Trong chương này tôi chép lại ít hồi kí một số người nhờ cái duyên văn tự tôi được gặp trên đường đời, có người thân như ruột thịt, hơn ruột thịt nữa; có người chỉ gặp một lần hoặc chưa gặp lần nào; có người tánh tình trái ngược hẳn với tôi, nhưng vẫn có điểm cảm thông với nhau. BẠN VĂN Trước hết tôi phải kể ba bạn thân: Đông Hồ, Hư Chu, Giản Chi. Đông Hồ, Giản Chi lớn hơn tôi, mười năm tuổi, người sáu tuổi, Hư Chu nhỏ hơn tôi mười tuổi. Đông Hồ là người Nam (sinh trưởng ở Hà Tiên) nhưng từ gia phong đến giáo dục, bút pháp đều giống nhà Nho đất Bắc, còn Hư Chu và Giản Chi đều là người Bắc. Cả ba bạn đó đều biết chữ Hán, đều giữ được ít nhiều phong cách nhà Nho. Bốn anh em tôi giao du với nhau, tình “đạm nhực thuỷ” tuy thắm thiết mà không vồn vã, ồn ào. Mới quen thì chỉ kính nhau thôi, lần lần càng hiểu nhau thì càng quí mến nhau hơn, mặc dầu có khi vài tháng mới lại thăm nhau một lần. Gặp nhau chúng tôi nói chuyện về văn thơ nhiều nhất, rất ít khi tâm sự về chuyện riêng. Mỗi người có một lối sống riêng, những sở thích riêng, chúng tôi biết tôn trọng những cái đó của nhau. Nếu thấy thật cần phải khuyên nhau một lời thì chỉ nói phớt qua, mà nếu bạn không đồng ý với mình thì thôi. Tôi nghĩ: Miễn thành thực với nhau và giữ được tư cách là đủ, ngoài ra không cần biết tới. ĐÔNG HỒ Trong những chương trên tôi đã nhắc nhiều đến Đông Hồ, đã kể lần đầu tiên tới gặp ông ở Yiễm Yiễm thư trang một buỗi chiều đông khi tôi mới ở Long Xuyên lên Sài Gòn, kể những lần họp cuối năm ở Quỳnh Lâm thư thất, kể ông tặng tôi hai gốc Hoàng lan khi tôi mua được nhà mới, tôi tặng hai hoa lan đầu tiên chín bói… Ông mất ngày 25.3.1969 thọ 63 tuổi. Cái chết của ông thật đẹp: đương ngâm thơ về Trưng vương của Ngân Giang[1] ở giảng đường Văn khoa thì đứt gân máu, té xỉu trong cánh tay sinh viên, hôn mê, đưa lại dưỡng đường rồi về nhà, bảy giờ tối tắt thở. Sáng hôm sau hay tin, Đông Xuyên và tôi (Giản Chi lúc đó dạy học ở Huế) tới, thấy nét mặt ông hồng hào và tươi. Xúc động mạnh, về nhà tôi viết ngay bài Khóc bác Đông Hồ mà nước mắt trào ra. Bài đó đăng kịp trên báo Bách Khoa số 1.4.69. Sau đó, tôi viết bốn bài nữa về ông: Thi sĩ Đông Hồ và nhà Ngô (Tin Văn – 1969), tựa Úc viên thi thoại (1969), Hồn Đại Việt giọng Hàn Thuyên (1970), Họ Mạc và họ Lâm (1971). Tất cả những bài đó đều nhắc tới sự nghiệp văn thơ của ông, và được giới thiệu trong những chương trên, nên tôi không chép lại. Ông coi tất cả gia đình tôi như người trong nhà. Tôi ham viết mà lại thường đau, ông cũng yếu, nhà chúng tôi xa nhau, nên lâu lâu mới gặp nhau. Ông viết được bài nào đắc ý thì lựa hai bản in riêng, đích thân ông sữa lỗi in rồi đóng lại thành tập mỏng, trân trọng đề tặng, đóng dấu son “Đông Thuỷ cổ nguyệt” (tức Đông Hồ: chữ Hồ gồm ba chữ thuỷ, cổ và nguyệt), rồi gởi cho tôi hai bản, một bản để vào tủ sách ở Long Xuyên, một để tủ sách Sài Gòn. Đọc văn tôi thấy cuốn nào, bài nào vừa ý thì ông lại thăm tôi hoặc viết thư khen vài lời chân thành, chẳng hạn bảo cuốn Sống đẹp của tôi “dịch như vậy là hay”, nhớ lại bài Hương và sắc, ông bảo: “Sao và dầu là hai cây đặc biệt ở miền Nam, mà trong này không nhà văn nào để ý tới, chỉ có bác và Võ Phiến: người ở Bắc, người ở Trung, là tả cái hương của sao và cảnh hột dầu bay lả tả”; lần khác ông cũng khen tôi và Võ Phiến nữa: “Viết tuỳ bút thì Võ Phiến nhất miền Nam này, mà biên khảo thì không ai hơn bác”. Nhưng cũng có trường hợp ông làm một bài thơ khá dài để khen một tác phẩm, như bộ Đại cương triết học Trung Quốc. Bài đó bằng chữ Hán, tôi còn giữ, không chép lại đây. Ông cho tôi là tri kỉ của ông khi tôi bảo ông có truyền thống nhà Nho, chỉ thích dạy học (lúc đó ông dạy ở Văn khoa Sài Gòn), truyền lòng yêu tiếng Việt cho những thánh niên tuấn tú; tôi cũng nhận ông là tri kỉ của tôi khi ông nghe tin đồn người ta mời dạy đại học Văn khoa Sài Gòn, vội vàng sáng sớm từ trong Gia Định lại đường Kì Đồng để khuyên tôi đừng nhận vì mất thì giờ lắm, “thì giờ của bác quí hơn của tôi nhiều”. Biết tôi đau bao tử, nên khi nào mời tôi dự tiệc, cũng bảo người nhà làm món xôi cho tôi, lễ thành hôn cho cháu Yiễm Yiễm, con gái út của ông, trong số bạn văn ông bà chỉ mời vợ chồng tôi lại dự tiệc đưa dâu, còn tiệc đãi bạn bè, họ hàng ở khách sạn thì biết tôi không ưa náo nhiệt, nên không ép. Ông kính bác ba tôi ở Tân Thạnh cũng như kính bác ruột ông, biết bác tôi ở Đông Kinh nghĩa thục và có hai đứa con, Tân Phương và Việt Châu, là nhà thơ khá có tiếng ở Nam, nên ân hận không có dịp gặp bác tôi. Cảm động nhất như tôi đã nói là mỗi lần lại thăm tôi ông đốt một cây nhang ở bàn thờ song thân tôi rồi mới ngồi nói chuyện. Ông Nguyễn Hữu Ngư cũng đốt nhang, quì trước bàn thờ cha tôi vì cha tôi và thân phụ ông cùng sinh năm Đinh Hợi (1887) và cùng theo phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Từ năm 1963, nhất là mấy năm trước khi mất, Đông Hồ và tôi thường thư từ với nhau. Ông nhờ tôi kèm thêm Pháp văn và toán cho cháu ngoại ông, cháu Quỳnh Lâm, thành thử thư đi thư lại rất tiện. Ông là nhà văn tôi giữ được nhiều bức thư quí nhất, có bức cảm động như bức ông sám hối với Bá phụ ông, tôi đã cho in trong tập Làm con nên nhớ, có bức dài mươi trang như bức thư đề ngày 19.3.64 dùng năm màu giấy, trong đó ông cho biết cách ông cấu từ bài Trường Xuân hành (Bức thư đó là một tài liệu đáng lưu lại trong Văn học sử Việt Nam, quí như bài Quách Tấn kể mình đã làm bài Đêm thu nghe quạ kêu trong trường hợp nào, lựa chữ, dùng điển ra sao[2]. Ngày 27 Tết năm đó (Giáp Thìn – 1964) ông tặng tôi một cành Mai bông trắng rất thơm đem từ núi Tô Châu (Hà Tiên) lên[3], rồi nghĩ liền hai câu: Một cành Xuân gởi niềm trân trọng Sứ dịch trao tay mở nẻo đường. [4] Ông tính làm thêm sáu câu nữa thành một bài thơ luật, nhưng bận dọn dẹp nhà để ăn Tết, không làm được. Tối ba mươi Tết ông sực nhớ năm đó Yiễm Yiễm thư trang được đúng 15 tuổi, bèn dùng ý đó nghĩ thêm bốn câu nữa. Sau mồng một Tết, ông nghĩ thêm được hai câu nữa thành bài thơ khai bút tám câu. Rồi ông trở lại ý hoa mai ở đầu, được bốn câu, thành 12 câu. Đã có 12 câu thì phải làm thêm thành một bài hành. Bẵng đi ba tuần mải vẽ hoa mai, ông quên bài thơ dở dang đó. Ngày 24 tháng giêng (8.3.64), ông nhận được thư của tôi cho hay cành mai ông cho tôi đã tàn vào một ngày đầu năm rồi lại đăm nụ, nở nữa, thành “nhị độ mai”, ông mừng làm tiếp sáu câu về nhị độ mai. Chiều tối hôm đó, người nhà và học sinh cũ làm lễ sinh nhật ông. Ông vui, làm thêm sáu câu nữa, thành 4 đoạn, mỗi đoạn sáu câu, với hai câu kết: Gió lộng non trầm dâng khói hạc Vương đình trăng dọi chén quỳnh tương. Hơn một tháng s (chưa xuất bản)[4]. - Ngữ pháp, tôi viết chung với Trương Văn Chình thêm