au khi nghe xong câu chuyện, mấy mẹ con trở ra chiếc cai-ắc, xem trai có ngọc, chỉ còn Phê-đê-rích ở lại nhà cùng với tôi. Nó muốn giành riêng cho tôi đoạn lý thú nhất câu chuyện. Nó kéo tôi ra một chỗ, nói nhỏ một điều bí mật mà nó cho là nên nói riêng cho tôi biết trước cả nhà. - Bố này,- nó nói với tôi- Có một việc kỳ lạ trong chuyến đi của con mới rồi. Trong khi xem xét con chim báo bão bị bơi chèo vụt rơi xuống, bố hãy nghĩ xem con kinh ngạc biết chừng nào khi thấy ở một chân nó quấn một mảnh giẻ! Con cởi miếng giẻ ra đọc được một dòng chữ viết bằng tiếng Anh rất đúng kiểu: Hãy đến cứu người bị nạn đáng thương trên đỉnh Núi bốc khói. Thật con không thể nào nói lại được với bố cảm giác của con trước sự việc ấy. Con đọc đi đọc lại dòng chữ đến mười mấy lượt để có thể tin chắc chắn rằng không phải mình hoa mắt... Tôi khẽ nói: - Cầu trời cho việc đó quả là sự thật! - Con suy nghĩ tìm cách tự giải thích vì sao có thể có người trên những hòn núi đá ấy: nhưng câu chuyện đắm tàu của chúng ta lại chứng tỏ rằng điều ấy chỉ là hãn hữu. Ngay từ lúc ấy, ý nghĩ đi tìm trên bờ hay trên mặt biển xem hòn Núi bốc khói là ở chỗ nào, cứu con người đau khổ lâm nạn, đồng loại của mình, người anh em của mình...là ý nghĩ độc nhất ám ảnh tâm trí con. Nhưng con đã hết sức chú ý nhìn chung quanh, mà chẳng thấy tăm dạng gì cả! Lúc đó con chợt nghĩ: hay là buộc lại mảnh giẻ vào chân con chim, lấy một mảnh khác buộc vào chân bên kia và viết một câu tiếng Anh như sau: "Hãy vững lòng, sắp có người tìm đến". Con nghĩ thầm rằng nếu con chim kia quay về với chủ nó thì người này sẽ đọc được câu trả lời của mình. Vạn nhất, con vật thông tin chỉ bay qua bên cạnh người bị nạn mà không đỗ xuống thì người này cũng có thể dễ dàng nhận thấy có miếng giẻ thứ hai. Chỉ một dấu hiệu nhỏ ấy cũng giúp anh ta vững dạ hơn; nhất định anh ta sẽ hiểu rằng đã có người bắt gặp con chim của mình rồi. Con nhặt một chiếc lông cánh chim vừa rơi xuống vót nhọn đầu cuống rồi chấm vào máu một con rái cá biển, viết dòng chữ nói trên lên mảnh vải xé ở khăn tay ra. Con chim báo bão chỉ bị choáng váng ngã xuống; con cho nó nuốt mấy giọt rượu mật ong và nó tỉnh lại ngay. Con buộc vào chân nó bức thư kiểu mới ấy rồi thả cho nó bay đi, không quên nhắn lời chúc nó bình yên quay về với chủ. Con chim bay lên không. Nó vút thẳng lên cao trên đầu con, như là muốn xem xét để dễ nhận ra địa điểm có thể sẽ quay trở lại. Thế rồi, hướng thẳng phía tây, nó lao mình bay đi, nhanh đến nỗi chẳng mấy chốc đã mất hút và con đành chịu phép không thể bơi thuyền theo nó như đã định. - Bây giờ thì, bố ạ, - Phê- đê- rích nói tiếp, giọng xúc động- Bố nghĩ thế nào về sự việc xảy ra đó? Ồ, nếu mà chúng ta có thể gặp được một con người, một người bạn mới! Nhất định chúng ta sẽ đi tìm người bạn ấy cho bằng được! Phải không, bố? Ồ, đúng đấy, nhất định phải đi tìm! Ôi! Vui biết bao! Sung sướng biết bao! - Bố rất bằng lòng về con!