Lúc này đã là hơn hai giờ sáng, tôi và Tiểu Sảnh cuối cùng đã xem xong cuốn nhật ký của hơn năm mươi năm trước. Bỗng nhiên anh nến lay động làm chúng tôi phát hiện ra nến sắp cháy hết rồi, tôi vội vàng thay một cây nến mới. Tiểu Sảnh khép cuốn nhật ký của Nhược Vân lại, hít một hơi thật sâu nói: “Trời ơi, đây chính là bí mật của Hoang thôn sao?” Đọc liền một mạch mấy tiếng đồng hồ, tôi chỉ cảm thấy mắt và vai đều đã có chút mỏi mệt, tôi vung tay vung chân một lúc nói: “Cuốn nhật ký này quả là không thể tưởng tượng nổi, nhưng đáng tiếc rất nhiều trang đã bị xé đi, những gì chúng ta đọc được chỉ là một phần nhỏ mà thôi”. Tiểu Sảnh vuốt nhẹ tấm bìa cuốn nhật ký hỏi: “Số phận của Nhược Vân bi thảm quá, nhưng cô ấy là một phụ nữ hiện đại sống trong thế kỷ 20, cô ấy khát vọng tình yêu và tự do tận trong đáy lòng, cô ấy tuyệt đối không can tâm làm con chim bị nhốt trong lồng. Bởi vậy, cô ấy muốn đem con trai rời bỏ nhà Âu Dương, theo đuổi một cuộc sống hoàn toàn mới. Ồ, nhưng không biết cô ấy có thành công không?” Nhưng lúc này, tôi chẳng còn tâm trí đâu để nghĩ tới số phận của Nhược Vân nữa, cái tôi quan tâm hơn chính là bản thân mình. Tôi từ từ giơ tay trái lên, nhín chiếc nhẫn ngọc trên ngón trỏ, cảm giác vệt đỏ đun càng lúc càng chói mắt, bởi vì tôi đã biết nó là máu của ai. Tôi nhìn chiếc nhẫn ngọc nói: “Cổ Ngọc Quốc năm nghìn năm trước mà trong nhật ký nói hiển nhiên là văn minh Lương Chử ngày nay thường nói. Bất luận là thời gian hay niên đại của nền văn minh, còn cả phạm vi khu vực mà nó tồn tại, thậm chí đặc trưng lớn nhất của nó: ngọc khí, đều hoàn toàn phù hợp với văn hóa Lương Chử trong khai quật khảo cổ ngày nay. Trong nhật ký nói Cổ Ngọc Quốc xây dựng thành thị, có cung điện và tế đàn hùng vĩ, những thứ này cũng giống hệt với những gì phát hiện được ở di chỉ Mạc Giác Sơn”. “Nói như vậy thì cuốn nhật ký này đã mở ra cho anh bí mật của tổ quốc Lương Chử?” “Lúc này vẫn chưa thể nói là mở ra, chỉ có thể nói là cung cấp cho anh một chiếc chìa khóa có thể mở cánh cổng của văn minh Lương Chử. Đúng vậy, bí mật của gia toc65 Âu Dương Hoang thôn thực ra là bí mật của văn minh Lương Chử cổ xưa, họ chính là hậu dệu của vương tộc Lương Chử nguyên cổ, sau khi cổ quốc bị diệt vong đã định cư mãi ở Hoang thôn. Bởi vì Hoang thôn là nơi tổ tiên họ đổ bộ lên đại lục Đông Á, thế nên nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với họ”. “Nhưng, trong nhật ký nói tổ tiên của gia tộc Âu Dương là thiên thần, anh tin không?” “Anh không biết, rất nhiều dân tộc đều có những thần thoại tương tự, nói rằng tổ tiên của mình đến từ thế giới thần bí trên trời. Và trong nhật ký thực sự cũng nhắc tới tổ tiên của nhà Âu Dương đến từ một nơi vô cùng xa xôi và thần bí, họ vượt qua đại dương mênh mông mới đến được Hoang thôn. Vậy thì nơi vô cùng xa xôi và thần bí đó ở đâu?” Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh nhớ lại điều gì đó: “Nơi vô cùng xa xôi và thần bí? Có thể là người ngoài trái đất không nhỉ?” "Người ngoài trái đất? Không, đây không phải là ‘Vệ Tư Lý hệ liệt’ của Nghê Khuông, chỉ khi nào trong tiểu thuyết không thể tự biện minh, lập luận mới đem người ngoài hành tinh ra để lấp đầy”. “Vậy thiên thần nghĩa là gì? Tổ tiên của nhà Âu Dương có lẽ từ biển lên, cũng có khả năng từ trên trời xuống. Cổ nhân vốn không biết thế nào là người ngoài hành tinh, trong mắt người xưa vốn lạc hậu và mê tín, người từ trên trời rơi xuống đương nhiên là thiên thần rồi”. Tôi chỉ biết gật đầu nói: “Trên lý thuyết thực sự tồn tại khả năng này. Giống như di chỉ Stonehenge của vương quốc Anh, những đường vẽ kỳ lạ trên hoang mạc Nazca ở Peru, đảo Phục sinh ở Nam Thái Bình Dương, vân vân, những hiện tượng và di tích thần bí này đều không giống do nhân loại trái đất sáng tạo nên”. “Đúng vậy, chồng Nhược Vân trong nhật ký không phải đã nói đấy sao, gia tộc Âu Dương không phải là con người thực thụ, họ là một chủng loại khác”. “Không, những lời trong nhật ký không thể hoàn toàn tin tưởng, nhưng…” Tôi lại dồn ánh mắt về phía chiếc nhẫn ngọc, “Nhưng anh tin giả thuyết về chiếc nhẫn ngọc”. Tiểu Sảnh cũng nhìn chằm chằm vào chiếc nhẫn ngọc, ưu tư nói: “Nó đã từng đeo trên ngón tay của nữ vương cuối cùng Cổ Ngọc Quốc, khi nữ vương vì tình yêu mà chết, máu đã chảy lên chiếc nhẫn ngọc, vĩnh viễn không bao giờ lau được”. Tôi run rẩy sờ lên chiếc nhẫn, vệt đỏ đun, đây chính là máu tươi của nữ vương Lương Chử, đã hơn bốn nghìn năm rồi vậy mà vẫn tươi rói chói mắt. Nó đã ngưng đọng nỗi ai oán và đau khổ của nữ vương, sở hữu một sức mạnh thần bí, ít nhất cũng khiến mắt tôi nhìn xuyên thấu thời gian, nhìn thấy cảnh tượng của mấy chục năm về trước. Hơn năm mươi năm trước khi Nhược Vân mang thai cũng đã từng đeo chiếc nhẫn này, khi cô ấy sinh đứa bé ra thì chiếc nhẫn tự động rơi ra, vậy còn tôi thì sao? Sự việc tới ngày hôm nay, tôi gần như đã tuyệt vọng rồi. “Chiếc nhẫn ngọc này là thánh vật của gia tộc Âu Dương Hoang thôn, nhất định là của thần thánh không thể xâm phạm, giống như xác ướp Pharaông của Ai Cập cổ đại. Em đã từng nghe nói về ‘lời nguyền của Pharaông’ chưa? Vào đầu thế kỷ 20, khi các nhà khảo cổ học khai quật lăng mộ Tatankhamun của Ai Cập cổ đại, sau khi họ tiến vào mộ đạo của Pharaông thì nhìn thấy những văn tự cảnh báo họ, tất cả những ai vào trong lăng mộ đều sẽ phải chịu lời nguyền mà chết. Nhưng những nhà khảo cổ vẫn tiến hành khai quật xác ướp Pharaông, không ai ngờ được rằng chỉ trong vòng vài năm sau đó, tất cả những người tiến hành khai quật hoặc là từng nghiên cứu xác ướp Pharaông Tatankhamun đều đã chết một cách bí hiểm”. Tiểu Sảnh tròn xoe mắt nói: “Ý của anh là, bốn sinh viên tiến vào Hoang thôn lấy trộm đồ ngọc lên, hành vi của họ đã xúc phạm tới những điều cấm kị cổ xưa, thế nên họ đều đã cùng chung số phận khi gặp phải ‘lời nguyền của Pharaông’?” “Đúng, hai người trong đó không phải đã chết vì ác mộng sao? Lấy một ví dụ néh, ác mộng giống như một loại chương trình vi rút máy tính, một khi đã xâm nhập vào địa cung lấy trộm thánh vật rồi, thì sẽ bị lây nhiễm loại vi rút này, mấy hôm sau chương trình vi rút khởi động thì sẽ trở thành ác mộng giết người”. “Thật sự giống tiểu thuyết của anh sao?” Tôi chán nản lắc đầu, sắc mặt tôi dưới ánh nến nhất định là rất đáng sợ: “Nếu như những nội dung trong nhật ký đều là thật, vậy thì Âu Dương tiên sinh và con gái Tiểu Chi của ông ấy cũng chắc chắn đều là hậu duệ của vương tộc Lương Chử cổ xưa. Nhưng hiện giờ họ đều đã chết rồi, gia tộc Âu Dương sẽ không còn hậu duệ nữa, gia tộc cổ xưa kế tục năm nghìn năm này tới đây là kết thúc, không biết đối với chúng ta, đây là họa hay là phúc?” Vậy mà, hình như những lời của tôi đã chạm phải điều gì đó của Tiểu Sảnh, thần sắc của cô ấy biến đổi vô cùng dị thường, dưới ánh nến mờ ảo, dường như có gì đó lướt qua ánh mắt khiến lòng tôi sợ hãi. Nhưng cô ấy lảng tránh ánh mắt tôi, cuối cùng dứt khoát nhắm mắt lại, tôi cảm thấy người cô ấy càng lúc càng mềm nhũn ra, từ từ ngà ra chiếc giường gấp. Đã là ba giờ sáng rồi, tôi từ trước tới nay không có thói quen thức thâu đêm, lúc này cũng không thể trụ được nữa. Tôi muốn bỏ đi lên lầu, nhưng Tiểu Sảnh lại nắm chặt lấy tay tôi, tôi sợ đứng lên sẽ làm cô ấy tỉnh dậy nên đã nhẹ nhàng thổi nến. Tôi bật một chiếc đèn pin, nhắm mắt lại, muốn ngồi bên Tiểu Sảnh nghỉ ngơi một lúc… Nhưng không ngờ tôi ngồi thế này mà cũng ngủ say luôn, mãi tới tận khi ánh nắng buổi sáng rọi vào mí mắt, tôi mới từ từ tỉnh dậy. Đôi mắt mơ màng mở ra thì phát hiện Tiểu Sảnh vẫn đang ngủ say, hóa ra tôi đã ngủ một đêm mà không thay quần áo thế này. Tôi cảm thấy lòng bồn chồn, nếu như để cô ấy nhìn thấy thì sẽ khó ăn nói đây. Tôi nhẹ nhàng đứng dậy, vừa ra tới cửa thì nghe thấy giọng Tiểu Sảnh: “Anh đi đâu?” Tôi bối rối quay đầu lại: “Anh vừa mới vào”. “Không, anh vừa nãy còn nằm cạnh em”. Cô ấy nhìn xoáy vào mắt tôi, khiến tôi không sao giải thích nổi, cô ấy đứng dậy nắm lấy tay tôi hỏi: “Đêm qua anh không rời xa em, em rất cảm ơn anh”. “Xin lỗi, đêm qua anh thực sự quá mệt”. “Em cũng vậy”. Tiểu Sảnh lại nắm tay tôi ngồi xuống hỏi: “Nói cho em biết, anh rất hoảng sợ đúng không?” Tôi cụp mắt xuống, nhìn chiếc nhẫn ngọc trên tay mình nói: “Đúng, bốn sinh viên kia chính vì chiếc nhẫn ngọc này mà xảy ra chuyện, bây giờ nó đang đeo trên tay anh. Nhưng anh không biết vận xui của Hoang thôn rút cuộc có đổ xuống đầu mình không nữa?” “Không, sự hoảng sợ của anh là do nỗi cô đơn của anh, và em cũng giống anh. Chỉ có ở bên nhau, chúng ta mới có thể chiến thắng sự sợ hãi. Vì thế, anh không thể rời xa em”. Đúng, chỉ có những người cô đơn mới cảm thấy hoảng sợ, tôi đột nhiên cảm thấy có chút hy vọng nào đó, tôi nắm lấy tay cô ấy nói: “Tiểu Sảnh, anh mãi mãi sẽ không rời xa em”. Nước mắt cô ấy từ từ rơi xuống. Nửa tiếng sau, Tiểu Sảnh cùng tôi ra ngoài ăn sáng, sau đó cô ấy tới cửa hàng kem làm việc, còn tôi bắt buộc phải đi tìm một người, Diệp Tiêu. Lúc này, chỉ có anh ấy mới có khả năng giúp tôi. Tôi tới thẳng sở công an, tìm thấy anh họ cảnh sát Diệp Tiêu của mình. Anh ấy tỏ ra rất ngạc nhiên trước sự đột ngột ghé thăm của tôi, anh lôi tôi vào một góc khuất. Tôi không vòng vo, nói thẳng mục đích chuyến