Louis và Serena càng ngày càng yêu nhau hơn. Khi mùa xuân về, họ bay về phương bắc, Louis đeo trôm-pét, bảng, bút phấn và huân chương của chú, còn Serena không đeo một thứ gì cả. Giờ đây không còn phải làm việc và kiếm tiền, Louis cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm. Chú cũng sẽ không còn phải đeo túi tiền ở cổ nữa. Đôi thiên nga bay nhanh lên cao, cách mặt đất khoảng mười ngàn phút. Cuối cùng chúng bay đến cái hồ nhỏ miền đất hoang nơi Louis ra đời. Điều này là mơ ước của chú - cùng với người mình yêu trở lại vùng đất ở Canađa nơi lần đầu tiên chú được trông thấy ban mai. Chú đưa Serena bơi từ đầu này đến đầu kia của hồ và quay ngược lại. Chú chỉ cho cô xem cái hòn đảo tí hon nơi mẹ chú đã xây tổ. Chú chỉ cho cô xem khúc gỗ nơi Sam Râu Xồm đã ngồi khi Louis kéo dây giày của cậu ấy vì chú không thể kêu "beep". Serena vô cùng vui thích. Họ đang yêu. Trời đã sang xuân. ếch nhái thức dậy sau một giấc ngủ dài. Rùa tỉnh giấc sau cơn mơ màng. Sóc chuột cảm thấy làn không khí ấm áp, dịu nhẹ và dễ chịu thổi qua rừng cây giống y như cái mùa xuân khi bố mẹ Louis đã đến hồ làm tổ và sinh con. Mặt trời tỏa sáng rực rỡ khắp nơi. Băng giá đang tan; trên mặt hồ xuất hiện những hố băng. Louis và Serena cảm nhận được sự thay đổi của thế giới, họ xao động trước cuộc sống mới với niềm say mê và hy vọng. Có mùi vị của không khí, của đất trở mình thức dậy sau mùa đông dài giá lạnh. Cây cối đâm chồi nảy lộc, chồi nhú to dần lên. Một thời kỳ tốt đẹp hơn, dễ sống hơn đang đến gần. Một đôi vịt trời bay tới. Một chú chim sẻ cổ trắng bay đến và hót vang. "Ôi Canađa, Canađa, Canađa ngọt ngào!". Serena chọn một cái hang chuột xạ để xây tổ. Nơi ấy ở độ cao vừa phải so với mặt nước. Lũ chuột xạ đã trát tổ bằng bùn và cành cây. Louis đã hy vọng rằng vợ chú có thể quyết định xây tổ ở cùng nơi trước đây mẹ chú đã xây, nhưng giống cái bao giờ cũng đầy những ý tưởng; họ rất thích làm theo cách riêng của mình, và Serena biết điều cô đang làm. Khi thấy cô bắt đầu xây tổ, Louis hoan hỉ đến nỗi chú thực sự không quan tâm đến việc nó ở đâu nữa. Chú nâng kèn lên và thổi đoạn đầu một bài hát có từ ngày xưa. "Thật vui sướng khi lập gia đình, xây – xây - xây dựng gia đình..." Rồi chú giúp cô tha mấy cọng cỏ khô về. Dù trời mưa hay nắng, lạnh giá hay ấm áp, mỗi ngày trôi qua đều là một ngày hạnh phúc đối với đôi thiên nga. Đúng ngày đúng tháng, Serena đẻ trứng và ấp nở lũ thiên nga con - tất cả có bốn chú. Âm thanh đầu tiên mà bầy thiên nga con được nghe là những âm thanh to vang và trong trẻo phát ra từ chiếc kèn trôm-pét của bố chúng. "Ôi mùa xuân nảy lộc đâm chồi", chú chơi, "Bờ hoang vu, rừng vắng lặng không người..." ở cái hồ nhỏ vắng vẻ trong khu rừng miền bắc, cuộc sống thật vui vẻ, nhộn nhịp và ngọt ngào. Lâu lâu Sam Râu Xồm lại qua thăm một lần và họ lại có những giờ phút vui vẻ thú vị bên nhau. Louis không bao giờ quên nghề cũ và bạn bè cũ của chú, cũng không quên lời hứa của mình với ông tổ trưởng tổ coi sóc chim muông ở Philadelphia. Năm tháng trôi qua, cứ mỗi khi mùa xuân đến là chú và Serena lại quay trở lại hồ, làm tổ và sinh con. Và hàng năm, vào độ cuối hè, khi họ đã thay lông và lông vũ đã mọc trở lại, và khi bầy thiên nga con đã sẵn sàng tập bay, Louis đưa cả gia đình làm một chuyến du ngoạn dài đầy thú vị ngang qua nước Mỹ. Trước tiên chú đưa họ đến trại