- Tôi trả lời nó- Con đã xử sự rất khôn ngoan. Con đã tự kiềm chế không liều lĩnh nghe theo cảm xúc đầu tiên đã thúc giục con đi tìm ngay một con người đau khổ cần được cứu giúp, mà con lại chưa biết rõ thực hư. Trước hết, con sẽ gây cho cả nhà một mối lo buồn vô ích nếu đêm đến không thấy con về. Còn về sự việc xảy ra, chắc hẳn trong đó thể nào cũng có điều gì bí ẩn kỳ lạ, tuy nhiên cũng chưa nên vội vã đặt quá nhiều hy vọng cao xa. Chim báo bão là một giống chim di cư, nó có thể bay qua một chặng đường rất dài trong một thời gian ngắn. Mặt khác khi mấy dòng chữ buộc ở chân nó có thể đã có từ lâu, và ví thử mới viết trong một ngày gần đây, biết đâu con người khốn khổ đã viết nó lại chẳng ở cách đây rất xa và chúng ta chẳng bao giờ có thể đến gặp được! Tuy thế, chúng ta hãy cứ giữ bí mật cái việc này, bố sẽ tìm mọi cách để cứu vớt con người bất hạnh ấy nếu quả có thật... mà tất nhiên là tránh gây thêm nhiều lo ngại cho cả nhà. Những câu nói bình tĩnh và chắc chắn ấy thực ra chỉ có mục đích trước mắt là làm dịu bớt sự bồng bột có thể ảnh hưởng quá mạnh đến trí tưởng tượng non trẻ của Phê- đê-rích, đồng thời cũng để ngăn không cho nó vội vàng dấn mình vào một hành động đáng tiếc nào đó. Tôi không lạ gì có những bọn cướp biển thường ẩn núp trong một vài cái vịnh kín đáo nào đó, rồi dùng những dấu hiệu giả trá để thu hút về sào huyệt chúng những tàu thuyền qua lại trên mặt biển. Tôi bèn bảo con tôi hãy cứ bình tâm rồi hai bố con sẽ cùng nhau bàn bạc về dự kiến kia. Chúng tôi quay trở ra với cả nhà, lúc ấy vẫn còn say sưa với ngọc trai. Tôi không hề nói với ai câu chuyện Phê-đê-rích mới gửi gắm riêng cho tôi, bởi vì tôi chưa tính được cách nào để gỡ cho ra đầu mối sự việc và cũng xin thú thật là tôi rất lúng túng trong việc này. Thế nhưng những viên ngọc trai kỳ diệu lại là những báu vật không thể bỏ qua được! Ngay hôm sau, mấy đứa con tôi nhất định nài xin bố cho phép chúng lên đường đi đánh một mẻ thật sự cái của báu hiện đương vô hạn ấy. - Thong thả đã, thưa các cậu!- Tôi bảo chúng- Trước khi lên ngựa thì cũng phải chuẩn bị yên cương chứ! Nếu các con không muốn mất công toi thì phải sửa soạn đầy đủ những đồ dùng cần thiết đã! Vậy thì mỗi người hãy suy nghĩ, sáng tạo ra một thứ gì đó, có ích cho chuyến đi này; không những bố đồng ý và lại đi cùng với các con nữa. Câu trả lời được hoan nghênh nhiệt liệt và ngay tức khắc tất cả mọi người xô vào việc đó. Có Éc-nét và Ruýt-ly giúp thêm, tôi tự tay rèn lấy được một đôi cào lớn và