cuốn Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam. - Lịch sử, thêm Đông kinh nghĩa thục, Bài học Israël, Bán đảo Ả Rập và dịch năm cuốn trong bộ Lịch sử văn minh của Will Durant. Mặt khác, tôi bước vào vài khu vực mới: - Triết học Trung Quốc: Mới đầu chỉ là một cuốn mỏng: Nho giáo, một triết lí chính trị; sau nhờ duyên văn tự và cũng nhờ Hiệp định Genève tôi được gặp ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn; lại nhờ ông bạn ở Pháp, ông Tạ Trọng Hiệp tìm kiếm cho tài liệu ngoại quốc, tôi tiến sâu vào khu vực đó, tới đầu năm 1975 đã xuất bản được bộ Đại cương triết học Trung Quốc 2 cuốn (chung với Giản Chi), Nhà giáo họ Khổng, Liệt Tử và Dương Tử, Mạnh Tử và tới nay (1980) tôi có thêm được bảy tám bộ nữa về các triết gia thời Tiên Tần: Tuân Tử, Hàn Phi (cả hai viết chung với Giản Chi), Mặc Tử, Lão Tử, Trang Tử, Khổng Tử, Luận Ngữ, Kinh Dịch (tất cả đều chưa xuất bản)[5]. - Tôi xông cả vào khu Chính trị, kinh tế: Một niềm tin, Xung đột trong đời sống quốc tế... - Thấy tiểu thuyết hay, tôi cũng dịch, một phần do ý muốn của tôi, một phần do lời yêu cầu của vài nhà xuất bản: Lá Bối, Ca Dao, Trí Đăng, như bộ: Chiến tranh và Hoà bình, Khóc lên đi, ôi quê hương yêu dấu…[6] - Ngoài ra từ 1957, tôi còn viết đều đều mỗi tháng một hay hai bài báo cho các tạp chí định kỳ Bách Khoa (nhiều nhất), Mai, Tin Văn… và mỗi năm trung bình viết một bài Tựa cho một tác phẩm của một bạn văn. Tính sổ lại trong hai chục năm hoạt động, tôi đã cho ra được: - Khoảng chín chục nhan đề, cộng với những nhan đề đã xuất bản trước 1955, được chẳn một trăm, với bốn nhan đề chỉ là một tập mỏng vài chục trang (loại Bông hồng cài áo của nhà Lá Bối) nhưng cũng có 7-8 nhan đề gồm 2, 3, 4 cuốn, từ 400 đến hơn hai ngàn trang, đa số từ 200-300 trang. - Viết được trên mười tác phẩm chưa xuất bản, mỗi cuốn từ hai đến năm trăm trang, có nhiều cuốn về triết học Trung Hoa thời Tiên Tần.[7] - Viết khoảng 250 bài báo mà một nửa in thành sách, một nửa không. - Và viết giúp bạn trên 20 bài Tựa, đa số cho loại biên khảo, một số ít cho loại thơ và tuỳ bút.
Bao nhiêu nỗi khổ của con người trước Thế chiến thứ nhất, đã được Maugham tả hết, không sót. Truyện có tính cách hợp nhân tình kì lạ, đến nỗi tôi tưởng đổi tên người và tên đất đi, thì có thể thành một tiểu thuyết Việt Nam thời 1920-30. Nhiều nhân vật điển hình như Philip, Mildred, Altheny, Norah, bác sĩ South… Văn rất giản dị, giọng chua chát, có khi dí dỏm, cảnh vật chỉ tả bằng vài nét đơn sơ mà gợi cảm. Bút pháp tự nhiên, điêu luyện tới mức không còn vết điêu luyện. Tác giả không thuyết lí, không dạy đời, mà gợi cho tôi lòng tha thứ kẻ khác, rán yêu đời, hy vọng ở tương lai, tìm hạnh phúc trong một tình thương chân thành và một đời sống giản dị. Triết lí đó rất Á đông. Lần đầu đọc xong tác phẩm, gấp sách lại rồi mà hai ba ngày sau tôi còn thấy một dư âm ở trong lòng, nửa vui nửa buồn, triền miên, bồi hồi. Một bà láng giềng đọc xong chạy qua bảo: “Hay quá”. Cuốn đó tôi dịch xong từ 1961, đưa cho nhà Khai Trí, họ không nhận, tôi cất đi, đợi cơ hội khác. Năm 1962, ông Paulus Hiếu, tôi quen từ hồi ở Long Xuyên, lúc này đã đổi tên là Ngô Trọng Hiếu, làm bộ trưởng Công dân vụ. Ông từ trước vẫn thích văn chương, đã giúp đỡ vài nhà thơ như Vũ Hoàng Chương, Hư Chu, và đã bỏ vốn xuất bản cho tôi cuốn Tổ chức công việc theo khoa học. Ông mời một số nhà văn có tên tuổi lại bộ, yêu cầu họ dịch cho một số tác phẩm có giá trị cho thanh niên đọc. Tôi không tới dự buổi họp, nhưng vì tình cũ, tôi hứa giúp; nhân có bản thảo Kiếp người, tôi đưa ông, ông cho in liền, cuối 1962 hay đầu 1963 phát hành, giá rẽ mà không ai mua, gần như chỉ để phát không. Đầu năm 1967, bốn năm sau, tôi tưởng sách đã bán hết, đưa nhà Lá Bối tái bản, thì sách bán rất chạy. Thầy Từ Mẫn nói với tôi: - Ngày phát hành tôi ngại quá. Các nhà sách bảo tôi cuốn đó ế, bản in của Tủ sách Thanh niên Cộng hoà vẫn còn. Nhưng ít tuần sau, tôi thấy sách bán chạy. (Thì ra cái gì của chính quyền thời đó in, dân chúng đều không đọc, của mình in thì đọc. Bản của chính quyền bày ở vỉa hè, giá son có 50đ mà không ai mua, người ta tìm mua bản của nhà Lá Bối (giá 200 hay 250đ). Năm 1974, Kiếp người được nhà Lửa Thiêng in lại một lần nữa. Lần đó có sửa chữa vài chỗ[26]. - Chiếc cầu trên sông Drina[27] Năm 1971, ông Giám đốc nhà xuất bản Trí Đăng, một giáo sư trung học còn trẻ nhờ tôi dịch cho một tiểu thuyết. Tôi đề nghị cuốn Il est un point sur la Drina của nhà văn Nam Tư Ivo Andritch. Cuốn này cũng hay. Kỷ thuật mới mẻ. Lịch sử trên 300 năm của Nam Tư được kể thành 24 truyện trong 24 chương, chuyện nào cũng liên quan đến một chiếc cầu đá xây cất từ thế kỉ XVI trên sông Drina. Truyện rất hấp dẫn, phân tích tâm lí rất sâu sắc, nhiều nhân vật điển hình, giọng văn khi thì hùng, khi thì hài hước, lắm chỗ nên thơ, triết lý nhẹ nhàng.Ông Trí Đăng sau năm 1975, qua Mĩ, trước khi đi có lại chào tôi, tới Mỹ có gởi lời thăm tôi, hiện nay ông làm cho nhà in Việt ở Los Angeles. - Trước đó, năm 1969, ông Hoài Khanh, thi sĩ kiêm Giám đốc nhà xuất bản Ca Dao, ít vốn nhưng nhiều nhiệt tình, có lí tưởng, muốn lập một tủ sách “Phi châu và Da đen”, nhờ thầy Từ Mẫn giới thiệu với tôi để yêu cầu tôi dịch cho cuốn Cry, my beloved country của Alan Paton, đưa cho tôi bản Pháp dịch của nhà Albin Michel: Pleure, ô pays bien aimé. Tôi đọc thấy cảm động, tác giả có lòng thương dân da đen và có hồn thơ nên tôi nhận lời. Tôi dịch rất kĩ, nhan đề là Khóc lên đi, ôi quê hương yêu dấu, rán theo sát cái giọng chất phác của các nhân vật da đen, lại kiếm tài liệu để viết bài Tựa dài 25 trang giới thiệu tác giả và tác phẩm, vạch chính sách vô nhân đạo của thực dân da trắng ở Nam Phi. Sách bán chạy, được một số độc giả khen là dịch khéo. - Sau tôi còn dịch cho nhà Ca Dao cuốn Things fall apart (Quê hương tan rã) của một tác giả da đen: Chinua Achebe. Ông Hoài Khanh tặng tôi một gốc ngọc lan để thay gốc Nguyễn Hữu Ngư cho tôi mười năm trước, vì trốc rễ trong cơn giông mà chết. Sau ngày giải phóng ông lại thăm tôi một hai lần, mấy năm nay không có tin tức. °