viếng thăm của mình: “Diệp Tiêu, em muốn tra hồ sơ vụ án của sở cảnh sát Thượng Hải cũ, xem xem có hồ sơ vụ án năm 1948 nào liên quan tới đường An Tức”. Diệp Tiêu nghĩ ngợi một lúc lâu, nói: “được, anh có thể giúp em, hy vọng em sớm thoát thân khỏi đó”. Chúng tôi cùng ăn bữa trưa, sau đó anh ấy đưat ôi tới tòa nhà lưu trữ hồ sơ vụ án, ở đây cất giữ những hồ sơ vụ án hình sự của Thượng Hải cũ. Diệp Tiêu đưat ôi tới phòng đọc hồ sơ, chỉ có kiểm tra mục lục không thôi là đã mất tới hai tiếng đồng hồ. Trải qua bao khó khăn vất vả, cuối cùng cũng đã tìm thấy tất cả hồ sơ vụ án liên quan tới đường An Tức. Chúng tôi lấy từ trong đó ra hồ sơ của năm 1948, năm đó những vụ án xảy ra tại đường An Tức không nhiều, rút cuộc cũng đã tìm ra hồ sơ của nhà số 13 đường An Tức. Năm đó quả nhiên xảy ra vụ án nghiêm trọng, với thói quen nghề nghiệp của cảnh sát, Diệp Tiêu cũng lập tức lấy lại tinh thần. Những hồ sơ này đều viết dày đặc kín mít, dùng mẫu công văn thời đó viết thành, tôi khó mà nhìn cái đã hiểu ngay. Xét duyệt hồ sơ từ trước tới nay vốn là sở trường của Diệp Tiêu, anh ấy thuần thục lật dở hồ sơ, xem từng trang ghi chép hiện trường, bút lục của sở cảnh sát và cả báo cáo vụ án. Tôi dứt khoát không xem hồ sơ nữa, chỉ nhìn sắc mặt Diệp Tiêu, phát hiện thần sắc anh ấy đang dần dần đanh lại. Mấy chục phút sau, Diệp Tiêu đột nhiên đóng hồ sơ lại, lạnh lùng nói: “Có lẽ là sai sót của anh, lúc đầu đáng ra phải kiểm tra hồ sơ vụ án này từ sớm”. Tôi sốt ruột hỏi: “Rút cuộc xảy ra chuyện gì?” “Ngày 1 tháng 10 năm Dân quốc 37, cũng tức là ngày 11 tháng 4 năm 1948, có người báo án với công an, tại nhà số 13 đường An Túc xảy ra một vụ án mạng, An Nhược Vân, con dâu nhà Âu Dương bị giết chết”. "Nhược Vân chết rồi?” Tôi ngạc nhiên tới nỗi suýt chút nữa nhảy khỏi ghế. Diệp Tiêu chậm rãi nói: “Đừng kích động, tối hôm đó cảnh sát đã tới ngay hiện trường xảy ra vụ án, trong căn phòng trên tầng hai số nhà 13 đường An Tức, phát hiện thi thể của An Nhược Vân, cô ấy bị đâm một nhát dao vào ngực, thủng tim chết ngay tại đó. Đứng cạnh xác nạn nhân là chồng của cô ấy, Âu Dương Thanh Viễn, khắp người anh ta đều là máu, trên tay đang ôm một đứa trẻ sơ sinh. Hung khí là một con dao găm sắc nhọn được tìm thấy trên sàn nhà. Lúc đó, bố mẹ chồng của nẹn nhân đều đã về que, những người giúp việc nghe thấy tiếng ồn ào trên gác vọng xuống mới chạy lên thì nhìn thấy vợ của thiếu gia gục trong vũng máu”. “Nhất định Âu Dương Thanh Viễn đã giết chết Nhược Vân”. "Tối đó, cảnh sát đưa Âu Dương Thanh Viễn về sở cảnh sát để hỏi cung, theo như những lời khai anh ta cung cấp cùng với kết quả điều tra tại hiện trường, về cơ bản có thể xác định tình hình lúc xảy ra vụ án. Lúc 9 giờ tối ngày 11 tháng 4, An Nhược Vân chuẩn bị li hôn với Âu Dương Thanh Viễn, cô ấy muốn bé con trai còn đang bọc trong tã rời khỏi nhà Âu Dương. Nhưng Âu Dương Thanh Viễn cản cô ấy lại, định nhốt cô ấy trong căn phòng trên tầng hai. Nhưng Nhược Vân đã hạ quyết tâm, cô ấy lấy một con dao găm ra, yêu cầu Âu Dương Thanh Viễn để đem mẹ con cô ấy bỏ đi. Âu Dương Thanh Viễn không chịu nhương bộ, anh ấy xông lên tước dao của An Nhược Vân, trong lúc hai người dằng co, An Nhược Vân đã bị dao dâm vào tim, chết ngay tại hiện trường”. Nghe xong tường thuật của Diệp Tiêu, tôi ngồi im giống con gà gỗ. Trong cái đêm cắt điện đó, tôi đã cùng Tiểu Sảnh nhìn thấy cảnh tượng này rồi, máu tươi bắn lên đó tôi mãi mãi sẽ không bao giờ có thể quen được. Diệp Tiêu tiếp tục nói: “Không lâu sau, Âu Dương Thanh Viễn với tội danh ngộ sát đã bị tuyên án mười năm tù giam, nhưng sau vài tháng bọ nhốt trong tù thì anh ta đã bạo bệnh mà chết”. "Bạo bệnh mà chết? Cũng có thể coi đó là một kiểu báo ứng?” "Hồ sơ ghe chép tới đây, sau đó do Quốc Dân đảng sắp bị lật đỏ, rất nhiều hồ sơ vụ án bị thất lạc rồi”. Tôi cúi đầu ngẫm nghĩ nói: “Nhược Vân thật là đáng thương, cô ấy muốn dành lấy tự do, rút cuộc lại chết trong chính tay chồng mình. Nhưng càng đáng thương hơn chính là con trai cô ấy, từ nhỏ đã mất mẹ. Em nghĩ đứa bé đó sau này chắc chắn được ông bà nội đón đi, quán trọ Hoang thôn xảy ra sự việc đáng sợ như thế, nên gia đình Âu Dương cũng không thể sống tiếp ở đó nữa. Họ nhất định rời khỏi Thượng Hải, đưa đứa trẻ về ngôi nhà cổ ở Hoang thôn”. Nghĩ tới đây, lòng tôi bất giác run bắn lên. Nếu như theo những dự đoán đó, con trai Gia Minh của Nhược Vân và Thanh Viễn không phải là Âu Dương tiên sinh mà tôi đã gặp ở Hoang thôn sao? Đúng vậy, Gia Minh sinh tháng 12 năm 1947, tới bây giờ vừa bằng với tuổi tác của Âu Dương tiên sinh. Và sau khi Thanh Viễn chết, Gia Minh chính là người kế tục duy nhất của gia tộc Âu Dương, bởi vậy không thể nào thêm một Âu Dương tiên sinh thứ hai. Lúc rời khỏi nơi lưu trữ hồ sơ, trời đã sầm tối, Diệp Tiêu lại kéo tôi đi ăn tối. Anh ấy còn nói với tôi, Xuân Vũ vẫn bị nhốt trong bệnh viện tâm thần, sác sỹ bảo cô ấy bị thần kinh phân liệt rất nặng, khả năng phải nhốt trong ấy cả đời. Còn về sinh viên mất tích Tô Thiên Bình, đến bây giờ vẫn không có bất cứ tin tức gì, sống chết không rõ, dường như đã biến mất trong không trung của Hoang thôn. Diệp Tiêu khuyên tôi không nên tới quán trọ Hoang thôn lần nữa, thực ra tôi cũng chịu hết nổi rồi, nhưng tôi đã hứa với Tiểu Sảnh, mãi mãi không rời xa cô ấy. Tám giờ tối, tôi vội vàng quay lại đường An Tức. Dưới lầu quán trọ Hoang thôn, tôi nhìn những tia sáng đang leo lắt trong căn phòng trên tầng hai. Tiểu Sảnh đã về rồi, tôi chạy nhanh lên lầu, ánh lửa soi hồng khuôn mặt trắng bệch của cô ấy. Ánh mắt thật kỳ quái của cô ấy khiến tôi sững sờ: “Em sao vậy?” Nhưng cô ấy không hề trả lời, mà giơ một vật trên tay lên. Bỗng chốc, một cái bóng dị dạng lướt qua trước mắt, tôi lập tức cảm thấy tim mình đập loạn xạ. Đúng, tôi rút cuộc đã nhìn rõ rồi, tay cô ấy đang cầm một chiếc sáo. Ánh nến nhỏ bó mù mờ lấp láy, soi sáng chiếc sáo trúc kiểu Trung Quốc. Nó dài khoảng bốn mươi xen ti mét, ống sáo sơn màu nâu vàng, trên miệng sáo có gắn những sợi dây màu tím đỏ, màng lỗ còn dán một lớp màng sáo mỏng như cánh ve. Tôi biết nó từ đâu tới. Tiểu Sảnh mím môi nói: “Ban nãy, lúc