một cặp móc sắt nhỏ. Cán cào làm bằng gỗ dài và chắc, có vòng sắt để tiện móc vào thuyền mà kéo cho cào chạy dưới nước, trên lòng sông đầy trai ngọc. Còn sót lại con nào thì sẽ có ngay móc sắt nạy lên dễ dàng. Phrit giỏi đan lưới nên nó nhận công việc chữa lại những vầng lưới đã có sẵn cho chắc chắn hơn để buộc theo móc sắt; trai ngọc cạy được chừng nào sẽ rơi vào lưới chừng ấy. Trong thời gian ấy Phê-đê-rích lúi húi một mình với chiếc cai-ắc và tìm cách thu xếp cho được một chỗ ngồi nữa. Chỉ riêng tôi biết ý nghĩa thầm kín của việc thu xếp ấy và cũng chỉ riêng tôi thấy được trong tâm hồn nó cái niềm hy vọng mà lòng nhân ái của nó luôn luôn hướng tới. Tôi rất vui lòng nhưng vẫn chưa thể công khai khuyến khích nó. Chúng tôi sửa soạn thuyền mất cả một ngày tròn. Gió mát và thuận, mặt biển gợn lên nhẹ nhàng như chào mời chúng tôi sớm hôm sau lên đường. Phrit ở nhà với mẹ, còn bốn bố con vui vẻ rong buồm sau khi chào hai mẹ con và ra đi giữa những lời chúc và mong ước trở về bình yên. Ruýt-ly đã khéo điều đình để chiếm cái chỗ ngồi phụ đã thu xếp trong chiếc cai-ắc. Éc-nét cùng tôi chèo thuyền độc mộc, chở lương ăn và đồ dùng cần thiết cùng những con vật được đi theo. Chiếc cai-ắc vượt lên trước, dẫn chúng tôi len lỏi giữa những mỏm đá ngầm và những tảng đá nhấp nhô giữa biển. Cai-ắc nhẹ nhàng nên len lỏi rất dễ dàng chứ chiếc thuyền độc mộc chở nặng không phải lúc nào cũng lách được như thế. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đến cái mỏm núi che khuất Vịnh ngọc trai rồi cùng chui vào cái vòm xuyên qua mỏm núi. Phê-đê-rích cũng đã nói chắc chắn rằng nước trong này khá sâu, đủ cho thuyền qua lại và cứ đi theo con đường tối om này, chúng tôi sẽ ra tới vịnh lớn dễ dàng và nhanh. Vừa lúc đó, nước thủy triều cũng bắt đầu dâng lên, đưa chúng tôi nhanh vùn vụt tới vịnh bên kia, chẳng phải mất sức chèo chống. Cuối cùng, thuyền cũng đã tới dãy núi đá sát cạnh chỗ lần trước Phê-đê-rích đã lấy được khá nhiều trai có ngọc ở trên bờ vịnh. Cảnh trí thật là vui mắt: những cánh rừng nối tiếp nhau xa tắp tận chân trời bát ngát, những đỉnh núi đá cao ngất, và đâu đâu cũng um tùm cây cỏ cao lớn tốt tươi của miền nhiệt đới. Một con sông lớn hùng vĩ đổ ra vịnh, từ xa chảy xuống qua những nội cỏ trông như cắt dọc một vệt ánh bạc. Cảnh vật như chào mời chúng tôi ghé lại bờ và hứa hẹn trước một chỗ nghỉ ngơi ưng ý. Chúng tôi neo thuyền và nhảy lên bãi cát rất dễ dàng. Bóng chiều đã ngã từ lâu cho nên không kịp tổ chức đánh ngọc trai. Chúng tôi yên ổn ăn bữa chiều với mấy lát đùi lợn sấy, khoai tây nướng và bánh nướng bột sắn. Xong xuôi, sau khi đốt dọc bãi biển nhiều đống lửa đủ cháy suốt đêm để phòng thú dữ, chúng tôi để mấy con chó ở lại