BÁO TÔI HỢP TÁC Hiệp định Genève kí năm 1954 thì năm 1955 thi sĩ Bàng Bá Lân mà tôi biết danh từ lâu, di cư vào Sài Gòn kiếm được một căn nhà trong ngõ hẻm gần khu tôi ở, lại làm quen với tôi. Ông sở dĩ biết tôi vì ở Bắc đã đọc cuốn Luyện văn, trong đó tôi trích dẫn vài câu thơ của ông. Ông làm chủ nhiệm tờ Bông lúa, do chính phủ tài trợ, mỗi tháng ra một số dày dăm bảy chục trang, khổ nhỏ. Bài vở hầu hết là của ông, ông nhờ vài bạn văn tiếp tay. Nhân có một số tiểu luận và kịch bản đã dịch sẵn từ tiếng Anh và tiếng Pháp, tôi vị tình đưa ông đăng, hoàn toàn là giúp ông. Năm 1956, tờ đó đình bản, số cuối đăng trọn bản dịch kịch Công ty Lạc sinh của tôi. Tờ đó bán rất ít, gần như không ai biết. BÁCH KHOA Năm 1957, tạp chí Bách Khoa ra được hai số thì nhà văn Nguyễn Hữu Ngư (Ngu Í) dắt bà Phạm Ngọc Thảo lại giới thiệu với tôi để nhờ tôi viết giúp tờ Bách Khoa mà chồng bà có chân trong toà soạn, hoặc ít ra cũng là cộng tác viên. Tôi không hề quen ông bà Thảo, chỉ do Nguyễn Hữu Ngư mà biết bà là em ruột giáo sư Phạm Thiều hồi đó đã tập kết ra Bắc, còn ông là một nhân viên khá quan trọng trong kháng chiến miền Nam. Tôi cũng không biết người sáng lập tờ Bách Khoa là ai, toà soạn gồm những ai, chỉ thấy bà Thảo nhã nhăn, có học thức, mà tạp chí đó bài vở cũng đứng đắn, nên tôi góp với họ bài Quan niệm sáng tác của Edgar Poe, bài The Raven mà tôi đã viết từ trước, chưa có dịp dùng tới. Bài đó được đăng ngay trong số 4 (Tạp chí ra mỗi tháng 2 kỳ). Tiếp theo, tôi cũng gởi cho họ ba bài nữa cũng về văn học, bài Tiếng Việt ngày nay, Vấn đề dịch văn, Phép dịch thơ, cũng được toà soạn cho đăng ngay trên các số 5, 6, 7, 8. Từ đó, lâu lâu tôi gởi thêm một bài về Nho giáo, về danh nhân hay về văn học…, toàn là do bà Thảo hay ông Ngư làm trung gian, chứ tôi vẫn chưa lại toà soạn. Hợp tác với báo nào tôi vẫn giữ tư cách một độc giả góp bài chứ không dự gì vào đường lối, công việc của toà soạn. Tôi không nhớ mấy tháng sau, có dịp đi qua số 160 đường Phan Đình Phùng[8] mới ghé toà soạn Bách Khoa cách nhà tôi khoảng một cây số gặp ông Hoàng Minh Tuynh và vài anh em nữa. Tôi cũng không nhớ bao lâu sau tôi mới gặp ông Phạm Ngọc Thảo[9], một người thấp nhỏ, rất hoạt động, hoạt bát, có tư tưởng tiến bộ, viết một số bài về quân sự, ý kiến xác đáng, tỏ ra có kinh nghiệm và biết suy nghĩ. Hai ông Tuynh và Thảo có vẻ quí tôi cả. Từ đó tôi hợp tác đều đều cho tới khi đình bản, tháng 5 năm 1975. Trong lịch sử báo chí của nước nhà, tờ Bách Khoa có một địa vị đặc biệt. Không nhận trợ cấp của chính quyền, không ủng hộ chính quyền mà sống được mười tám năm, từ 1957 đến 1975, bằng tờ Nam Phong, có uy tín, tập hợp được nhiều cây bút giá trị như Nam Phong, trước sau các cộng tác viên được khoảng một trăm. Mới đầu chỉ là một nhóm công chức cao cấp nghiên cứu về kinh tế, tài chính, quân sự do Huỳnh Văn Lang thành lập. Họ xin được nhãn báo (manchette) của tờ Bách Khoa bình dân đã chết từ số 2, cắt hai chữ “bình dân” đi; rồi hùn nhau để tục bản. Họ đa số là những người đã tham gia kháng chiến chống Pháp trở về, không hoạt động cho kháng chiến nữa, mặc dầu là công chức nhưng không ưa Pháp. Năm đầu, đăng nhiều bài về kinh tế và một số bài về công giáo, nên có tính chất nặng nề, nhưng báo sống nổi: nhờ chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang làm giám đốc Viện Hối đoái, tờ báo thu được nhiều quảng cáo. Đến năm 1959, một phần nhờ ông Lê Ngộ Châu, có hồi theo kháng chiến rồi về Hà Nội dạy ở một trường trung học tư, được Huỳnh Văn Lang giao cho nhiệm vụ tựa như thư kí toà soạn, mà tờ báo khởi sắc, có một đường lối rõ rệt, đường lối thứ ba, không theo Cộng mà cũng không theo Mĩ, và tập hợp được một số cây bút có kinh nghiệm làm nồng cốt như Võ Phiến, Vũ Hạnh, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, Võ Hồng, Bình Nguyên Lộc. Khi báo có uy tín rồi (từ 1960 trở đi) ông Châu tập hợp thêm một số cây viết trẻ, từ đó báo đăng nhiều bài có giá trị cả về biên khảo, lẫn sáng tác, và chính nhờ hợp tác với Bách Khoa mà những cây viết đó nổi tiếng như: Vũ Hạnh, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Cô Liêu, Ngu Í, Phạm Việt Châu, Phan Văn Tạo, Đoàn Thêm (hai người sau là nhân viên cao cấp trong chính quyền Ngô Đình Diệm)…, nhất là các nữ tiểu thuyết gia Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Thuỵ Vũ, Tuý Hồng… Ngu Í chuyên về phỏng vấn, từng trải, có nhiều nhiệt tâm, văn có duyên. Võ Phiến còn kí tên là Tràng Thiên, Thu Thuỷ, viết tiểu thuyết nhưng thành công nhất về tạp bút (tuỳ bút), ý sâu sắc và lời dí dỏm. Ông khéo phân tích tâm lí nhân vật, tả cảnh vật tài tình, linh động. Phan Văn Tạo, bút hiệu Vũ Bảo, viết về thời sự và hồi ký. Phạm Việt Châu chuyên về chính trị quốc tế và nhận định thời cuộc. Có tinh thần đồng đội giữa những cây viết chính. Trong mười năm đầu, họ thường họp nhau ở toà soạn – 160 Phan Đình Phùng – hội ý trước về các đề tài, góp ý về nội dung các bài phê bình, đả kích. Tôi không khi nào dự cả, nhưng thỉnh thoảng ông Châu cũng nhờ tôi cho ý kiến về một bài gởi đăng mà đề tài tôi biết rõ hơn ông, như Văn học, Triết học Trung Quốc. Tư tưởng của những cây viết chính có khi trái ngược nhau. Vũ Hạnh thiên Cộng, sau theo Cộng; Võ Phiến chống Cộng; Đoàn Thêm và Phan Văn Tạo không ưa Cộng cũng không đả, “không thích Mĩ” nhưng cũng không nói ra; tôi, có lẽ cả Ngu Í và Lê Ngộ Châu nữa, có cảm tình với kháng chiến, nhưng khác hai ông ấy. Càng về sau, từ 1965 trở đi Mĩ đổ nửa triệu quân vào miền Nam tôi càng đả mạnh Mĩ và chính quyền Thiệu bù nhìn của Mĩ. Mặc dầu vậy, các anh em trong toà soạn vẫn giữ tình hoà hảo với nhau. Xu hướng trái ngược với nhau như Vũ Hạnh và Võ Phiến mà họ vẫn trọng tư tưởng của nhau (ít nhất là trong mười năm đầu) và gặp nhau tránh nói về chính trị. Đó là điều tôi quí nhất. Nhờ anh em ai cũng có tinh thần đó nên buổi họp nào ở toà soạn cũng đông và vui, như Phan Du đã tả trong bài Văn đàn tình thoại (BK số 361, tr. 62): “Bất luận là trẻ già, là cũ mới, là duy vật duy tâm, là Phật giáo hay Công giáo, khuynh hướng chính trị, văn chương như thế nào, đều được đón nhận với sự cảm thông, và được chung đụng trong cái thể hoà đồng, cởi mở”. Sau ông dạy Sử, Địa ở nhiều trường tư, có hồi dạy bốn chục giờ mỗi tuần, nên chúng tôi ít gặp nhau. Tôi không còn giữ được thư nào của ông. Ông ít viết thư, có việc gì thì tìm bạn nói chuyện. Ông thật là một bạn tốt. GIẢN CHI Tôi tự xét không phải là một nghệ sĩ, không có chút nghệ sĩ tính nào cả, mà ba bạn thân của tôi đều là nghệ sĩ. Ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn là một nghệ sĩ nhưng mới hơn Đông Hồ và Hư Chu, hơn tôi sáu tuổi, hơn Đông Hồ một tuổi, tôi cả hai ông như anh. Tôi quen ông là do ông Đông Xuyên dắt vào một buổi sáng mùa Đông năm 1958. To lớn, hớt tóc ngắn, ông có vẻ hiên ngang, không ra một thi sĩ. Tính tình tự nhiên, thẳng thắn, dễ thân mật, ăn nói nhã nhặn. Sau được coi một tấm hình của ông hồi ngoài ba mươi tuổi, tôi bảo đùa ông: “có vẻ Lương Sơn Bạc quá”[6]. Ông quê làng Hạ Yên Quyết (tục gọi là làng Cót) trên đường Parreau từ làng Bưởi qua Cầu Giấy. Làng đó nổi tiếng là làng văn vật trong tỉnh Hà Đông, mà họ Nguyễn của ông từ cuối Lê, đầu Nguyễn, thời nào cũng có người đỗ đạt, không kém họ Hoàng của Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm cũng ở làng đó. Ông có một người anh nổi tiếng hay chữ hay thơ. Ông sinh năm 1905, học chữ Hán, 15 tuổi đậu khoá sinh, lúc đó thi Hương đã bỏ, ông chuyển qua học chữ Pháp, ít năm sau đậu bằng Tiểu học, học bốn năm nữa, đậu bằng Cao đẳng tiểu học Pháp hạng bình. Nhà ở xa, nên hồi học ở Hà Nội ông phải ở trọ trong đền Ngọc Sơn hay một chùa nào đó. Ông làm sở Bưu điện, tính cương trực, cấp trên không ưa, có thời đổi lên Lai Châu, lưu lại bài: -----------THU LAI CHÂU Hơi may gây gây, Trời vùng này nhiều mây, Nắng mưa chập chờn, Không rượu lòng như say. Thư nhà đỏ mắt, Phím đàn không dây! Lá đồi trận trận vàng lìa cây. Dăm ba bông đại hương ngây ngất người, Sông Na núi Síp bồi hồi, Ngó sông ngó núi, mơ người Mường Keo. Tính tình ông hào hoa phong nhã, thích hoa, rượu, nhạc. Thơ ông có giọng lãng mạn của thời đó, nhưng không sướt mướt mà hào hùng: ------------MỜI RƯỢU ---------(trích một đoạn) --- Uống đi, nào bạn uống đi, Lênh đênh ngày tháng mấy khi sum vầy! Uống cho lòng ấm đêm nay, Tỉnh suông suốt kiếp, thà say một giờ. Có đôi trong cõi mơ hồ, Hoạ khuây dĩ vãng, bất ngờ tương lai[7], Thời gian hoạ có bớt dài, Không gian hoạ rút trong vài tấc li --- Về sau nhắc lại thời đó ông ân hận rằng đã phí bỏ tuổi xuân. Ông theo Việt Nam Quốc dân đảng, nhưng năm 1945 vì yêu nước, ghét Tây nên cũng giúp Việt Minh. Sau cách mạng tháng tám, ông khẳng khái tặng hết ruộng cho cách mạng, lại bỏ tiền rèn khi giới giúp anh em kháng chiến. Lòng trai bốn phương của ông lúc đó bừng bừng phất phới với ngọn cờ đỏ sao vàng: --- L. có thấy: Mặt trời đêm nay Đang lên rỡ ràng? Rừng cờ mở đỏ, Ngôi sao bay vàng… Sao bay cờ mở, Lòng trai bốn phương… Nghĩa đời rộng mở, Tình người lên hương… --------(Lòng trai bốn phương). Những năm kháng chiến, ông ra bưng, lên miền thượng du kiếm ăn bằng các nghề xe gai, buôn nứa và chăn vịt, từng ngủ đêm đã phải ngủ nơi bãi tha ma, sống cuộc đời nay đây mai đó. -----------VÔ ĐỊNH Ta lại ra đi… đời lang thang, Những ngày vô định, bước tha hương, Thuyền bay độc mộc, mơ trăng Cót Bãi ngủ tha ma, hút thuốc Mường. Nước cả, vịt tan, trời đổ bão! Bóng chiều, ngựa thét, núi chia cương Tỉnh say hoa khói, cười mưa gió, Ngoảnh lại phù sinh chốc nửa đường! Rồi ông hồi cư về Hà Nội. Năm 1954, thấy chính sách ruộng đất không ổn, thấy bạn cũ trở mặt với ông, tố ông, không còn chút tình người gì cả, ông phải bỏ quê hương mà vô Nam. TRÊN ĐƯỜNG BAY VÔ NAM “Tâm tư bất năng ngôn, Trường trung xa luân chuyển”. ------------------------------(Cổ thi) Trải mấy thu làm khách bốn phương, Thu nay lìa xứ lại lên đường. Biển leo trời thẳm muôn làn biếc, Cát giãi cồn xa một sắc vàng. Cuộc sống đã đành khinh gió bụi, Lòng người ai chả có quê hương! “Cỏ tương tư” giục hoàng hôn xuống, Mây trắng tơi bời, núi ngổn ngang… Nhờ cuộc di cư đó mà tôi được gặp ông. Hồi đó tôi đã được đọc tập Cô độc gồm một số truyện ngắn của Lỗ Tấn, ông tuyển rồi dịch, nhà Á châu xuất bản ở Hà Nội năm 1954. Biết cái vốn Hán tự của ông, nhất là Bạch thoại, hơn tôi nhiều, tôi đề nghị với ông cùng viết bộ Đại cương triết học Trung Quốc, ông nhận lời, và chúng tôi hợp tác với nhau về cổ học Trung Quốc cho tới sau ngày giải phóng như trên tôi đã nói. Sự hợp tác đó rất vui và có lợi cho cả hai. Nhờ có ông, tôi mới mạnh bạo tiến vào khu vực đó, và nhờ tôi thúc đẩy, từ đó ông mới sáng tác mạnh. Ngoài những tác phẩm viết chung với tôi, ông còn dịch Ả Q. chính truyện (của Lỗ Tấn), Tuyển tập Lỗ Tấn, Cái đêm hôm ấy (S. Maugham)… Chúng tôi nhận định giống nhau, biết châm chước ý kiến của nhau và cùng có lương tâm như nhau. Tôi nghĩ nếu không gặp ông thì công việc nghiên cứu của tôi đã theo một hướng khác, vì không hợp tác với ông thì tôi không thể hợp tác với người nào khác trong ngành Cổ học Trung Quốc; còn ông cũng nhận rằng trước khi gặp tôi ông không có ý bước vào khu vực đó. Thực là một duyên tiền định, có lẽ chưa hề thấy trong văn học sử nước nhà từ đầu thế kỉ đến nay. Ông cho t& hề nhắc tới những cuốn kể trên, không coi trọng công việc hướng dẫn, khuyên nhủ thanh niên đó, mà lại thích nhất những cuốn Disraëli (kể tình thương yêu, quí mến lẫn nhau của ông bà Disraëli, một chính trị gia đại tài của Anh dưới triều đại nữ hoàng Victoria), truyện Climats (một tiểu thuyết tâm lý), những tiểu sử Lélia (George Sand), Olympio (Victor Hugo)[4], Proust, Alain…; những cuốn sử Anh, Hoa Kỳ, Pháp; còn các nhà phê bình Pháp thì hầu hết đều cũng nhận rằng những bộ tiểu sử Lélia, Olympio, Balzac, Alexandre Dumas của ông là phần chính trong sự nghiệp của ông, viết rất công phu, đọc rất thú, và ghi lại nhiều nét của xã hội Pháp thế kỷ XIX, gần như bộ Comédie humaine của Balzac, lại có một số ít nhà phê bình thích những truyện ngắn không tưởng, mỉa đời của ông như Au pays des Articoles, hoặc quái dị như Le peseur d’âme, La machine à lire les pensées. Vậy thì việc nhận định văn học bao giờ cũng tuỳ sở thích của mỗi người, có khi của mỗi thời nữa. LOẠI VĂN HỌC Điều chắc chắn là tôi có xu hướng về văn học, thích những cuốn viết về nghệ thuật (tư tưởng mới mẻ, thâm thuý mà viết kém thì tôi cũng không ưa), và thích giới thiệu những cái đẹp trong văn thơ với thanh niên. Cái đẹp trong văn thơ cổ kim, Đông Tây thiên hình vạn trạng, không ai có thì giờ thưởng thức hết được. Mỗi người chỉ biết được vài khu vực thôi. Tôi may mắn biết được hai nền văn học rực rỡ mà khác nhau là văn học Trung Hoa và Pháp và trong loại sách về văn học, tôi rán truyền những cảm xúc thích thú của tôi cho độc giả. HƯƠNG SẮC TRONG VƯỜN VĂN Trong chương XVIII tôi đã nói về bộ Luyện văn (3 cuốn) và bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc rồi. Tác phẩm thứ ba mà tôi thích hơn bộ Luyện văn là bộ Hương sắc trong vườn văn (mới đầu in làm hai cuốn). Tôi nảy ra ý viết bộ đó nhờ năm 1947 hay 1948, đọc cuốn Cours de technique littéraire của một trường hàm thụ (tôi quên mất tên) ở Paris. Cuốn đó dạy kĩ thuật viết báo, tiểu thuyết, kịch, phê bình văn học, viết thư, cả viết quảng cáo nữa. Những thuật đó không có gì mới mẻ, đại khái tôi cũng biết qua rồi, mà tôi cũng không có ý trứ tác những ngành kể trên; nhưng soạn giả khéo dẫn nhiều thí dụ lí thú, và năm 1958 tôi dùng một số thí dụ đó với nhiều thí dụ khác trong văn học Trung Quốc và Việt Nam để viết Hương sắc trong vườn văn. Công việc không có gì khó. Cần nhất là có nhiều văn thơ để trích dẫn, muốn vậy phải đọc thật nhiều. Không phải đọc trong sáu tháng hay một năm khi đã nảy ra ý định viết rồi, mà phải đọc từ năm mười năm trước, thì mới được nhiều tài liệu. Và như Sainte Beuve nói, “khi đã lượm được đầy tay rồi thì công việc giản dị lắm”, chỉ cần một bố cục khéo để “đóng khung” thôi. Khi thu thập tài liệu tôi đã thấy vui, mà khi viết tôi cũng thấy