Cuối năm 1968, Mỹ ngừng ném bom miền Bắc. Ðầu tháng 11 hắn lên trại trẻ đón đứa con trai sau về Hà Nội. Nó vẫn lên cơn hen mỗi dêm, vì trời đã bắt đầu lạnh. Ở với bà nội không chừng bà sẽ ốm theo cháu. Cuộc chiến tranh phá hoại kéo dài bốn năm chỉ mới tạm dừng vì cuộc chiến tranh lớn vẫn chưa kết thúc, nhưng dứt tiếng bom đạn một ngày là vui được một ngày, ngày sau lại bom lại đạn cũng chả sao. Từ năm 15 tuổi cho tới năm 38 tuổi chưa có ngày nào hắn được sống trong cái cảm giác hoàn toàn yên ổn, có thể hình dung một cách chắc chắn những năm tháng thuộc về tương lai. Tương lai một cá nhân, một gia đình phụ thuộc vào tương lai của đất nước. Một đất nước trên hai chục năm luôn chao đảo trong sóng to gió lớn. Ðánh thắng Pháp mới chỉ thắng có một nửa, còn một nửa nước Mỹ sẽ thay Pháp giữ chặt lấy, sẽ trở thành thuộc địa mới của Mỹ với tay sai mới, quân quyền mới, thế trận mới. Mỹ không phải là Pháp nhá, nên trận chiến mới này sẽ có nhiều gian nan, trở ngại không thể ngờ, không chỉ ở trong nước mà cả ở ngoài nước vì Mỹ vẫn là bá chủ hai phần ba thế giới. Nước mình sẽ là cái gì trong sự tính toán vị kỷ giữa các cường quốc trên bàn cờ chiến lược. Sống ở Hà Nội ngay từ năm 1962 đã có nhiều người trong cơ quan đeo ba lô lên đường vào các chiến trường phía nam rồi. Cuộc chiến tranh mới đã bắt đầu nhen nhóm. Những người ở lại tuy ngày ngày vẫn về nhà ăn cơm với vợ con, đêm đêm ngủ cạnh vợ nhưng trong lòng đã mất hết mọi yên tĩnh, đã hoá ra bất an vì chả ai có thể ngồi yên khi bạn bè lần lượt đi vào các chiến trường. Vả lại một thế hệ lớn lên trong chiến tranh, lập nghiệp, lấy vợ sinh con trong chiến tranh lại không được sống dài ngày ở những nơi cuộc chiến đang diễn ra ác liệt thì cũng không thể hiểu hết được cái khả năng chịu đựng và thích ứng của chính mình và những người đương thời. Cho nên Mỹ vừa ngưng ném bom miền Bắc được một tuần là hắn lao vào Quảng Bình, Vĩnh Linh ngay. Hắn muốn được sống ở Vĩnh Linh ít ngày, tuy không còn bom đạn nhưng đám cháy chỉ vừa mới tắt ngọn, tàn đỏ vẫn chưa lụi hẳn, khói bom vẫn chưa tan hẳn, những mất mát còn nguyên vẹn, những nỗi đau cũng còn nguyên vẹn, không chừng cái đau lúc này còn day dứt hơn vì đã có một khoảng thời gian yên tĩnh để ngấm nghía về những cái đã mất đi mãi mãi của một gia đình. Hai bên bờ sông Gianh đã có những túp lều mới dựng bán nước, xôi, thuốc lá. Ngồi ở quán chờ phà đã được nghe bao nhiêu chuyện, chuyện còn mới cả, nói rằng trẻ con ở các xã Hương Thuỷ, Hương Dũng chăn bò chăn trâu ở vùng đồi nghe tiếng máy bay tới gần vẫn bình thản như không, tới lúc một đứa hô: "Hướng 34, tăng độ cao, chui vô hầm ngay!" lúc đó chúng mới tản ra nhảy xuống hầm. Một ông nói, chúng tôi làm giao thông hào từ giáp Quảng Bình đến tận sông Bến Hải khoảng hai chục cây số từ Vĩnh Tú, Vĩnh Nam, Vĩnh Hoa đến Vĩnh Tân, Vĩnh Giang, Vĩnh Quang. Lại có giao