp tác toàn diện trong cuộc chiến tranh chống "đế quốc Mỹ".
Trong khi đó, Moskva đã tiến hành bước đi đầu tiên trong lộ trình đạt tới mối quan hệ hữu nghị với
Hà Nội.
Một đại sứ mới của Liên Xô tại Việt Nam dân chủ cộng hoà đã được chỉ định vào cuối tháng 8 năm 1964, Ilia S. Sherbakov là một nhân vật lỗi lạc của Đảng cộng sản Liên Xô. Từ những năm 30, ông đã bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một viên chức của Đảng. Năm 1949, ông được đề bạt vào một chức vụ của Ban đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô. Ông đã tốt nghiệp Học viện quân sự - ngoại giao, một Học viện nổi tiếng của
Liên Xô, chuyên đào tạo cán bộ tình báo cho hoạt động đối ngoại của
Liên Xô. Trong Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản, Sherbakov đã trưởng thành một cách nhanh chóng, năm 1953 ông đã là Vụ trưởng Ban đối ngoại có chức năng giám sát các mối quan hệ với các Đảng cộng sản của các nước xã hội chủ nghĩa. Ngay trước khi được bổ nhiệm tới
Hà Nội, ông đã được điều tới
Bắc Kinh với cương vị là Tham tán công sứ. Vì thế vị Đại sứ mới này hoàn hảo không chỉ trong hoạt động của Đảng mà cả trong hoạt động chính trị quốc tế. Trên thực tế, Sherbakov đã có được tất cả những phẩm chất cần thiết cho vị trí đại sứ của
Liên Xô tại Việt
Nam dân chủ cộng hoà.
Như Cơ quan thông tin của Mỹ đã nhận xét trong một bản báo cáo:
"Quan hệ của Liên Xô với Bắc Việt Nam được tăng cường vào cuối năm 1964". "Điều mà người ta cần ở Hà Nội là một người có kinh nghiệm trên lĩnh vực này và một người có thể chiếm được lòng tin của các nhà lãnh đạo ở Điện Kreml".Những mối quan hệ của Sherbakov ở Ủy ban trung ương cho phép ông ta không những thoải mái khi thực hiện chính sách của Moskva mà còn ít nhiều tự do thể hiện ý kiến của mình về những mối quan hệ Liên Xô-Bắc Việt Nam mà không sợ ai đó ở "Trung ương" (chỉ Điện Kreml) phản đối quan điểm của ông.
Những yếu tố này đã được các nhà lãnh đạo Xô viết cân nhắc. Họ cần một bức tranh chính xác về các sự kiện xảy ra tại Việt
Nam. Bị mắc kẹt trong vòng lửa, các nhà lãnh đạo Xô viết bắt đầu tìm kiếm lối thoát. Nhưng những sự thay đổi ở Kreml chỉ làm căng thẳng thêm tiến trình này và đó không phải là điểm xuất phát.
Điều này giải thích tại sao những chuyển hướng của Liên Xô đối với cuộc chiến Việt Nam dường như diễn ra quá nhanh ngay sau khi "Ban lãnh đạo tập thể mới" lên nắm chính quyền. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo mới ở Điện Kreml thông báo rằng chính sách đối ngoại của
Liên Xô sẽ không thay đổi. Họ đã tuyên bố công khai về điều này tại nhiều diễn đàn khác nhau, cũng như trong các cuộc trao đổi kín với các chính trị gia phương Tây. Ví dụ như: Đại sứ Liên Xô ở Washington, A. Dobrynin đã gặp Tổng thống Johnson và đảm bảo với ông ta rằng Moskva vẫn cam kết thực hiện các nghĩa vụ quốc tế của mình và báo Pravda đã nhanh chóng thông tin cho độc giả Xô viết về cuộc gặp này.
Phớt lờ chuyện đó vào tháng 11, Moskva đã sẵn sàng chuyển hướng từ giúp đỡ mang tính tuyên truyền thuần tuý cho Hà Nội và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, sang viện trợ về vật chất nhiều hơn. Các nhà lãnh đạo Xô viết không từ bỏ các mối quan hệ của họ với Mỹ, nhưng sau tháng 11, các mối quan hệ này lại bị ràng buộc với các chính sách của Mỹ ở Việt Nam.
Một yếu tố mới và quan trọng bổ sung vào chính sách của
Liên Xô trong giai đoạn quan trọng này: những nỗ lực của các nhà lãnh đạo Xô viết nhằm tìm kiếm những biện pháp hoà bình để giải quyết cuộc chiến Đông Nam Á.
Do đó, như
Douglas Bile đã nhận xét, chính sách của Liên Xô trong cuộc chiến Việt
Nam thể hiện trên ba khía cạnh:
Thứ nhất: Moskva đã quyết định trong một số giới hạn,
Hà Nội có thể nhận được tất cả những giúp đỡ về kinh tế và quân sự cần thiết đủ để
theo đuổi cuộc chiến.
Thứ hai:
Liên Xô không thể hy sinh chiến lược hoà hoãn của họ với phương Tây, nhưng thay vào đó
Liên Xô có thể điều chỉnh chính sách Việt
Nam theo hướng "nếu và khi cần thiết".