thích. Và chắc chắn độc giả đọc sách tôi cũng thấy vui như tôi. Một ông giám học trường trung học ở miền Trung khen Hương sắc trong vườn văn là tác phẩm phê bình văn học sâu sắc ở nước nhà. Gần đây một ông bạn cho tôi hay một thanh niên tốt nghiệp đại học Văn khoa ở Huế khi “vượt biên” chỉ mang theo mỗi cuốn đó. Ngày nay đọc lại, tôi vẫn thích các chương Văn ba lan, Tế nhị và hàm súc, Tình trong văn, lí trong văn, Đuổi bắt ảo ảnh (tiếp), nhất là hai chương cuối: Kĩ thuật chân chính, và Cảm thông với cái đẹp. Cuối đoạn kết (gồm một trang) của toàn bộ, tôi viết mấy hàng này: “Trong nghệ thuật cũng như ở ngoài đời, phân tích tỉ mỉ quá không có lợi gì cho người và cho mình. Những kẻ sung sướng nhất là những kẻ lí luận ít mà cảm xúc nhiều. Bạn cứ hỏi trái tim bạn, hạnh phúc ở đó, mà cái đẹp cũng ở đó”. Bộ đó in hai lần, trước sau được 5.000 bản. Trong số năm ngàn độc giả đó, tôi mong có được dăm trăm người biết dùng văn thơ để bồi luyện cảm xúc mà tìm được hạnh phúc. Tôi cho đó là cái lợi nhất khi ta đọc những tác phẩm bất hủ của nhân loại. CỔ VĂN TRUNG QUỐC Tôi đã nhận được cái lợi đó từ khi lõm bõm đọc bộ Cổ văn quan chỉ vào khoảng năm 1940. Hồi đó, thấy bài nào thích thì tôi dịch ra để cho hiểu rõ hơn và sau muốn đọc lại thì đỡ tốn công vì có sẵn bản dịch rồi; tóm lại, như tôi đã nói, dịch chỉ để tự học. Hai mươi năm sau, vốn chữ Hán của tôi đã khá hơn, tôi đọc lại Cổ văn quan chỉ và Cổ văn bình chú, trong số hơn 300 bài, lựa lấy 100 bài tôi thích nhất rồi lấy bản dịch cũ, mà dịch lại thành một bộ 900 trang 21 x 27 viết tay, in ra khổ lớn, cyle="mso-bidi-font-style: normal">Năm 2000 (1974), Minamata: nước biển nhiễm độc (1974) và loạt bài Báo cáo số 1 và số 2 của nhóm La Mã, đăng trên bốn số Bách Khoa liên tiếp 421-24 năm 1975; không kể một số bài nữa không đăng báo mà tôi gom lại trong cuốn Những vấn đề của thời đại (Mặt Đất -1974). Sau cùng phải kể thêm một số bài thuộc loại hồi kí và tuỳ bút đăng trên Bách Khoa, và trên số Kỉ niệm Nhất Chi Mai của Hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (1971), sau được nhà Lá Bối xuất bản trong loại Bông hồng cài áo. Cũng do viết báo mà tôi mới nảy ra ý viết những tiểu phẩm. Vì tôi công tác đều đều với Bách Khoa, từ đầu đến cuối, lại viết nhiều về nhiều vấn đề, nên độc giả có người cho tôi là cây viết cốt cán của tạp chí, tưởng tôi là một nhân viên quan trọng trong toà soạn nên có bài muốn gởi đăng thì gởi cho tôi nhờ tôi giới thiệu với ông chủ nhiệm Lê Ngộ Châu. Tôi đọc rất kỉ bài họ viết rồi cũng đưa ý kiến với ông Châu, nhưng cũng cho họ biết sự quyết định đăng hay không ở cả ông Châu. Ông Châu làm việc rất siêng, đọc hết mọi bài nhận được, đăng hay không ông đều báo cho tác giả biết. Ông nhận rằng ông đã bỏ lầm một số bài rất khá. Tôi mến ông vì ông có tinh thần trách nhiệm, làm việc đàng hoàng, biết cương quyết giữ vững chủ trương cả khi báo suy, biết xét người, xét văn và có tình với người cộng tác: ai gặp nạn gì thì ông lại nhà thăm, tìm mọi cách giúp đỡ. MAI Đầu năm 1960, ông Hoàng Minh Tuynh cho ra một bán nguyệt san khác, lấy tên là Mai mà ông làm chủ nhiệm. Tờ này chắc do một nhóm công giáo bỏ vốn – ông Tuynh theo công giáo – chủ trương đại khái cũng giống tờ Bách Khoa, nhưng thiên về công giáo. Cây viết, một nửa là của Bách Khoa, một nửa là của công giáo. Báo chỉ bán được ngàn số trở lại, ra được hai năm rưỡi, 41 số, thì đình bản. Ông Tuynh nhờ tôi viết giúp, thành thử trong những năm 1960-62, tôi viết cho cả hai tờ và trong 41 số Mai thì 24 số có bài của tôi. Đa số bài của tôi bàn về giáo dục, đưa ý kiến: - Về vấn đề cải tổ chế độ tư thục (thời đó hầu hết các tư thục thành những nơi buôn chữ, chủ trương chỉ lo làm giàu, giáo sư chỉ lo “câu” học sinh, dạy 40 giờ một tuần hoặc hơn, học sinh hư hỏng, không có chút kỉ luật gì cả). - Về tình trạng các kì thi Trung học đệ nhất cấp (đăng trên 5 số - 1961). - Về vấn đề chuyển ngữ ở Đại học. - Về vấn đề thanh niên hư hỏng (2 số năm 1961; 2 số năm 1962). Ngoài ra còn ít bài, về giáo dục sinh lí, giáo dục thiếu nhi thông minh, về hôn nhân, về phụ nữ, và 1 bài điểm sách: Nàng ái cơ trong chậu úp của Mộng Tuyết và Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển. TIN VĂN Năm 1965, ông Nguyễn Ngọc Lương, một nhân viên của Bộ Thông Tin cho ra tờ tuần báo Tin Văn, trước sau được ba bốn chục số trong hai năm rưỡi. Hồi đó tôi không biết ông Lương là cán bộ Cộng sản nằm vùng; ông nhờ tôi viết giúp, tôi đọc mấy tờ đầu thấy tờ báo đứng đắn, có chủ trương tiến bộ, thiên tả nhưng vừa phải, kín đáo, nên tôi nhận lời. Trên tờ này, tôi viết ít (chỉ khoảng mười số có bài của tôi), nhưng bài nào cũng viết kĩ, và hầu hết bàn về vấn đề văn hóa, văn chương. Những bài Văn chương và dân tộc tính, Tiếp thu văn hóa Tây phương, Phát huy văn hóa truyền thống… sau được gom với bài Bút pháp và cá tính (mà tôi đã nói ở chương trên) để cho vào cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa (Tao Đàn – 1967). Hai bài Bút pháp và cá tính, Văn chương và dân tộc tính được nhà văn Trần Thiện Đạo (ở Pháp) khen là tiếng nói của lương thức, của một học giả có thẩm quyền (Tân Văn số 7 tháng 11-1968, và số 8 tháng 12-68). Nhưng bài độc giả thích nhất, cho là có giọng bút chiến sắc bén là Đả phá dễ hay xây dựng dễ đăng ngày 15.9.66. Trong bài đó nhân một câu của Tổng giám đốc vô tuyến truyền hình mà kịch liệt đả kích chính sách văn hóa của chính phủ, đã không xây dựng mà chỉ phá hoại. Tôi khen chính quyền thời đó cho đăng trọn bài, không bỏ một chữ. Họ còn tương đối biết trọng tự do ngôn luận, mà có thái độ nhã nhăn với những nhà văn đứng đắn, dám nói thẳng và nói đúng. Bài đó có tiếng vang ngang với bài Bọn cầm bút chúng ta làm được những gì lúc này đăng trên Bách Khoa ngày 1.12.67. Giọng bài này khác hẳn: “vừa buồn vừa tủi rằng ỗ Tiểu học, nhưng không học tiếp hết Cao đẳng tiểu học như Giản Chi, sau làm thơ kí Nha Quan thuế tới khi về hưu ở Sài Gòn. Nhưng hai bạn đó trái ngược nhau về nhiều điểm: Đông Xuyên thấp, gầy, mắt sáng, chậm chạp, vẻ mặt khắc khổ, mặc áo dài thâm vào thì ai cũng bảo là thầy đồ; tính tình nghiêm cẩn, hơi câu nệ, sống rất giản dị, ít đọc sách, ít giao du, chỉ mê làm thơ mà thơ ông cũng rất cổ. Ông tự xét ông: “Trong làng văn, có lẽ tôi là người có nết nhất: không dính tứ đổ tường, nhưng cũng là kẻ lạc hậu nhất: không biết đi xe đạp. Tính hay gắt gỏng, nhưng chân thật, bạn bè yêu”. Đúng: ông rất chân thật, thật như đếm nữa, mà cũng thật liêm khiết, đó cũng là điểm bạn bè quí, nhưng chắc cũng bị vài kẻ ghét vì có lần ông than: “Nước mà trong quá, cá không ưa”. Việc nhà ông giao cho vợ hết, trái hẳn với thi sĩ Bàng Bá Lân, một bạn thơ của ông: họ Bàng tháo vát, dạy học