em dọn dẹp đồ đạc trong tủ thì phát hiện ra chiếc hộp anh giấu dưới đáy tủ, em tò mò mở chiếc hộp ra xem thì phát hiện ra bên trong là cây sáo này”. Sau đó, cô ấy nhẹ nhàng vuốt ve thanh sáo, đưa nó lên chạm vào má, giống như một người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Tôi run rẩy hỏi: “Em biết chiếc sáo này?” Nhưng Tiểu Sảnh không trả lời, cô ấy đặt chiếc sáo vào tay tôi. Thanh sáo lạnh toát nhường vậy, một cảm giác lạnh lẽo thấm sâu vào da tôi, dường như tôi lại đang cảm nhận được sự lạnh lẽo của đêm đông Hoang thôn. Tôi nhìn chằm chằm vào ngọn nến, trong ánh nến đang nhảy nhót đó hình như tôi nhìn thấy ánh sáng của ngọn đèn dầu trong Tiến Sỹ Đệ, nhìn thấy khuôn mặt gày gò trắng bệch của Âu Dương tiên sinh. Vậy là, chỉ trong vòng vài giây đồng hồ ngắn ngủi, tôi đã hồi tưởng lại tất cả những thứ đó. Đúng, đây là một đoạn kí ức bỏ sót, là kỷ niệm cuối cùng mà Hoang thôn để lại cho tôi. Được rồi, bây giờ đã là lúc nói ra rồi. Tôi hít một hơi thật sâu nói: “Tiểu Sảnh, chiếc sáo này đến từ Hoang thôn, là đích thân Âu Dương tiên sinh trao lại cho anh”. “Tại sao, tại sao ông ấy lại trao chiếc sáo này cho anh?” “Đó là chuyện đã vài tháng trước, khi anh quyết định phải rời khỏi Hoang thôn, lúc từ biệt Âu Dương tiên sinh tại Tiến Sỹ Đệ. Lúc đó, ông ấy bỗng chốc trở nên rất thương cảm, ông nói ông rất nhớ con gái Tiểu Chi của mình, lúc nào cũng hy vọng con gái trở về bên mình, ông có thể hy sinh mọi thứ vì điều đó. Đột nhiên, Âu Dương tiên sinh lấy từ trong ngăn kéo ra một chiếc sáo, đặt nó vào trong tay anh. Ông ấy nhờ anh mang chiếc sáo này quay về Thượng Hải tìm con gái Tiểu Sảnh của ông. Tiểu Chi chỉ cần nhìn thấy chiếc sáo này là sẽ nhớ tới cha của mình, và sẽ trở về cố hương Hoang thôn”. Nói xong những câu này, tôi thở một hơi thật dài, giống như đã nhả ra tảng đá cuối cùng ẩn giấu trong lòng. Vậy mà, ánh mắt Tiểu Sảnh dưới chính giữa ngọn nến lại hiện ra càng thêm dị dạng: “Anh tìm thấy Tiểu Chi không?” “Hình như anh đã nói với em rồi, anh đã tìm thấy trường đại học của Tiểu Chi, họ nói với anh Tiểu Chi đã chết hơn một năm trước do một tai nạn đường sắt. Anh cảm thấy rất đau lòng nên đã cất giữ lại chiếc sáo này, luôn để nó dưới đáy thùng, không hiểu tại sao lại đem nó tới đây”. Tức khắc, ánh mắt Tiểu Sảnh lóe lên tia sáng lạnh lẽo khiến tôi cảm thấy lạnh rúm, cô ấy lạnh lùng hỏi: “Anh có biết thổi sáo không?” Sau khi chững lại một lúc, tôi hít một hơi thật sâu, ngẫm nghĩ trước trong lòng vài giây rồi đưa chiếc sáo lên môi. Phút chốc, thanh sáo đã cất lên giai điệu: “Ở nơi xa xăm đó”, những nốt nhạc chậm rãi bay bổng bay lượn trong căn phòng nhỏ hẹp, chẳng mấy chốc lan tỏa ngập tràn cả quán trọ Hoang thôn. Tiếng sáo trong đêm tối đã kích động Tiểu Sảnh, đôi mắt mở to của cô ấy không còn lộ ra sự kinh ngạc, mà lại ngập tràn ánh mắt bi thương, hình như tiếng sáo đang thổ lộ hết cho cô ấy nghe về câu chuyện đau lòng nào đó. Tôi nghĩ tiếng sáo này nhất định đang bay lên không trung trong màn đêm, bay qua bãi hoang phế xung quanh đây, vang vọng