trên bờ, còn người thì xuống tất cả dưới thuyền. Chú khỉ Cờ-níp ngồi cao trên cột buồm như một người canh gác. Chúng tôi căng là buồm lên trên thuyền như một chiếc lều vải để ngăn bớt khí ẩm ướt ban đêm. Mặt trời vừa ló đằng đông, chúng tôi đã dậy. Sau một bữa lót dạ thanh đạm, chúng tôi bắt tay vào công việc đánh ngọc trai. Cào sắt, móc sắt, lao nhọn hoạt động sôi nổi và rất dễ dàng trong một địa điểm thuận lợi; chẳng mấy chốc chúng tôi đã đánh được một đống lớn những con trai có ngọc. Kể ra muốn đánh thêm bao nhiêu nữa cũng được, nhưng chúng tôi không quá ham một mối lợi chưa cần thiết, cho nên cũng cho là vừa đủ rồi. Vì chỉ định dùng ngọc trai để trao đổi sau này thôi, cho nên bây giờ chưa cần nhiều lắm. Chúng tôi tãi đống trai ra trên bờ cát chờ ánh nắng nung cho chúng phải há ra, như thế sẽ không phương hại gì đến việc lấy ngọc. Sau đó, tôi và Phê-đê-rích đi thăm dò vùng quanh đó nhiều lần, nhưng chẳng thấy bóng dáng hòn Núi bốc khói. Tối đến, chúng tôi sửa soạn đi ngủ thì bỗng nghe thấy một tiếng kêu vang âm kéo dài từ phía rừng đưa tới. Đây là lần đầu tiên chúng tôi nghe được thứ tiếng gầm ghê gớm như thế. Núi đá vang vọng càng kéo dài tiếng kêu như không dứt và chúng tôi không thể tự chủ để nén cho được một cảm giác khủng khiếp không tả nổi. Mấy con chó và con chó rừng cũng rống lên những hồi dài, thất đảm. - Quả là một khúc nhạc ma khóc quỷ hờn!- Phê-đê-rích nói và vớ ngay lấy khẩu súng trước mọi người- Chắc chắn sẽ có một nguy hiểm lớn! Phải khơi đỏ lửa lên! Nó nói tiếp, trong khi đó cặp mắt tinh và thận trọng của nó nhìn sâu vào bóng tối trong rừng. - Mọi người lên thuyền ngay! Còn con thì sẽ đi cai-ắc ngược dòng sông. Như thế, có lẽ con sẽ có thể tìm biết được rõ ràng hơn về tai họa đương đe dọa chúng ta chăng! Sắp xếp như vậy là tỉnh táo và khôn ngoan nên tôi đồng ý. Chúng tôi vùng dậy ngay, ném tất cả các thanh củi dự trữ vào đống lửa, rồi không để mất thì giờ, chúng tôi quay trở lên thuyền. Phê-đê-rích đã ngồi vào chiếc cai-ắc và chèo thật khỏe, chẳng mấy chốc nó đã lẩn vào trong bóng tối mịt mù. Trong khi đó, tiếng gầm thét chẳng những không dứt mà hình như lại càng tiến gần về phía chúng tôi. Mấy con chó cứ lùi dần lại bên đống lửa và lo sợ nhìn lại phía rừng, rú lên ảo não, hoặc rên ư ử. Tiên sinh Cờ-níp lại càng tỏ ra khiếp đảm hơn nữa; con vật đáng thương ấy cứ loay hoay trong một tình trạng đau khổ trông rất ái ngại. Về phía tôi, trước tai họa này, tôi vẫn vững tâm và cũng đã ước lượng được khá đúng nguy cơ. Tôi tin chắc là chỉ cách chúng tôi khoảng vài tầm súng, có thể có những con báo hoặc beo đang mò đến vì chúng đánh hơi thấy những thức ăn vương vãi trong rừng sau mấy bữa ăn. Tôi phân vân không lâu. Chẳng mấy chốc, nhờ ánh lửa, chúng tôi nhận ra một con vật dữ tợn, con sư tử! Và con sư tử này xem ra lại vô cùng mạnh, mạnh hơn bất cứ một con vật nào tôi đã từng thấy trong những gánh xiếc hoặc các vườn bách thú ở Châu Âu. Có thể chỉ vài ba bước nhảy là nó vượt dễ dàng khoảng cách từ bìa rừng đến bờ nước. Tuy thế, nó lại đứng im, đường bệ một cách đáng sợ. Thế rồi bỗng như thình lình nổi cơn tức giận dữ dội, nó quật đuôi vào sườn và những tiếng gầm của nó lại tiếp tục, khủng khiếp hơn. Nó nhìn hằn học và thèm thuồng vào những chiếc đùi lợn sấy trên khói, vào mấy con chó đương lấm lét lẩn sau đống lửa. Nhưng ánh lửa bập bùng và tiếng củi khô cháy nổ lép bép bắn tàn ra tứ tung đã chặn đứng không cho con sư tử tiến lại. Con mãnh thú có vẻ tức tối vì bất lực, khi thì nó giẫm cẳng nặng nề xuống đất, khi thì nhảy dựng đứng lên như muốn chồm thẳng lại chúng tôi. Cái trò biểu diễn khủng khiếp ấy kéo dài khá lâu. Thỉnh thoảng con vật lại chạy vào suối uống nước cho đỡ rát họng, rồi quay trở ra, có vẻ khỏe hơn lên và chăm chú suy tính một cuộc tấn công bất ngờ và chớp nhoáng. Tôi rất kinh hoảng nhận thấy con ác thú cứ thu hẹp dần cái đường vòng cung đi lại trong cuộc diễn tập của nó. Cuối cùng, bỗng nó nằm dài xuống đất, đầu ghếch lên hai chân trước duỗi thẳng, rồi bắt đầu đăm đăm nhìn chúng tôi bằng đôi mắt nảy lửa thật khủng khiếp, tưởng như nó coi chúng tôi là tử thù. Trước tình thế này, phần thì hoảng sợ, phần thì thất vọng, tôi giơ súng lên bắn. Nhưng tôi chưa kịp bóp cò thì một tiếng súng đã nổ vang, con mãnh sư nhảy dựng lên rất cao, rống một tiếng kinh hồn rồi rơi phịch xuống đất và nằm im không động đậy. - Anh Phê-đê-rích bắn đấy!- Thằng Éc-nét, mặt xám ngắt vì sợ, khẽ nói- Cầu cho anh con bình an vô sự! - Đúng, chính là Phê-đê-rích bắn!- Tôi nói- Lại là Phê-đê-rích dũng cảm của chúng ta! Anh con đã cứu chúng ta thoát một tai nạn ghê gớm. Vậy chúng ta phải đến gặp ngay nó! Chỉ hai lát bơi chèo là chúng tôi vào bờ. Vừa thấy chúng tôi, lũ chó, có lẽ do bản năng tuyệt vời của chúng, lại sủa ầm lên và hướng cả về phía rừng. Tôi không thể coi thường cách báo nguy đó. Chúng tôi lại ném củi vào đống lửa và vội và quay trở lại thuyền. Vừa kịp! Chúng tôi vừa đặt chân lên thuyền thì một con ác thú khác đã từ trong rừng hiện ra. Con này hơi nhỏ hơn con trước một chút, nhưng tiếng rống của nó thì cũng ghê rợn không kém. Đây là một con sư tử cái và nó hẳn đi cùng với con vật oai hùng vừa bị hạ kia. Quả là may mắn, vì lúc đầu cả hai con vật đã không cùng mò ra một lúc, nếu không thì chúng tôi nhất định sẽ phải lúng túng với cuộc tấn công hai phía của chúng. Con sư tử cái đi thẳng tới xác con đực; thè lưỡi liếm máu chảy ở vết thương. Khi tin chắc