thông hào liên thôn, liên xã. Trong năm 1968, toàn dân Vĩnh Linh không ai đi trên đường cả. Một người khác nói, dân chúng tôi chỉ có một nghề đi bể, nó đánh bể thì làm lộng, trong lộng cũng bị đánh thì làm cá trên sông nhưng gặp khó khăn về thuyền, về lưới, về cách làm. Sông có bom từ trường thì đi câu ở ruộng, làm lưới nhỏ trên ruộng, làm vẫn đủ ăn. Buổi chiều qua Ðồng Hới, cổng thành Ðồng Hới như bị chẻ đôi. Nhà máy gỗ sát cầu Dài mất hẳn. Thanh Hoá, Vinh, Ðồng Hới trở nên giống nhau vì tất cả chỉ còn là những đống gạch vụn. Chiều hôm sau qua phà Quán Hàu, rất nhiều thuyền chở gạo trên sông Nhật Lệ, mỗi thuyền chở khoảng 5 tấn. Bộ đội trùm vải dù vác các bao gạo 50 cân chuyển lên xe. Mấy cô nhà thuyền ngồi ở mũi thuyền xé cua bể nấu cơm chiều, nói chọc nói ghẹo gì đó mấy anh bộ đội rồi họ cười lanh lảnh, tiếng cười trong trẻo vô tư vang vọng cả một khúc sông. Những cánh buồm trắng và nâu chạy lờ lững ngoài sáng một đoạn dài rồi như bị hút vào vùng tối huyền bí của chân núi. Khung cảnh sông nước vào lúc chiều đã có cái buồn hiu hiu của một ngày thanh bình, một ngày sống bình thường như những ngày chưa có chiến tranh. Ðêm đó hắn ngủ tại nhà hầm của khu đội Vĩnh Linh, được chủ nhà đãi một bữa cơm thịnh soạn, tuy chỉ có một con gà luộc chấm muối và hạt tiêu xanh và một bát nước dùng lơ thơ vài cọng hành, không có rau, đến cỏ và lá tre cho trâu bò ăn cũng hiếm nói gì rau. Còn thiếu rau xanh hơn cả đảo Cồn Cỏ năm nào. Ngồi trò chuyện một lúc thì có hai o dân quân tới thăm. Một o tên là Lương, một o tên là Phú, đều ở tuổi 19, họ đã dùng đại liên 12 ly 7 bắn rớt một máy bay F4H vào tháng 11 năm 1967. O Lương kể: " Khoảng 5 giờ chiều, trời hơi mù, có hai chiếc F4H bay rất cao rồi một chiếc lao thẳng xuống trận địa, bọn em đã lấy sẵn góc độ, tầm hướng rồi, nổ súng luôn. Ðạn bay từ dưới lên một cột thẳng rồi toả ra như bông sen chụp lấy thân máy bay. Máy bay xịt lửa, kéo vệt lửa bay đi, bản đồ và ghế phi công rơi vào nhà hầm của khu hội phụ nữ, còn thằng phi công nhảy dù xuống Gia Ninh cách trận địa khoảng ba cây số". Khu đội trưởng Vĩnh Linh nói tiếp: "Tôi đứng ở cửa hầm ngó xuôi cũng đã biết có một F4 trúng đạn nhưng không rõ là bộ đội bắn hay dân quân miềng bắn, một lúc thì thấy hai con nhỏ Lương và Phú chạy lại, người trắng toát như không còn máu kêu thét từ xa: "Tụi em bắn rớt máy bay rồi đó!" Tôi phải nói ngược lại để tụi nó khỏi mừng quá mà đứng tim: "Tụi bay nói trạng, tao có thấy chi mô?" O Lương phải báo cáo thêm, tụi nó bắn có 36 viên đạn, báo luôn cả góc độ tầm hướng, và nhắc cả con heo bốn chục ký mà uỷ ban đã hứa thưởng cho đội nào bắn rớt mày bay". Hắn hỏi: "Lần đầu bước vào cuộc chiến đấu các o có thấy sợ không?" O Phú nói rất sợ, năm hoà bình Vĩnh Linh thuộc miền Bắc, là vùng đất tự do, bọn họ mới có 6 tuổi, có nghe tiếng nổ, có nghe nói người chết vì bom đạn nhưng ở xã