Chuyến máy bay đưa tôi trở về Huế đáp xuống phi trường Phú Bài đúng 12 giờ 30. Giờ Ngọ. Giờ này đúng là tuổi của đứa con trai tôi, và cũng là tuổi của người cha thân yêu, lúc này, đang nằm hấp hối trên giường bịnh. Khi bước xuống sân bay, đứng chơ vơ đón những đám cát bụi do những chiếc quạt máy bay khác quạt tới, tôi cúi xuống nhìn chiếc bóng của mình ngắn ngủi nhú khỏi hai chân bằng một gang ngắn, lúc đó, hình như có một hình ảnh nào đó êm đềm vừa trôi qua trong tôi, lúc tôi kịp nhắm mắt để tránh những hạt cát đang quật vào mắt mũi. Một lời van xin đã bật ra trong đầu óc. Tôi mở choàng mắt, những vạt nắng nấp sau những đám mây lam, thật thấp, chiếu xuống những tia vàng úa, buồn não. Cầu xin một sự yên lành. Ba ơi, chắc gì còn kịp. Chân tôi bước như muốn ríu lại, cuối cùng, tôi cũng qua hết chiếc sân rộng, vào dãy nhà đợi. Buổi tối hôm trước, tôi đang còn ở thành phố Sài Gòn. Lâu lắm rồi tôi chưa về lại Huế. Nhiều dịp Tết trôi qua, lần nào cũng tự hứa sẽ trở về, nhưng những dịp tự hứa đó cũng bị những lười biếng, buông thả xoá mất hết. Lúc này thì không thể không trở về được. Tấm điện tín đến vào lúc 11 giờ đêm. Lúc đó tôi đang đưa ông Táo. Tối 23 tháng chạp, không hiểu sao chỉ có lễ đưa ông Táo, tôi đã diện như đi một dạ hội. Áo dài đỏ chót, tóc tai chải đàng hoàng. Khi tôi mặc chiếc áo đỏ, người giúp việc đã buông một câu: Cúng ông Táo mà chị mặc cái áo đỏ chói. Tôi cười: Biết đâu sẽ hết dịp mặc. Lời nói của tôi linh ứng ngay lúc đó. Chỉ một phút sau, tôi nhận được điện tín từ Huế đánh vào. Về ngay, ba đang hấp hối. Đang hấp hối? Cái gì mà kỳ cục vậy. Lá thư ba tôi viết từ tuần trước còn rành rành nơi ngăn tủ. Con nhớ về ăn Tết, chúng con phải về, ba đã rời bệnh viện. Chúng tôi đã mua vé cho cả gia đình, sẽ về Huế vào ngày mồng Hai. Lâu lắm tôi mới trở lại Huế, và lần này, cả đoàn vợ chồng con cái lần đầu tiên trở về trình diện cái quê hương mà tôi vừa thương yêu vừa thù ghét. Không thể chờ đợi thêm được nữa. Em phải về trước, bằng mọi cách. Chồng tôi nói thế. Và sáng hôm sau, tôi đã theo một chuyến máy bay quân sự để trở về đây. Chiếc áo đỏ còn lung linh trong trí nhớ tôi như một nỗi kinh hoàng. Chiếc áo đỏ này cũng đã được xếp ngăn nắp cất kín. Tôi theo một xe hơi đi đón người nhà lên thành phố. Không đủ sức chờ đợi chuyến xe đưa hành khách được nữa. Tôi muốn tức khắc có mặt ở nhà lúc này. May ra còn kịp, nhất định phải kịp. Ba không thể đi một chuyến đi dài mà không nhìn kịp mặt con. Phải thế. Mấy năm rồi, tôi không trở về, những lá thư ba viết thật dài và những lá thư trả lời ngắn ngủi không đủ để nói gì hết. Lời nói thú tội của tôi đang còn chờ một dịp. Lần này, cầu mong cho con về kịp, và con sẽ nói, nói hết với ba. Không, tôi cũng chả cần phải nói gì, ba tôi cũng đã hiểu hết. Những ngày bỏ Huế dài bằng những lỗi lầm của tôi mà gia đình gánh chịu. Chiếc xe chạy qua những thửa ruộng nhỏ, phía