Thứ ba: Liên Xô tập trung vào việc giải quyết cuộc chiến bằng biện pháp thương lượng như một đảm bảo tối ưu nhằm chống lại việc bị kéo sâu vào cuộc chiến, mặc dù Liên Xô nhận thấy rằng chính sách này không được chấp nhận ở Hà Nội.
Vào tháng 11, những biểu hiện về thái độ mới của
Liên Xô đã được thể hiện rõ ràng.
Ngày 9 tháng 11, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Liên Xô Kosygin đã tiếp đoàn đại biểu Việt Nam dân chủ cộng hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đến Moskva, để tham dự những hoạt động kỷ niệm lần thứ 47-Cách mạng tháng 10. Đây là chuyến thăm công khai đầu tiên của các nhà lãnh đạo
Hà Nội kể từ khi Khrusev bị cách chức.
Mặc dù vào tháng 10 đã có một chuyến thăm bí mật, diễn ra ngay sau Hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô, khi đó Hà Nội khao khát duy trì các mối quan hệ với các nhà lãnh đạo Xô viết mới và tìm kiếm ở những người này, cái mà họ đã không thể tìm thấy được từ Khrusev, do vậy mà họ đã cử Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hoà đến Moskva.
Vào tháng 10 và tháng 11, chủ đề của các cuộc hội đàm đã được thể hiện rõ ràng, đó là sự hợp tác của Liên Xô với
Hà Nội.
Có lý do chính xác để tin rằng hai Đảng đã đạt tới sự hiểu biết trên nguyên tắc và vấn đề viện trợ quân sự, và một nhà lãnh đạo Xô viết sẽ tới thăm Việt Nam ngay sau đó làm rõ các chi tiết.
Lần đầu tiên, trong bản tuyên bố của TASS ngày 27 tháng 11 chứa đựng một lời hứa hẹn về việc tăng gấp đôi viện trợ cho Việt Nam, cùng với một lời cảnh báo "những kẻ nuôi dưỡng các kế hoạch phiêu lưu ở bán đảo Đông Dương phải nhận thức được rằng, Liên Xô sẽ không làm ngơ với số phận một nước xã hội chủ nghĩa anh em và sẵn sàng cung cấp cho Việt Nam sự giúp đỡ cần thiết".
Tiếp theo đó, ngày 24 tháng 12, Bộ Chính trị Đảng cộng sản Liên Xô đã mời Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam mở phái đoàn thường trực ở Liên Xô.
Liên Xô chấp nhận bước đi này trong bối cảnh
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác có những quyết định tương tự, do đó lời mời của
Liên Xô xem ra có ý nghĩa hơn.
Vào tháng 12, các nhà lãnh đạo Xô viết đã tiến hành một trong những nỗ lực cuối cùng của họ nhằm ngăn chặn Mỹ tham gia trực tiếp vào cuộc chiến ở Việt
Nam. Ngày 9 tháng 12, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô Andrei Gomyko đang ở Mỹ đã dự Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc và đã gặp Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk tại Đại sứ quán Liên Xô ở Washington. Việt
Nam là chủ đề trong cuộc hội đàm của họ.
Gromyko đã cố gắng thuyết phục đối tác của ông:
"Mỹ đã phạm phải một sai lầm lớn bằng việc dính líu vào cuộc chiến ở Nam Việt Nam. Bởi vì, Mỹ không có lợi ích gì liên quan đến khu vực này". Ông ta cũng nêu ra thắc mắc "
những ý đồ thực sự của Mỹ là gì?".
Rusk đã đưa ra những lập luận thông thường của Washington về hiểm hoạ cộng sản từ Bắc Kinh và Hà Nội, về nghĩa vụ của Mỹ đối với chính phủ Sài Gòn và sự chính đáng trong các mục tiêu của Mỹ.
Gromyko đã nhận thấy sự nhấn mạnh của Rusk về quyết tấm thực hiện nghĩa vụ của Mỹ: "
Ngoại trưởng Mỹ đã lập đi, lập lại rằng nếu Hà Nội và Bắc Kinh để yên cho các nước láng giềng, thì chúng tôi sẽ không ở đó.
Mặt khác, ông ta nhấn mạnh, chúng tôi đang ở trong một tình thế rất nghiêm trọng… và một lần nữa, ông ta chỉ có thể nói rằng, nếu Hà Nội và Bắc Kinh để yên cho khu vực này, chúng tôi sẽ rút quân. Nếu không, ở đây sẽ xảy ra một cuộc chiến thật sự".
Những tuyên bố này của Mỹ đã truyền đến Moskva cùng với những thông tin thiếu hy vọng tương tự như vậy từ
Hà Nội.
Sherbakov viết từ thủ đô của Việt Nam dân chủ cộng hoà: "Căn cứ vào những quyết định của Bộ Chính trị (của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Việt Nam) và những sự kiện khác có thể nhận xét rằng, các kế hoạch của ban lãnh đạo Việt Nam sẽ tập trung vào việc từ từ tăng số lượng của lực lượng Quân giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam và tăng cường các hoạt động quân sự đồng thời với hoạt động tương tự làm xói mòn chế độ bù nhìn từ bên trong".
Kết hợp những sự kiện này và những thực tế khác, các quan chức Xô viết vội vã thực hiện những điều chỉnh cuối cùng trong chính sách của họ đối với Việt Nam, trong khi cuộc chiến tranh dường như không phải vài tháng nữa mà là vài ngày nữa sẽ nổ ra.