khác, mắt chưa thấy người chết bao giờ, mãi tới năm 1965 mới nghe tiếng máy bay gào rú trên đầu, bom nổ chỗ này chỗ kia, gà bay, lợn kêu, chó chạy, người cũng chạy quáng chạy quàng cả, lần đầu giáp mặt với chiến tranh mà. O Lương đã suýt chết một lần vào năm 1966, bom nổ cạnh hầm, đất phủ lên hầm còn thiếu ba tấc đầy bẩy mét (?) Ðào đến 12 giờ đêm vẫn chưa tới, lúc kéo người lên phải cạy máu đông ở miệng, nằm đúng mười chín ngày mới lò dò đi lại được. O Phú lại kể chuyện bắt phi công Mỹ cuối năm 1965, vào giờ giữa trưa, nhìn thấy cái cẳng thằng phi công đu đưa đu đưa dưới cái dù, bu xung quanh có hàng chục cái trực thăng, phản lực bay rầm trời rầm đất. Nhưng cái dù lại rơi vào trong rú, Phú lao theo cứ nhìn dấu giầy mà vọt đi, tới một bờ sông trong rú thì nhìn thấy cái lưng nó, trong súng có năm viên đạn, bắn theo một viên cảnh cáo, nó ngồi thụp xuống co người lại, bắn luôn hai phát nữa rồi chạy tới lấy cái đài con đeo bên người nó, lấy dây dù lúc nào cũng sẵn trong người để trói biệt kích, trói hai khuỷu tay quặt ra sau nhưng không bắt cởi giày, cũng không bịt mắt, nó đi chậm thì nó cực mà mình cũng nhọc. Nó trẻ lắm, chỉ hơn em khoảng một hai tuổi nhưng rất to con, cũng phải nặng hơn tạ, nó ăn bơ uống sữa dư đủ chứ đâu có ăn rau ăn khoai mà vẫn không được no như mình. Hắn nghe chuyện chả ghi chép gì cả, cứ nhìn chằm chằm hai cô gái xạ thủ của đất lửa, trạc tuổi vợ hắn lúc mới làm quen nhau, hắn 24, vợ hắn 19, dáng người cũng gọn gàng như thế nhưng vợ hắn trắng hơn, hai o này da ngăm ngăm nâu nhưng cái cười thì giống hệt, tươi tắn, dễ gần. Và cả hai đều có những bàn tay, bàn chân rất to như chân tay của nam giới. Hai cô gái ở một vùng đất đã thành bùn thành bụi vì bốn năm bom đạn, không còn nhà, không còn cây, không còn những vạt rau xanh, nhưng ruộng cấy lúa vẫn còn, trước mắt hắn là những cánh đồng lúa đang vào gặt vụ mùa, thì sự có mặt của các o dân quân đã làm dịu hẳn, tươi hẳn cả một khung cảnh chết chóc, khô cằn. Họ đẹp từ khuôn mặt, dáng đi, giọng nói, tiếng cười và cả những bàn chân, bàn tay hơi thô cũng vẫn rất ưa nhìn, như là tặng vật của ông trời vẫn dành lại cho một vùng đất không bao giờ chết, không bao giờ bị huỷ diệt. Nếu chỉ nhìn cảnh tượng trên mặt đất của các xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Thuỷ, Vĩnh Chấp thì quả là cuộc sống đã bị huỷ diệt như mình đã bị ném lên mặt trăng vậy. Nghe anh em kể có những tháng của năm 1968 cả khu vực Vĩnh Linh chỉ thấy khói và bụi bom bao bọc cả bốn phía như cả hành tinh đã bốc thành khói, khói quẩn suốt ngày, bụi khói như bụi đất dính vào người có mùi khét. Bom rải thảm của B.52, bom sát thương, bom đào khoan, bom bi, có đêm nó nã pháo tử Cồn Tiên, Dốc Miếu sang tới 5000 quả, bắn suốt đêm, có ngày có 95 lần chiếc B.52 rải bom từng đợt, giờ nào cũng có từng tốp B52 bay ì ì trên trời, rồi chớp xanh chớp trắng