rằng con kia không còn sống nữa, nó bỗng nổi lên cơn điên cuồng ghê gớm! Những tiếng gầm thét của nó càng dữ tợn và cũng không khó gì mà không nhận thấy mức độ hung hãn của con ác thú khi nó quyết trả một mối thù sinh tử. Nó quất mạnh đuôi vào hai bên sườn, há rộng cái mõm ra như là muốn chuẩn bị bộ răng chắc và khỏe cho một trận giáp lá cà ác liệt. Thế nhưng chàng thiện xạ can trường của chúng tôi vẫn còn kia, và một phát súng thứ hai, không chính xác bằng phát trước tuy cũng ngắm rất đúng đã bắn vỡ hai con ác thú. Con mãnh sư bị thương lăn lộn giữa cát với tư thế hung hãn ngày càng kinh khủng. Mấy con chó, hình như chỉ chờ dịp này, đã nhảy xổ cả bao vào con ác thú cùng một lúc. Bóng tối mịt mù, tiếng lũ chó vừa sủa vừa lăn xả vào cắn xé con thú đang bị tử thương, tất cả những thứ đó đã gây cho tôi một cảm giác khó tả khiến tôi đứng thừ ra một lúc. Trong khi ấy, Bra-un và Phôn cắn chặt vào hai bên sườn con ác thú, còn Bi-ly dũng cảm thì ngoạm lấy cổ họng nó. Chỉ cần một phát đạn nữa là có thể kết liễu cuộc chiến đấu dữ dội ấy, nhưng tôi không dám bắn, sợ trúng phải mấy con chó. Tôi nhảy lên bờ, tiến thẳng tới con sư tử đương bị lũ chó ghìm lại như thế, thọc sâu lưỡi dao săn dài vào tim nó. Con ác thú ngã nhào ngay xuống đất trong vũng máu chảy đầm đìa từ vết tử thương. Nhưng thắng lợi thứ hai này đã đòi chúng tôi một giá quá đắt, con Bi-ly dũng cảm, bị cắn và cào xé quá nhiều, khắp người đều thương tích, đã thở hơi cuối cùng một lúc với con sư tử cái. Phê-đê-rích cũng tính toán như tôi và đã chạy lại ngay, dao săn trong tay. Chúng tôi cùng quay trở lại với Éc-nét và Ruýt-li đương lo lắng nhìn theo. Thấy chúng tôi bình yên trở lại, hai đứa vội chạy tới ôm choàng lấy bố và anh. Trước cơn nguy hiểm vừa qua, chúng lo sợ thay cho chúng tôi. Bây giờ chúng cứ ôm hôn chúng tôi mãi, hình như để tin chắc rằng bố và anh thật sự đã trở về yên ổn! Chúng tôi thắp đuốc nhựa cho sáng thêm rồi cùng tiến lại chỗ chiến trường, thấy con Bi-ly nằm chết mà hai hàm răng vẫn cắn chặt vào cổ họng con sử tử cái. Chúng tôi đào cho nó một cái hố sâu vài bộ, buồn rầu đặt nó xuống, lấp đất lên và đặt một phiến đá bằng phẳng nhưng hơi nhám lên trên làm mộ chí. Thi sĩ Éc-nét lặng lẽ ghi lên mấy câu thơ như sau: Nơi đây yên nghỉ Nghĩa cẩu Bi-ly Dũng cảm, trung thành Ôi! Đáng khen thay Hy sinh dưới nanh vuốt mãnh sư Sau khi đưa mãnh sư xuống âm phủ Vần điệu tuy chưa ổn nhưng tình cảm quá là chân thành! Chúng tôi hoan nghênh tác phẩm mới này của thi sĩ, nhất là tác giả lại sáng tác ngay sau khi đứng bên cái chết, chưa thật hoàn hồn. Xong xuôi, chúng tôi quay trở về thuyền ngủ thêm vài giờ nữa. Sau một đêm vất vả, chúng tôi cần ngủ một giấc ngon lành để lấy lại sức.