tới một nơi xa xăm nào đó, không biết Hoang thôn cách đây mấy trăm cây số có thể nghe thấy không nữa? Khi giai điệu kết thúc, tôi đã mệt mỏi rã rời, cả thân xác và linh hồn đều đã chìm trong tiếng sao, mãi lâu sau mới lấy lại tinh thần. Con Tiểu Sảnh cũng nhắm mắt lại, hình như tiếng sáo đã chạm vào sợi dây đàn bí ẩn nhất trong lòng cô ấy. Tôi buông chiếc sáo xuống, nhẹ nhàng vịn lên vai cô ấy nói: “Em sao vậy? Mở mắt ra nào?” Đôi môi Tiểu Sảnh run rẩy, hình như linh hồn đã theo tiếng sao bay khỏi thân xác. Rút cuộc, cô ấy từ từ mở mắt, ánh mắt u sầu nhìn thẳng tôi, dáng vẻ này khiến tim tôi lại loạn nhịp. “Em biết Tiểu Chi”. Cô ấy thốt ra câu này bằng giọng nói từ đáy cổ họng. Phút chốc, tôi giống như bị câu nói này đánh trúng vậy, lập tức lắc đầu nói: “Không thể, em không thể quen Tiểu Chi được, không phải cô ấy đã chết từ lâu rồi sao?” “Không, Tiểu Chi không chết”. Ánh mắt Tiểu Sảnh trở nên vô cùng kinh ngạc, nhưng ngữ khí lại bình tĩnh tới nỗi khiến người ta sợ hãi, “Cô ấy vẫn đang sống, sống trong ga tàu điện ngầm”. "Tiểu Chi sống trong ga tàu điện ngầm? Không, cô ấy chết trong ga tàu điện ngầm”. Ánh nến lại lay động một hồi, sắc mặt Tiểu Sảnh càng trở nên trắng bệch, cộng thêm đôi mắt với ánh nhìn kỳ lạ rõ ràng là đã biến thành một con người khác. Cô ấy nhìn thẳng vào mắt tôi, buồn rầu nói: “Anh vẫn không hiểu sao? Tiểu Chi không thể chết được, cô ấy vẫn sống trong tao tàu điện ngầm, cô ấy mặc một chiếc vày dài màu trắng, để mái tóc xõa ngang vai, những sợi tóc tỏa ra hương thơm dịu mát. Cô ấy có lúc kéo tay vịn, đứng ở chỗ cạnh cửa sổ, khi tàu điện xuyên qua những đường hầm tối đen, ánh sáng êm dịu trong toa tàu vương trên mặt cô ấy, khuôn mặt trắng nõn sẽ in lên cửa sổ toa tàu. Lúc đó, chỉ trừ bản thân Tiểu Chi ra, không có ai chú ý tới sự tồn tại của khuôn mặt đó. Cô ấy chằm chằm nhìn vào khuôn mặt mình, lúc ẩn lúc hiện trên cửa sổ, đôi mắt đó, đôi môi đó đều thật quyến rũ, giống như nhân vật chính trong truyện Liêu Trai bước ra vậy”. Tôi run rẩy nghe những lời nói của Tiểu Sảnh, từng cảnh tượng mà cô ấy miêu tả dường như đang hiện lên trước mắt tôi. Tôi bỗng chốc cảm thấy tất cả những thứ này đều giống nhau đền nhường vậy, hình như tôi cũng đã từng trải qua cái trải nghiệm kỳ lạ đó. Đúng, lúc tôi đứng trong toa tàu điện ngầm. Tiểu Chi đã đứng sau lưng tôi, cô ấy lặng lẽ nhìn khuôn mặt in trên cửa sổ tàu, lúc thì khuôn mặt tôi, lúc lại là khuôn mặt cô ấy, giống như một giấc mộng… “Đừng nói nữa…” Tôi tức khắc ngắt lời cô ấy. “Không, để em nói tiếp”. Tiểu Sảnh dường như mất đi thần trí, hoàn toàn chìm đắm trong trạng thái bị thôi miên, dường như hồi ức đã trở thành ham muốn duy nhất của cô ấy, “Tiểu Chi vẫn luôn ở trong toa tàu điện, đứng thẳng, đi lại, chờ đợi… Cô ấy đang chờ đợi ai? Đúng, có lúc cô ấy phát hiện ra sự tồn tại của người đó, người thanh niên trẻ tuổi đang đứng trước cô ấy, cụp mí mắt nhìn vào bóng mình trên cửa sổ. Anh ấy xem ra có chút mỏi mệt, hoặc là do đêm qua vẫn chưa hoàn thành xong tiểu thuyết khiến anh ấy ưu phiền. Có lúc ánh