nhấp nhoáng trong khói khắp mặt đất. Nhưng không nghe thấy tiếng nổ vì hai tai đã ù đặc, rồi mắt cũng như bị loà bị mù vì khói, không thở được, không nói được vì khói, cũng không chạy được vì chân tay như đã bị những vòng khói siết chặt. Có một chuyện nghe như đùa mà là chuyện có thật. Một bà mẹ đã ngoài bảy chục tuổi chui vào hầm chữ A đào ngay trong nhà. Bom nổ, nhà bị sập, hầm bị lấp, đang cho người vào kéo bà lão lên thì bà nói vọng ra: "Ðể mẹ ăn xong miếng trầu rồi ra". Dân Vĩnh Linh vốn nổi tiếng là dân nói trạng mà! Có một điều làm hắn rất kinh ngạc là Vĩnh Linh lấy đâu ra người mà gánh vác quá nhiều việc. Vì nhiệm vụ chính của lực lượng dân quân không chỉ là bắn máy bay mà còn sản xuất và chuyển hàng từ Bắc vào Nam qua sông Bến Hải. Chỉ trong chín tháng của năm 1968 đã phải huy động 136 ngàn công chuyển hàng từ Bắc vào Nam. Lại còn công làm giao thông hào liên thôn, liên xã, công làm trận địa pháo cho bộ đội, công lấp các đoạn đường bị bom đánh cho xe qua, bao nhiêu là việc mà nhìn quanh quẩn đâu có thấy người. Trong một đêm ngày 3 tháng 2 năm 1967, dân quân xã Vĩnh Thuỷ nhận lệnh làm 8 cây số đường, 3 cầu và 3000 gánh bổi lót đường cho xe pháo ra gần mép biển đánh tầu chiến. Rồi còn phải tiếp tục đào địa đạo nữa, mỗi chiếc cuốc chim ngắn cán, một cái xẻng lưỡi sắc như dao cạo cũng ngắn cán, một cái rổ, mấy chục mét dây chão và một cái trục quay, đêm nào cũng phải đào, có đoạn đào sâu 20 mét, có đoạn sâu 30 mét, đào ở mọi hướng mà đều có điểm để gặp nhau thành các ngã ba ngã tư như một thị trấn dưới lòng đất. Trên mặt đất như vùng đất chết, dưới lòng đất vẫn là một Vĩnh Linh đang sống, đang chiến đấu, có những trạm y tế kiêm nhà hộ sinh, có vườn trẻ, có cả câu lạc bộ biểu diễn văn nghệ, chả học kinh nghiệm nơi nào cả, thấy cần là làm, vừa làm vừa học cách làm và học cả cách sống dưới lòng đất. Tới đâu cũng gặp các cô gái, một thế giới toàn phụ nữ đảm đang đủ mọi việc của thời chiến, vẫn cười đùa, vẫn làm duyên làm dáng và đôi lúc vẫn nghĩ tới chuyện chồng con. Trong chiến tranh vẫn lấy chồng được, vẫn sinh con được, chứ đâu phải đợi tới ngày thống nhất đất nước! Mười năm nữa chiến tranh mới kết thúc thì thành bà già cả bọn sao? Một cảnh tượng dọc đường đến xã Vĩnh Chấp làm hắn nhớ mãi. Một hố bom lọt vào giữa bốn cây mít, rễ sát đất đều bị tiện cụt mà cây vẫn sống, một đàn lợn teo tóp như một lũ chuột leo lên tụt xuống quanh miệng hố bom. Một bãi bùn với những thân cây cháy đen bị tiện ngang, trơ trụi, lầy lội. Một cái nhà sát miệng hầm bị cháy từ lâu, mái tranh lợp trên như mới cắt nửa xanh nửa vàng, có một cây cột điện vẫn còn nguyên các bình sứ cách điện đưa vào làm cột chống mái nhà. Bếp đun ở cửa hầm, có một cái chạn, mấy cái rá, có cả một cái liễn bằng đất nung. Một điểm sống đã nhú lên trên vùng đất mặt trăng sau ngày ngừng bắn phá mới khoảng mươi ngày chứ mấy. Một