bốn chục giờ một tuần, dịch sách, viết sách, chụp ảnh, giúp đài truyền hình… một mình nuôi gia đình mười hai người, lại quán xuyến cả việc nhà; còn Đông Xuyên hết giờ ở công sở rồi về nhà nghĩ tới thơ. Ông có thơ đăng trên An Nam tạp chí từ hồi hai mươi lăm tuổi và được Tản Đà khen; từ đó đến nay non nửa thế kỉ, ông đã xuất bản được bốn tập: Thuyền thơ, Gió nồm, Bến chiều, Tuyển tập thơ Hán Việt (dịch); ngoài ra còn vài tập nữa chưa in, tính ra cả sáng tác lẫn dịch được trên 600 bài. Giản Chi phê bình thơ ông như sau: “Anh say xưa cảnh đẹp thiên nhiên và nặng lòng trước những mảnh đời ngang trái. Và đọc thơ anh người ta thấy phảng phất cái tài bộ của một Vương Ma Cật và dạt dào một đồng tình của một Bạch Lạc Thiên”. Mấy năm nay tôi thấy thơ ông có giọng Tú Xương nữa. Ông ưa dùng thể thơ luật nhất, thỉnh thoảng làm một bài lục bát hay song thất lục bát. Thơ ông chỉnh, có nhạc, bài nào cũng xen cảnh vào tình, nhưng thiếu bề sâu, ý mới. Đặc biệt là ít dùng điển, ít dùng cả chữ Hán, rất có giọng Việt. Tình cảm của ông chỉ hiện phơn phớt, như được tiết chế theo đạo Nho rồi. Ông cổ điển mà Giản Chi lãng mạn. Ông có nhược điểm là rất ghét phong trào thơ mới thời tiền chiến, không chịu đọc một nhà nào cả. Ông là sản phẩm “cuối cùng của đạo Nho ở Việt Nam”. Không thể có một người khác như ông. Tôi có may mắn giới thiệu hai tập thơ của ông: Thuyền thơ và Tuyển tập thơ Hán Việt, nên ở đây tôi khỏi chép thêm. Tác phẩm của ông tôi giữ được đủ, thư của ông rất nhiều, cũng gần đủ. QUÁCH TẤN – BÀ TƯƠNG PHỐ Tôi biết danh Quách Tấn (bút hiệu là Trường Xuyên) từ lâu, nhưng quen ông chỉ trên mười năm nay. Vào khoảng đầu năm 1968, đọc cuốn Nước non Bình Định của ông, tôi viết một bài đăng trên tờ Tân Văn (1968) khen là tác phẩm có giá trị nhất trong loại Địa phương chí vì tài liệu đã dồi dào mà văn lại hay. Tôi khuyến khích ông viết một cuốn nữa về Nha Trang nơi ông đương ở. Ông nghe lời viết cuốn Xứ Trầm hương, cuốn này tôi thích hơn cuốn trên và giới thiệu trên tờ Tân Văn năm 1970: ông tả nhiều cảnh lạ ở Khánh Hoà, nhất là cảnh núi mà tôi chắc không ai tả hơn ông được. Ít năm sau, ông bị bệnh Glaucome, một con mắt phải mổ, sợ con mắt còn lại cũng không được toàn, làm một bài thơ kể tâm sự với tôi. Tôi gởi đăng bài thơ đó trên tờ Bách Khoa, có ý mong độc giả, ai biết thuốc thì chỉ cho ông. Một độc giả ở Châu Đốc chép gởi toà báo một toa thuốc bắc gồm nhiều vị bổ âm, nhưng sau ông không phải dùng tới. Từ đó chúng tôi thường thư từ với nhau và lần nào ở Nha Trang vào Sài Gòn ông cũng lại nói chuyện văn thơ với tôi vài giờ. Về bộ Sử kí, chúng tôi nhấn mạnh vào cuộc đời oan khổ của Tư Mã Thiên nó ảnh hưởng tới tư tưởng và phương pháp viết sử của ông ra sao. Bộ Chiến Quốc sách có phụ lục: niên biểu thời Chiến Quốc, Nhân danh, Địa danh. Bộ Sử kí có hai bản đồ: Trung Hoa thời Chiến Quốc và Trung Hoa thời Hán. Mặc dù cũng bị thời đại hạn chế, chúng tôi không thể dịch trọn hai tác phẩm bất hủ đó được, nhưng đọc hai bản dịch của chúng tôi – 700 và 800 trang – độc giả cũng có một số tri thức tạm đủ và rõ rệt rồi, và chúng tôi mong rằng vài ba chục năm nữa sẽ có người dịch trọn bộ Sử kí. TÔ ĐÔNG PHA Tôi đặt Tô Đông Pha vào loại Văn học, nhưng cũng có thể đặt vào loại Gương danh nhân cùng với mấy cuốn Einstein, Bertrand Russell, Henry David Thoreau (một lương tâm nổi loạn) được – (Mấy cuốn đó giống nhau ở điểm mỗi cuốn viết riêng về một nhà). Tôi thích họ Tô nhất vì tấm lòng của Tô gần với tôi hơn cả.Tôi rất phục tài của Tô, yêu tinh thần bình dân của Tô, mong học được đức khoan hoà, phóng khoáng của Tô. Tôi ước ao được sống cuộc đời nghệ sĩ của ông ở Hàng Châu, ở Lâm Cao, được thả thuyền trên Tây Hồ mà ngắm đủ thập cảnh, uống rượu ngâm thơ với bạn trên dòng Xích Bích.Mới mấy hôm trước đây, vì thời tiết thay đổi, vừa bật đèn lên ăn cơm thì mối bay ra cả đám, tôi phải tắt đèn, ra ngồi ăn cơm thầm ngoài sân (ở Long Xuyên), rồi về khuya cóc kêu inh ỏi bên phòng, tôi phải trở dậy, kiếm viên thuốc ngủ và nhớ lại hồi ông bị đày ở đảo Hải Nam, sống cực khổ mà vui vẻ, trào phúng được. Về mọi phương diện, ông đều đáng làm thầy tôi.Tôi thường đọc lại những đoạn ông ở Hàng Châu, Lâm Cao, Hải Nam đó, và đoạn ông ngồi thuyền qua hẽm Vu Giáp, trên sông Dương Tử để lên Kinh.Yêu ông, tôi cũng yêu mấy nhân vật kỳ dị thời ông nữa: một học giả bỏ ra 25 năm, viết một bộ sử vĩ đại (Tư Mã Quang), một triết gia sống khắc khổ (Trình Di), một đạo sĩ đi mấy ngàn cây số để thăm ông, yêu cả Vương An Thạch nữa, tại sao không? Nhà cách mạng đó ngây thơ, có thể khùng khùng, nhưng đâu có bỉ ổi! Còn nàng Triêu Vân nữa mà bạn của Tô gọi là Phật bà Quan Âm!Tóm lại tôi yêu cả xã hội Trung Hoa thời ông: Nó chia rẽ, bất công, suy về kinh tế, võ bị, nhưng về văn học, triết học, mĩ thuật lại rất tiến. Hễ văn minh thì không hùng cường, hễ hùng cường thì không văn minh. Hy Lạp thời Périclès văn minh rực rỡ mà bị Macédoine chiếm.Năm 1974 tôi đã sửa lại Tô Đông Pha, thêm vài đoạn (một đoạn về cảnh Tây Hồ), nhà Cảo Thơm chưa kịp tái bản thì Sài Gòn được giải phóng, phải đóng cửa. Vài bạn kháng chiến rất thích cuốn đó”[6]. VĂN HỌC TRUNG QUỐC HIỆN ĐẠI Ở trên tôi nói không được vừa ý về bộ Văn học Trung Quốc hiện đại[7] vì thiếu nhiều tài liệu, cần phải bổ túc. Tuy nhiên, cho tới ngày nay muốn biết về văn học hiện đại của Trung Hoa, ngoài bộ đó ra, chúng ta không còn cuốn nào khác bằng tiếng Việt. Tôi vẫn thỉnh thoảng tra lại nó, và thấy đoạn kết không có gì phải thay đổi. Trong đoạn ấy tôi đã vạch rõ hai nền văn hóa Hoa, Việt từ cuối thế kỉ trước đến nay tiến song song nhau, có những nét rất giống nhau (cả ở miền Quốc gia lẫn miền Cộng sản) y như anh em sinh đôi… như vậy chỉ vì hai nước đồng văn với nhau, gặp những hoàn cảnh như nhau. Trong đoạn cuối, tôi đã đặt vấn đề tự do và chỉ huy trong văn nghệ: “Tự do nhưng tự do tới mức nào, chỉ huy nhưng chỉ huy ra sao, làm sao để cho kẻ này đừng lạm dụng tự do, kẻ kia đừng lạm dụng quyền hành, vấn đề quan trọng đó vẫn chưa có một giải pháp hoàn toàn, mà có lẽ không bao giờ có được một giải pháp vẹn toàn[8] nếu bản thân những người làm văn nghệ và cả những người hưởng thụ văn nghệ chưa có một nền đạo đức, một sự giác ngộ và một trình độ giám thức tối thiểu nào đó”.