mắt anh ấy chạm vào ánh mắt Tiểu Chi, nhưng anh ấy không nhìn thấy Tiểu Chi, họ thậm chí mặt đối mặt trong toa tàu rồi, mắt chỉ cách nhau vài mi li mét. Đáng tiếc, anh ấy vẫn không nhìn thấy Tiểu Chi, nhưng Tiểu Chi đã yêu anh ấy từ ánh mắt đó”. "Người đó là ai?” Tôi đã mơ hồ đoán ra rồi nhưng không dám để mình tin vào điều đó. Nhưng Tiểu Sảnh đã không nghe thấy tiếng tôi nữa rồi, cô ấy tự mình lẩm bẩm tiếp tục nói: “Dưới ga tàu điện ngầm tối tăm không có ban ngày, Tiểu Chi luôn luôn đi theo người thanh niên đó, anh ta ngồi tới trạm nào, cô ấy cũng tới trạm đó. Có lúc cô ấy cũng theo anh ta bước ra ngoài toa tàu, đi đi lại lại trên sân ga vắng tanh. Anh ta thích tới một hiệu sách trong nhà ga, và cô ấy cũng bước theo anh ấy vào hiệu sách. Trong hiệu sách có bày những cuốn sách của người thanh niên này viết, anh ta thường tới xem sách của mình bán thế nào. Còn cô ấy cũng sẽ đi dạo giữa những giá sách, trong lúc chung quanh không có ai, âm thầm lật dở sách của anh ấy. Khi đêm tối, sau khi nhà ga ngừng vận hành, hiệu sách đóng cửa, cô ấy sẽ một mình ở lại trước giá sách, thâu đêm đọc tiểu thuyết của anh ấy viết. Bao nhiêu đêm như vậy qua đi, Tiểu Chi đã cảm động vì những câu chữ của anh ấy, có lúc còn âm thầm rơi nước mắt, lưu lại giọt nước mắt đỏ loang trên bìa sách”. Vào đêm mùa hè thê lương này, trong căn phòng run rẩy ánh nến phập phồng, Tiểu Sảnh uyển chuyển thuật lại câu chuyện đau buồn, cô ấy dường như bị linh hồn nào đó chiếm hữu một nữa. Nước mắt lặng lẽ rơi xuống gò má Tiểu Sảnh, dưới ánh nến lấp láy, cô ấy ngậm những giọt lệ nói: “Cho mại tới tận một hôm, trong hiệu sách gần ga tàu điện ngầm, cô ấy nhìn thấy truyện ngắn của anh ấy đăng trên tạp chí ‘Chồi non’, đó là truyện ngắn về Hoang thôn, nam nhân vật chính yêu say đắm u hồn Tiểu Chi. Tuy đó chỉ là một câu chuyện hư cấu nhưng tận đáy lòng Tiểu Chi vẫn cảm thấy đau buồn, dường như cô ấy ngày ngày đều có thể nhìn thấy anh ấy, còn anh thì lại chỉ có thể tìm thấy ảo ảnh của đối phương trong truyện. Không, Tiểu Chi nhất định phải để anh ấy nhìn thấy mình, khiến tình cảm của anh ấy trong câu chuyện hư cấu trở thành tình yêu trong hiện thức”. Giây phút này, Tiểu Sảnh đã khiến tôi cảm động sâu sắc, tôi đã không kìm nén được hỏi: “Anh ta có gặp được Tiểu Chi không?” Tiểu Sảnh bỗng nhiên tròn xoe mắt, cô ấy nhìn tôi nói: “Đường nhìn, anh ấy đương nhiên gặp Tiểu Chi rồi, thậm chí họ còn yêu nhau nữa”. Trầm mặc, tôi chìm đắm trong suy tư dưới ánh nến hồi lâu. Không, tôi không dám tin những gì cô ấy vừa nói, đó rút cuộc là hoang tưởng của Tiểu Sảnh hay thực sự là linh hồn đang kể lại? Tôi từ từ đưa tay ra lau nước mắt trên mặt cô ấy, nước mắt cô ấy ấm nóng nhường vậy, nếu như rớt vào miệng chắc chắn sẽ mặn chát. Tiểu Sảnh rút cuộc nhắm mắt lại, toàn thân giống như co rúm lại đổ ra giương, miệng lẩm bẩm nói: “Xin lỗi… xin lỗi…” Tôi cũng không gắng gượng được nữa ngả ra giường, bên tai vẫn văng vẳng những lời của Tiểu Sảnh. Sau đó, tôi thổi tắt nến, lên tầng ba đi ngủ. Đêm nay, tôi rút cuộc đã mơ thấy Tiểu Chi.