xa là những rặng núi dài, con đường tráng nhựa ngày xưa nay đã cũ và đầy những ổ gà. Cảnh vật không có gì thay đổi hết. Tôi tựa vào thành xe nghe tiếng tim mình đập rộn rã, tiếng rộn rã của một nỗi mừng cùng một nỗi khắc khoải chờ đợi. Bầu trời xám xịt, những ánh nắng vàng quái đồng tình với tôi về một nỗi quạnh hiu và những đám mây buồn như muốn chảy nước. Tôi lờ mờ hình dung hình ảnh ba tôi với nhiều khuôn mặt, nhưng hình ảnh nào cũng vội biến đi rất nhanh để nhường lại cho một đôi mắt đã hết tinh thần đang cố bám những làn hơi chờ đợi. Xe qua một vài xóm nhỏ tới một thửa ruộng, cảnh vật không có gì đổi thay nhưng tôi không còn nhớ gì hết. Khi xe qua một con cầu, tôi mới thảng thốt rối rít xin dừng lại. An Cựu ở phía đằng sau lưng mất rồi. Tôi gọi chiếc xích lô và đi ngược trở lại. Tôi ôm mớ hành lý lên lòng, hành lý chả có gì cho một chuyến đi xa, tất cả được gói gọn bỏ trong cái túi nhỏ. Tối hôm trước, khi hay tin, tôi đã cầm tấm điện tín, ngồi trong màn mà khóc. Tất cả cái gói nhỏ này do chồng tôi xếp cho. Em cứ về, mồng Hai anh sẽ ra và đến sau. Anh sẽ cố gắng thu xếp công việc, đổi vé sớm hơn. Cho tới lúc này, tôi vẫn không tin tưởng gì về sự có thể đổi vé được. Xe đi qua một đồn lính đến một ngã ba, rồi chạy thẳng xuống theo con lộ số 1. Tôi đưa tay ra dấu, xe chạy vào một con ngõ được chắn lại bằng một cánh cửa sắt khép hờ. Tôi nhảy lên từ trên xích lô xuống chạy một mạch từ ngõ qua khoảng sân và đứng sững lại giữa nhà. Nhiều tiếng gọi tên tôi cùng bật ra một lúc. Đứa em gái của tôi chạy ra sân, người phu xe đang tần ngần đợi ở đó. Cả nhà đang ngồi quanh mâm cơm, nhưng chả ai ăn được miếng nào, tôi ngửi, thấy mùi canh cải cúc quen thuộc, vì một làn hơi mỏng bay lên từ tô canh, bên những chén cơm để nguội ngắt. Mẹ tôi đứng dậy trước tiên, hai tay bà đưa ra đằng trước. Nỗi mừng vừa chiếu một tia sáng nhỏ ở đôi mắt đã che khuất bởi làn lệ mỏng: Con ơi, ba con đợi con về kia, ba con nằm ở trong phòng kia. Nhiều tiếng khóc nổi lên. Cái túi nhỏ nơi tay tôi bỗng rơi xuống đất. Tôi khoát tấm màn nhỏ thay cánh cửa ngăn phòng, bước vào. Chân tôi cơ hồ muốn lướt trên mặt đất. Tất cả những hình ảnh tôi tưởng tượng về ba tôi đã hoàn toàn sai lệch. Ba tôi bây giờ chỉ còn như bộ xương người. Khuôn mặt choắt lại, hai gò má nhô cao, hai mắt nửa khép nửa mở. Cả khuôn mặt đó cùng mớ tóc chưa kịp bạc hết, chải lật đằng sau được đặt trên chiếc gối cao. Nếu không còn nghe được tiếng thở nhẹ, đôi khi khò khè, tôi không thể tin ba tôi còn đang ở giữa lưng chừng sự sống và sự chết. Sự có mặt của tôi càng làm cho gia đình tôi mủi lòng, xung quanh tôi đầy cả tiếng khóc. Tôi đứng sững một g lắng nghe tiếng cỏ đang cựa mình mọc lên trong đất đai câm nín của Huế, thay tôi góp hết sức sống còn lại của chúng ta vào Huế cho một mùa phục sinh mới Huế của chúng ta, của những người đã chết vùi chết dập và những người còn