anh bộ đội ở đường 9 vào xã mua chè, đội mũ tai bèo cũng là khăn lau mồ hôi, đeo đủ thứ quanh người, cái nào cũng có vỏ bọc vằng vải bạt, đang kể chuyện cho mấy o dân quân nghe về dốc Bà Ðịnh, dốc Anh Trỗi, dốc Anh Bé. Anh ta nói năm 1965 mới vào chiến trường đã bị sốt rét ngay, cặp nhiệt độ lên tới 42 độ người đã mê đi tưởng chết, mà rồi qua khỏi, từ đó chẳng còn ốm đau gì nữa, bệnh chê mà bom đạn cũng chê, chắc là sẽ sống được tới già. Một o hỏi: "Anh bị sốt rét có báng không?", anh kia cười, hàm răng trăng bóng: "Leo dốc thót bụng lại, thở lên đến ức lấy đâu ra báng!" Hắn đến xã Vĩnh Linh chỉ để nghe công tác đảm bảo giao thông trên các trục đường qua địa phận của xã. Một hố bom trên mặt đường phải bỏ vào đó 550 gánh bổi, hai mươi mét khối đá và gạch, chặt cả cây cối, hòm tủ ném xuống hố bom. Vẫn không đủ, sau phải dỡ cả nhà đưa ra mặt đường, nhà bí thư, chủ tịch đập trước, sau đó là nhà của dân, phải đăng ký để đập nhà từng đêm, chứ đập sạch bữa sau lấy gì mà lấp. Có nhà chị Mẹt, chồng cụt chân, năm con dại, nhà ba gian mới làm cũng xin cho dân quân vào đập. Xã phải ngăn: Từ từ, chiến tranh còn dài, mần một lần, làn sau lấy chi mà mần. Bà con có quyền đăng ký nhưng không có quyền tự đập nhà". Hắn ngồi với một nhóm dân quân bất ngờ được gặp cả giờ, hỏi đủ mọi chuyện. Một o mặt hơi rỗ mà vẫn xinh lắm, giọng nói như hát hỏi hắn: "Eng là phóng viên mặt trận à, da eng trắng rứa chắc là mới đến Vĩnh Linh lần đầu?" Hắn nói, cũng là ngượng quá nên phải khoe: "Năm 65 tôi có đến Vĩnh Kim đợi thuyền ra Cồn Cỏ nên không đi được nhiều trong đất liền". Ánh mát cô bé dịu lại, thân thiện: "Bọn em cũng ao ước được ra Cồn Cỏ để phục vụ các anh trên đảo nhưng chưa có dịp nào". Hắn lại nói: "Ở trên đảo chỉ toàn là đàn ông thôi, các o mà ra đó lên ngôi nữ chúa hết!" Cô bé lại cười: "Chu cha! Sướng hí, ở trong ni chỉ có ông già mụ lão với bọn con gái chúng em thôi, đàn ông con trai đi sạch nên mọi việc ở nhà bọn em phải làm hết". Cô bé nói tiếp, mỗi lần nghe xã giao việc người cứ chết lặng vì lo, người còn một nhúm mà trăm thứ việc, lấy người đâu làm, làm lúc nào, không ăn không ngủ cũng không có thời gian để làm; ví như có lệnh trong ba ngày phải mở 10 cây số đường cát, đào 250 hố cá nhân, làm ba trận địa để bộ đội đưa pháo ra mép biển. Người giao việc cứ nói như không, bọn em phải mọc thêm mấy chân mấy tay để làm cho tròn mọi việc. Mà vẫn còn mấy chục mẫu ruộng chưa cấy, vẫn còn mấy trăm tấn gạo để gần bến phà nội trong một đêm phải bốc hết lên xe, lại còn người đi tải đạn, người đi cáng thương binh... Rồi cô gái kết luận: "Việc của bọn em các anh bộ đội đóng quân ở đây chỉ nhìn cũng đủ ngán. Chỉ có nữ mới làm được thôi, làm không tính tới ăn, không tính tới ngủ, làm hết ngày này qua tháng khác suốt bốn năm nay, không nghỉ ngày nào, không đau bệnh ngày nào, mấy anh có làm được như bọn em không?"