Kookooskoos, nơi chú đã cứu Gọt Vỏ Táo thoát chết và được thưởng huân chương. Vào mùa này trại đã đóng cửa, nhưng Louis thích thăm lại nơi đó và thơ thẩn dạo quanh, nhớ về bọn trẻ và nhớ lại chuyện chú đã kiếm được một trăm đô la đầu tiên trong đời bằng cách làm người thổi kèn hiệu như thế nào. Rồi bầy thiên nga lại bay đến Boston, nơi người chủ Thuyền Thiên Nga luôn nồng nhiệt đón mừng chú. Louis đánh bóng chiếc kèn của mình, lau sạch vết nước bọt đi và lại bơi đằng trước những chiếc thuyền, chơi bài "Hãy chèo con thuyền của bạn", và dân chúng ở Boston nghe thấy những âm thanh quen thuộc từ chiếc trôm-pét của thiên nga và sẽ tụ tập lại ở Công Viên. Rồi chủ thuyền mời Louis và Serena nghỉ lại một đêm ở khách sạn Ritz, trong khi bầy thiên nga con ngủ trên hồ, được chủ thuyền canh chừng. Serena thiết tha yêu mến khách sạn Ritz. Cô ăn hàng chục chiếc bánh săng đuých kẹp rau cải xoong, ngắm nghía mình trước gương soi và bơi trong bồn tắm. Và trong khi Louis đứng nhìn qua cửa sổ ngắm Công Viên ở bên dưới thì Serena đi loanh quanh trong nhà, bật và tắt đèn để tiêu khiển. Rồi cả hai leo vào bồn tắm và đi ngủ. Từ Boston, Louis đưa gia đình đến vườn bách thú Philadelphia và chỉ cho lũ con xem Hồ Chim. Ở đây chú được ông tổ trưởng tổ coi sóc chim muông đón tiếp rất nồng hậu. Nếu vườn bách thú cần một con Thiên Nga con để bổ sung cho bầy chim nước ở đó, Louis sẽ tặng một chú Thiên Nga con đúng như chú đã hứa. Những năm về sau, Philadelphia cũng là nơi họ gặp Sam Râu Xồm. Sam xin việc ở Vườn Bách Thú ngay khi cậu vừa đủ tuổi đi làm. Cậu và Louis luôn có những giờ phút vui vẻ khi họ gặp nhau. Louis sẽ lấy bảng và họ trò chuyện rất lâu về những ngày xưa. Sau khi đến thăm Philadelphia, Louis sẽ cùng gia đình bay về phương nam để có thể trông thấy miền Xavan rộng lớn nơi những con cá sấu Mỹ ngủ trong đầm lầy và những con kền kền Mỹ bay vun vút trên bầu trời. Và rồi họ sẽ quay về quê hương để nghỉ đông tại vùng hồ Đá Đỏ ở Montana, trong Thung Lũng Bách Niên thanh bình và đáng yêu, nơi loài Thiên Nga Kèn cảm thấy an toàn và không có gì phải sợ hãi. Cuộc sống của một con thiên nga thường vui vẻ và thú vị. Và tất nhiên cuộc sống của Louis đặc biệt lại càng thú vị hơn bởi vì chú là một nhạc sĩ. Louis chăm sóc chiếc trôm-pét của chú rất cẩn thận. Chú luôn giữ kèn sạch sẽ và ngồi hàng giờ để đánh cho nó bóng lên bằng chóp cánh của chú. Suốt đời chú cảm thấy biết ơn bố chú, ông thiên nga dũng cảm đã liều mạng để lấy cho chú chiếc trôm-pét mà chú vô cùng cần thiết. Mỗi khi nhìn Serena, chú nhớ lại rằng chính âm thanh của chiếc trôm-pét đã khiến cho cô bằng lòng làm vợ chú. Thiên nga thường sống lâu. Năm này qua năm khác, cứ mỗi độ xuân về Louis và Serena lại quay về cái hồ nhỏ ở Canađa để sinh con đẻ cái. Ngày tháng trôi qua êm ả. Thường thường, vào lúc màn đêm vừa buông xuống, khi bầy thiên nga con đã buồn ngủ, Louis nâng kèn lên và thổi khúc báo giờ đi ngủ, cũng giống y như ngày xưa chú thường thổi ở trại. Những nốt nhạc buồn và đẹp trôi qua mặt nước tĩnh lặng và ngân vang trên vòm trời đêm. Vào một mùa hè, khi Sam Râu Xồm khoảng hai mươi tuổi, anh và bố đang ngồi trong lều của họ ở Canađa. Lúc đó là sau bữa ăn tối. Ông Râu Xồm ngồi đu đưa trên ghế, nghỉ ngơi sau một ngày dài ngồi câu cá. Sam đang đọc một cuốn sách.- Bố ơi - Sam nói, - chỉ ra ngoài lúc hoàng hôn nghĩa là gì?