sống sót, thế nào rồi cũng phải phục sinh, phải thức dậy. Làm thế nào được, phải không Ki? Sức sống của nhân loại vẫn mãnh liệt lắm. Như tôi đã mạnh mẽ vươn lên khỏi tuổi thơ ấu, bỏ Ki lại chơ vơ với những kỷ niệm của thành phố. Sức sống của Huế cũng vậy, Ki còn nhớ không? Ngày tôi sắp xa rời Ki, chúng ta đã cùng chụp chung một tấm hình với các bạn. Bức hình ba đứa với Kim Hường, Tâm Tuý, khuôn mặt Ki ở giữa. Người ta nói chụp hình ba đứa xui lắm. Thật rứa Ki ạ. Đã quá lâu rồi, ba đứa trong tấm hình ngày nào không còn dịp gặp nhau lại, nhưng Ki biết sao không, bữa kia, tôi đã vừa nghe người ta báo tin Tâm Tuý không còn nữa. Theo lời kể lại, hồi Tết Mậu Thân vừa rồi, Tuý sửa soạn về bên chồng. Trước tết, Tuý cắt tóc ngắn, đánh móng tay, rạo rực với bao nhiêu dự định. Sáng mồng Một Tết, Tuý còn mặc áo đẹp, nhởn nhơ mừng năm mới. Nhưng chỉ hôm sau, sáng mùng Hai Tết, Tuý đã bị bắt, rồi bị chôn trong khu vườn ngay khi hoa mai còn đang nở. Sau này, khi những người thân sống sót trở về đào xác Tuý lên, Ki tưởng tượng được không, dù bị vùi xuống không hòm không chiếu, thể xác Tuý không những vẫn nguyên vẹn, mà mái tóc Tuý, móng chân móng tay của Tuý còn mọc dài hơn ra. Ki ơi, có thể thật rứa không Ki. Mà thật rứa, thì mần răng giải thích, ngoài điều tôi đã nói với Ki: sức sống của con người vốn mãnh liệt lắm. Phải chăng, khi bị vùi xuống đất giữa lúc còn rạo rực sống, dù tim đã ngừng đập, ngực đã ngừng thở, giữa lòng đất đen lạnh, cô bạn nhỏ của chúng ta, Tâm Tuý, vẫn còn cố gắng trải thêm chút sức sống mà cái chết hối hả không kịp dập tắt, để thể xác còn tiếp tục nở thêm. Mi Ki thân mến, Ki thấy đó, như Tâm Tuý, như bao nhiêu người khác, Huế của chúng ta, dù bị vùi dập và tàn phá, vẫn nhất định hồi sinh, nhất định thức dậy, như cỏ nhất định phải mọc trên mặt đất. Hãy chịu đựng nhé, Huế. Nhưng đừng quên chờ đợi, hy vọng. Giữa những xương trắng vừa được bới đào lên, giữa những đám tang tập thể, giữa đêm tối chưa ngớt kinh hoàng vì những trận đánh lớn quanh quẩn đe doạ, Ki nghe thấy không, lời hứa phục sinh của Huế vẫn nhất định chưa tắt, Ki tin tôi đi, trong lòng tôi, ngay lúc còn đi giữa máu me đổ nát của Huế vẫn còn giữ được nguyên biết bao kỷ niệm mà ngày nào, đôi chân ngắn ngủi của chúng ta đã từng bước tới. Dù sao Ki ơi, những buổi chiều gió nổi trên mặt sông Hương gợn sóng bạc, những buổi sáng mùa hạ rực rỡ trong Thành Nội, những ngày mưa mù mịt hàng cây sầu đông sau trường Đồng Khánh, hay những cơn giông thịnh nộ, cũng vẫn còn trở lại. Tôi xin gửi về Ki, về Huế, tập truyện nhỏ này, như những tình ca được viết riêng cho Huế và quê hương đổ nát. Mong rằng những tình ca vụn vặt, đầy nước mắt ấy, sẽ góp thêm phần nào vào việc lay gọi Huế thức giấc, để những tình ca khác sẽ tiếp tục, thơ mộng hơn, tươi sáng hơn. Mi Ki ơi, Ki đã làm tôi cảm động quá. Sống mãi giùm tôi với Huế nhé, Ki nhé. Sài Gòn, 4.1969