[9] KHẢO LUẬN VỀ NGỮ PHÁP VIỆT NAM Tôi đã nhiều lần tuyên bố trong đám đông rằng tôi không phải là nhà ngôn ngữ học. Trong một chương trên tôi đã nói ông Trương Văn Chình sau khi đọc cuốn Để tìm hiểu văn phạm mà tôi cao hứng viết trong khi dạy học ở Long Xuyên, rủ tôi hợp tác soạn một cuốn ngữ pháp mới thay thế cuốn của Trần Trọng Kim quá lệ thuộc vào các sách ngữ pháp cổ điển của Pháp. Tôi thấy ý đó hay hay, nhận lời, bỏ ra hai ba năm gì đó đọc ba bốn chục cuốn ngữ pháp, văn pháp Việt, Hoa, Anh, Pháp để cùng ông tìm một phương pháp thích hợp với Việt ngữ. Nhưng khi viết thì ông đảm đương hết, tôi chỉ coi bản thảo và góp ý với ông thôi. Càng đi sâu vào môn đó tôi càng thấy nó như một khu rừng, và khi chúng tôi tạm tìm được một lối để thoát ra, thì riêng tôi, tôi thấy nhẹ mình quá, nghĩ bụng: “thế là hết nợ”. Ngay khi cuốn Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam mới in xong, tôi tuyên bố trong một bài phỏng vấn của Bách Khoa năm 1963 – tôi không nhớ tháng nào – rằng tôi thích văn học hơn môn ngữ học, sẽ trở về văn học. Từ đó tới nay tôi không viết về ngữ pháp nữa, cũng từ chối dạy ngữ pháp cho một vài trường đại học. Ông Trương Văn Chình trái lại, mỗi ngày một đào sâu thêm nhiều về ngữ pháp, sau đó viết cuốn Structure de la langue vietnamienne, được Trung tâm Đại học sinh ngữ Đông phương (Centre universitaire des langues orientales vivantes) xuất bản năm 1970, và hiện nay ông có thêm một bộ Ngữ pháp Việt Nam gồm năm ngàn trang đánh máy, Viện Khoa học Xã hội Hà Nội chưa in cho ông được, ông đòi lại bản thảo, không biết họ có trả không![10] Bộ Khảo luận ngữ pháp Việt Nam được vài giáo sư Việt cho là đánh dấu một khúc quẹo đáng ghi trong việc nghiên cứu tiếng Việt. Học giả E. Gaspardone giới thiệu nó trên tạp chí Sinologie (ở Thuỵ Sĩ năm 1965) với nhiều cảm tình; hai giáo sư Pháp, một ở Paris, ông Maurice Durand, một ở Việt Nam, cô Piat khen nó trên Nội san trường Viễn Đông Bác cổ (B.E.F.E.O – Durand) năm 1966, và trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Dương (Bulletin des Etudes Indochinoises – Piat) tôi không nhớ năm nào, chỉ biết sau bài của Durand![11] Nó mới mẻ thật. Chúng tôi nhấn vào tính cách “cách thể” (isolante) và không có “từ pháp” (morphologie) của Việt ngữ, mà bỏ hẳn lối chia ra làm trên chục từ loại như các sách ngữ pháp cũ, dùng một cách phân loại “mềm mại hơn, mơ hồ hơn” (lời của Gaspardone), phân biệt ba loại thôi: thể từ (tức danh từ cũ), trạng từ (gồm động từ, tĩnh từ, trạng từ cũ) và trợ từ. Sự phân loại đó hơi giống lối của Trung Hoa thời xưa: thực từ, hư từ, bán hư bán thực từ. Qui kết là chúng tôi chú trọng đến từ vụ (fonction des mots) hơn người trước, chú trọng đến vị trí của mỗi tiếng trong câu, và tới sự cấu tạo của câu. Vì vậy mà một số người cho phương pháp của chúng tôi là phương pháp cơ cấu. Sau giáo sư Trần Ngọc Ninh đào sâu thêm, phân tích kĩ hơn, viết bộ Cơ cấu Việt ngữ mới in ba cuốn đầu, mỗi cuốn độ hai trăm trang, rồi phải ngưng vì miền Nam đã thay đổi chế độ. Nghe nói hiện nay ông ở Mĩ. Trong khi soạn bộ Khảo luận đó, tôi thấy có vài chỗ miễn cưỡng, bàn với ông Trương Văn Chình nhưng chúng tôi không sao giải quyết hơn được. Cách phân loại các từ của chúng tôi tuy tránh được nhiều mâu thuẫn mà cách cũ mắc phải, tuy có “mềm mại” hơn, nhưng chính vì vậy mà “mơ hồ” hơn, như ông Gaspardone nói. Tôi lại thấy có nhiều phương pháp phân tích một ngôn ngữ: phương pháp duy lí (logique), phương pháp tâm lí (psychologique), rồi phương pháp cơ cấu (structural), cơ cấu ngầm (générative), cả phương pháp hoàn toàn hình thức (formelle) nữa, nghĩa là chỉ dựa vào vị trí của các từ đối với nhau mà bỏ hẳn ý nghĩa đi. Phương pháp nào cũng có điểm hay, cũng có chỗ đúng, mà chẳng phương pháp nào hoàn toàn cả, mà vài ba nhà “ngôn ngữ học” ở nước mình thường đố kị nhau, ai cũng cho chỉ mình mới đúng, nên tôi chán ngán, quyết tâm bỏ môn đó. Tôi nghĩ môn ngữ pháp có ích đó, nhưng lí thuyết quá, không thiết thực bằng chỉ cách cho thanh niên viết tiếng Việt ra sao cho sáng sủa, và trong mấy năm sau tôi lượm trên các sách báo Sài Gòn những câu tối tăm, viết không xuôi, tìm ra nguyên nhân tại đâu, rồi đề nghị cách sửa, và nếu có thể được thì rút ra một vài qui tắc. Cuốn đó viết xong, nhan đề là Tôi tập viết tiếng Việt[12] nhưng vì chưa xuất bản, nên tôi để lại một chương sau sẽ xét tới. CÁC TÁC PHẨM VỀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC Khi bộ Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam còn đương thảo, tôi đã bắt đầu viết chung với ông Giản Chi bộ Đại cương triết học Trung Quốc. Do tôi đề nghị và phân công: ông Giản Chi lãnh phần Vũ trụ luận (II) và Tri thức luận (III), tôi vốn thích cái gì cụ thể, thực tiễn, lãnh phần Nhân sinh luận (IV), Chính trị luận (IV). Vì công việc của tôi dễ hơn của ông Giản Chi, nên tôi lãnh thêm phần I: Vài nét sơ lược về sự phát triển của triết học Trung Hoa, và phần VI: Tiểu sử các triết gia; hai phần sau này điều ngắn. Toàn bộ gồm hai cuốn: Thượng trên 800 trang và Hạ gần 900 trang. In cả chữ Hán, để riêng ở cuối mỗi cuốn. Công việc này rất mệt. Tôi thú thực nếu không có ông Giản Chi thì tôi không dám mạo hiểm vào. Chúng tôi tra cứu tất cả các sách Trung triết bằng Hoa ngữ, Việt ngữ và Pháp ngữ mà chúng tôi kiếm được, nhất là bộ Trung Quốc triết học đại cương của Vũ Đồng mà ông bạn Tạ Trọng Hiệp ở Paris kiếm cho được. Sự hợp tác với ông Giản Chi rất thú vị, chúng tôi làm việc đều siêng năng, cẩn thận, biết dung hoà ý kiến với nhau, học thêm được của nhau. Chúng tôi theo Vũ Đồng, trình bày triết học Trung Hoa theo chiều ngang chứ không theo chiều dọc, nghĩa là chia thành từng vấn đề chứ không từng thời đại, từng môn phái. Cách trình bày đó rất mới mẻ ở nước ta (mà cũng ít thấy ở Trung Hoa). Nhưng ở đầu bộ chúng tôi cũng thêm một phần tóm tắt lịch sử triết học Trung Hoa, phần này dài trên 100 trang (có thể in riêng vào loại sách phổ thông như loại Que sais je? ở Pháp), và ở cuối bộ lại thêm một phần nữa về tiểu sử mỗi triết gia, như vậy sửa được cái khuyết điểm của lối trình bày theo chiều ngang, mà giữ được cái ưu điểm là dễ tra cứu khi muốn tìm hiểu về một vấn đề nào. Bộ sách dày quá, việc in lại khó khăn vì có nhiều trang chữ Hán, vốn phải bỏ ra nhiều mà thu lại rất chậm, vì vậy mà hai năm sau khi viết xong mới cho ra được cuốn Thượng, rồi hơn một năm sau nữa mới cho ra nốt cuốn Hạ, nhờ sự hợp tác tận tình, không vị lợi của ông Hồ Hải, giám đốc nhà xuất bản Cảo Thơm, một bạn trẻ của chúng tôi. May thay sách được giới trí thức hoan nghênh, chính phủ tặng chúng tôi giải nhất Văn chương toàn quốc, ngành biên khảo 100.000đ, chúng tôi nhờ tặng lại một cơ quan Văn hóa.