- Làm thế nào mà bố biết được? - ông Râu Xồm đáp. - Bố chưa hề nghe thấy câu đó bao giờ.- Nó có cái gì đó liên quan đến thỏ. - Sam nói. - ở đây nói rằng thỏ là một loài động vật chỉ ra ngoài lúc hoàng hôn.- Có thể có nghĩa là bẽn lẽn, - ông Râu Xồm nói. - Hoặc có thể có nghĩa là thỏ có thể chạy như ma. Cũng có thể có nghĩa là ngốc nghếch. Vào ban đêm, một con thỏ có thể ngồi ngay giữa đường cái, nhìn chòng chọc vào đèn pha đằng trước xe hơi và không bao giờ chạy đi, và vì thế rất nhiều con thỏ bị chẹt chết. Chúng thật ngốc nghếch.- Thôi, - Sam nói, - con cho rằng để biết được chỉ ra ngoài lúc hoàng hôn có nghĩa gì, cách duy nhất là xem từ điển.- Chúng ta không có từ điển ở đây, - ông Râu Xồm nói. - Con phải đợi cho đến khi chúng ta quay về trang trại thôi. Đúng lúc đó, ở bên hồ nơi bầy thiên nga đang sống, Louis nâng kèn lên và thổi khúc báo giờ đi ngủ để đàn con biết rằng ngày đã trôi qua. Gió thổi xuôi chiều, và âm thanh vang vọng qua đầm lầy. Ông Râu Xồm ngừng đu đưa ghế.- Thật là ngộ! - ông nói. - Bố nghĩ là bố vừa mới nghe thấy tiếng kèn trôm-pét.- Con không biết làm thế nào bố có thể nghe được, - Sam trả lời. - Trong khu rừng này chỉ có mỗi bố với con mà thôi.- Bố biết vậy, - ông Râu Xồm nói. - Nhưng bố vẫn nghĩ là bố đã nghe thấy tiếng trôm-pét chính cống. Hoặc tiếng kèn hiệu. Sam cười khoái chí. Anh không bao giờ kể cho bố nghe chuyện những con thiên nga sống ở vùng hồ cạnh đó. Anh giữ bí mật ấy cho riêng mình. Khi đến hồ, anh luôn luôn đi một mình. Anh thích như vậy. Và bầy thiên nga cũng thích như vậy.- Bạn Louis của con ra sao rồi? - ông Râu Xồm hỏi. - Louis là một nhạc công trôm-pét. Con không nghĩ là chú ta có thể ở đâu đó quanh đây chứ?- Có khi thế cũng nên, - Sam nói.- Gần đây con có nhận được tin gì của chú ta không?- Không ạ, - Sam đáp. - Bạn ấy không viết thư nữa. Bạn ấy hết tem rồi và không có tiền để mua tem.- Ồ, - ông Râu Xồm nói. - Toàn bộ những chuyện về con chim đó thật là kỳ quặc - không bao giờ bố hiểu hết được những chuyện đó. Sam liếc nhìn bố và thấy mắt ông nhắm nghiền. Ông Râu Xồm đã ngủ say. Hầu như không một âm thanh nào phá vỡ sự tĩnh lặng của rừng cây. Sam cũng mệt và buồn ngủ. Anh lấy nhật ký ra, ngồi xuống cạnh bàn và viết dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu. Anh viết: "Đêm nay mình nghe thấy tiếng kèn của Louis. Bố mình cũng nghe thấy. Gió thổi xuôi chiều, và đúng vào lúc màn đêm buông xuống mình đã nghe thấy tiếng kèn báo giờ đi ngủ. Trên thế giới này không gì làm mình thích bằng tiếng trôm-pét của một con thiên nga. Chỉ ra ngoài lúc hoàng hôn có nghĩa là gì nhỉ?" Sam cất sổ đi. Anh cởi quần áo và chui vào giường. Anh nằm yên, băn khoăn tự hỏi không biết chỉ ra ngoài lúc hoàng hôn có nghĩa là gì. Chưa đầy ba phút anh đã ngủ say. Trên cái hồ nhỏ nơi đàn thiên nga đang sống, Louis cũng cất kèn trôm-pét đi. Bầy thiên nga con rúc vào cánh mẹ. Bóng tối bao trùm rừng cây, đồng cỏ và đầm lầy. Chim lặn gavia cất lên những tiếng kêu đêm hoang dã. Khi Louis nghỉ ngơi và chuẩn bị đi ngủ, tâm trí chú tràn ngập những ý tưởng về chuyện được sống trên trái đất tươi đẹp như thế này chú mới may mắn làm sao, giải quyết được những vấn đề của mình bằng âm nhạc chú mới may mắn làm sao, và thật vui sướng biết bao khi trước mặt là một đêm thanh bình nữa, và một ngày mai trong lành với ánh sáng ban mai sẽ bừng lên.
Hết