[13] Trong hai năm bán lai rai cũng hết ngàn bộ (chúng tôi chỉ in bấy nhiêu thôi), chia nhau được ít lời. Thật hú vía. Bộ đó sau tái bản được một lần, chúng tôi mừng cho ông Hồ Hải. Ông là một nhà xuất bản yêu nghệ thuật in, có sáng kiến, thích những tác phẩm có giá trị, có đặc tài trình bày tác phẩm, nên sách của nhà Cảo Thơm nổi tiếng. Năm 1978 ông đi qua Mĩ và thỉnh thoảng vẫn viết thư hỏi thăm chúng tôi. Cái lợi quan trọng của tôi là được học trong hai năm, rồi nhân đà đó tiến sâu thêm về Trung triết cho tới bây giờ mà viết được trên mươi cuốn nữa, ba cuốn xuất bản trước ngày giải phóng tôi sẽ giới thiệu dưới đây, còn những cuốn khác để lại một chương sau. - Liệt tử và Dương tử: Bộ Liệt tử chữ Hán không có tính cách nhất trí, nội dung rất tạp, chép cả về Dương tử, Khổng Tử, Lão tử, Quan Doãn, Quản Trọng, Án tử… lại thêm có nhiều bài mâu thuẩn nhau, nhiều bài trùng với các tác phẩm khác, rõ ràng cuốn đó của người đời sau viết mà chỉ một số là môn đệ của Liệt tử thôi. Tôi đọc kĩ, loại bỏ những bài nguỵ tác, chỉ lựa những bài diễn những tư tưởng có ít nhiều hệ thống, có thể tạm tin là tư tưởng của Liệt tử, và chắc chắn của Dương tử rồi chia làm hai phần: Liệt tử và Dương tử. Riêng phần Liệt tử tôi chia thành 6 chương có nội dung nhất trí, việc mà trước chưa ai làm. Nhờ đó mà bản của tôi không luộm thuộm như bản chữ Hán, sáng sủa hơn, có ý nghĩa hơn. Cuốn đó có nhiều truyện (huyền thoại, cố sự, ngụ ngôn) lí thú, nên đọc. - Nhà giáo họ Khổng: Tập này mỏng, không đầy 100 trang, tôi viết trong nữa tháng, một cách dễ dàng và say mê. Tôi dùng toàn những bài trong Luận ngữ để vẽ chân dung Nhà giáo (chứ không phải triết gia) họ Khổng: tính tình và tư cách ông ra sao, cách ông dạy học ra sao, tình thầy trò ông ra sao, công ông về giáo dục ra sao. Một bạn văn, ông Nguyễn Văn Hầu, tác giả các cuốn Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu, Thoại Ngọc Hầu khen rằng chương V: Tình thầy trò, “rất cảm động, gây lại được cái không khí của trường học Nho ngày xưa”. Viết xong tập đó tôi hiểu Khổng Tử hơn, quí ông hơn. Ông vừa nghiêm, vừa khoan, đa cảm mà thương người, thành thực mà tự nhiên, bình dân, lại có nghệ sĩ tính, có tinh thần hài hước nữa. Không có một ông thánh nào khác gần với chúng ta như ông. Cuốn đó được hoan nghênh, sau tôi nảy ra viết một cuốn nữa về Triết gia họ Khổng. - Mạnh Tử: Cuốn này dày hơn: 160 trang[14], cũng do Cảo Thơm xuất bản như cuốn trên. Tôi cố làm nổi bậc sự khác biệt giữa thời đại xã hội của Khổng và thời đại xã hội của Mạnh, giữa tính tình của hai vị. Khổng có lúc muốn chiều đời được việc, Mạnh thì hiên ngang quá, khẳng khái quá, giữ vững nguyên tắc, không chịu thoả hiệp. Ông Thu Thuỷ (Võ Phiến) trên tờ Chính luận (số 9.3.75), phê bình cuốn Mạnh Tử như sau: “Về thời đại, về tính tình, về tư cách Mạnh Tử, cách ông (Nguyễn Hiến Lê) trình bày thật sống động lí thú. Về tư tưởng của Mạnh Tử, trình bày cũng thật là rõ ràng dứt khoát (…). Trong lối viết gãy gọn, thẳng thắn của ông Nguyễn có lúc đột ngột, gần như thân mật. Trước đây nửa thế kỉ, ông Trần Trọng Kim không thể có cái giọng ấy. Cái dứt khoát của ông Nguyễn khiến người ta nghĩ tới Mạnh tử, mà cái thân mật khiến nghĩ tới cụ Khổng…”[15]. VỀ SỬ Đông Kinh nghĩa thục: Hồi tản cư về ở Tân Thạnh (1946-1947), tôi được bác ba tôi, hiệu là Phương Sơn, giáo sư trong Đông Kinh nghĩa thục cũng là rễ cụ Lương Văn Can, kể cho nghe hoạt động của trường.Hồi cư về Sài Gòn, tôi tìm đọc trên hai chục cuốn về các nhà cách mạng thời đó, cả cuốn Đông Kinh nghĩa thục của Đào Trinh Nhất (Mai Lĩnh – 1938), vừa để kiếm thêm tài liệu, vừa soát lại những lời bác tôi kể, rồi viết cuốn Đông Kinh nghĩa thục, xuất bản năm 1956.Tôi dùng một bài song thất lục bát của một thi sĩ khuyết danh trong tập Nam Thiên phong vận ca để dựng bố cục cho tác phẩm, cứ đầu mỗi chương tôi lại dẫn một hai câu theo đúng thứ tự trong bài. Đông Kinh nghĩa thục ghi được không khí thời đó (1907), chép được tinh thần của các nhà cách mạng vừa hăng hái vừa “ngây thơ”, nhất là tình đoàn kết, bình đẳng trong anh em, lại có nhiều giai thoại, nhiều tình tiết lí thú, cho nên sách bán khá chạy.Giáo sư Nguyễn Văn Trung ở Bạc Liêu trong một bức thư đề ngày 21.1.69 viết: “Tôi đã đọc cả mấy bài tựa của Đông Kinh nghĩa thục và của Bài học Israël, càng thêm mến cái tâm chí của anh, và càng thêm mộ cách nói thân thương mà khéo léo của anh. Từ câu nói “Bất bình tắc minh” của Hàn Dũ mà anh nêu làm đề từ đặt ở đầu bộ Cổ văn Trung Quốc đến “càng đọc lịch sử thế giới… làm quân tốt thí trên bàn cờ Quốc tế” (Tựa Bài học Israël), qua “mỗi lần ôn lại lịch sử… vào bực nhất nhì Đông Nam Á” (Tựa Đông Kinh nghĩa thục), người nào lấy công tâm mà đọc anh nghĩa là đừng có một định kiến nào, tất sẽ nhận rằng bên trong cái dáng văn nhược thư sinh của người có tên là Hiến Lê, bao giờ cũng âm ỉ cháy một tráng chí bền chặt mà nếu chỉ nhìn thoáng qua chắc ít ai ngờ đến”.Nhà văn Nguyễn Văn Xuân ở Quảng Nam, trong một bức thư không đề ngày, bảo “… nếu anh không viết quyển đó (Đông Kinh nghĩa thục) thì sự thực về phong trào đó thế nào, thật đã ai biết cho tường (tôi chưa được đọc quyển Đào Trinh Nhất). Tôi tin là trong văn nghiệp của anh, quyển sách mỏng ấy sẽ được nhắc tới nhiều như Sonate à Kreutzer (…) trong sự nghiệp đồ sộ của Tolstoi”.Có thể do đọc Đông Kinh nghĩa thục mà Nguyễn Văn Xuân về sau viết cuốn Phong trào Duy Tân (Lá Bối xuất bản). BÁC BA TÔI MẤTIn xong cuốn đó – cũng như cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười và bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc – tôi gởi về Long Xuyên[16] tặng ngay bác ba tôi một bản để người đọc lại những hồi kí cùng bài thơ Cảm khái của người ở cuối sách: Tuổi xanh kết bạn xoay trời đấtNăm chục năm nay thỏa ước mongĐộc lập xa gần cờ phấp phớiAnh hồn cố hữu khoái hay không?Bài thơ đó người làm đầu mùa đông năm Ất Mùi (1955) khi Việt Nam không còn bóng một quân Pháp nào cả, ít tháng trước khi Đông Kinh nghĩa thục đưa cho nhà in sắp chữ. Ít năm sau người yếu lần, nghỉ không ra toa nữa, qua ở với con trai thứ ba, anh Nguyễn Xuân Tu, tại chợ Thủ, chỉ cách làng Tân Thạnh có con sông Tiền Giang. Mùa Hè năm 1959 tôi về Chợ Thủ thăm người một lần: Óc vẫn sáng suốt, nhưng chậm chạp hơn, suốt ngày ở trong nhà. Da có nhiều chỗ ngứa, bôi thuốc gì cũng không hết. Thận suy rồi, không lọc được chất độc trong máu nữa. Đầu tháng giêng 1960 - ngày 11 tháng chạp năm Kỉ Hợi[17], tôi ở Sài Gòn tôi được điện tín người qui tiên, vội vàng về liền, tới nơi thì đã nhập quan rồi. Mấy tháng khi gần mất, chân người phù lên. Người sinh năm Nhâm Ngọ, năm đó 78 tuổi. Mộ người ở làng Tân Thạnh, sau nền nhà cũ. Nhà đã dỡ, mà từ năm 1975, nền nhà cũng về một đứa cháu xa ở Bắc vô giúp việc cho người từ hai mươi mấy năm trước. Chí lớn không thành, sống đời một ẩn sĩ ở một nơi hẻo lánh, tuyệt nhiên không màng danh lợi, chỉ thích hoa và sách. Hai vài tứ tuyệt dưới đây ghi được tâm sự và tính tình thanh cao của người: -----------MỘT NGÀY Quanh quẩn ra vô hết một ngày,Một ngày là mấy kể chi đây.Tiếc cho ba vạn ngày đăng đẳng,Mà cũng ra vô cũng thế này. -----------TỰ TRÀO Lên cao muốn chở núi xanh về,Muốn rủ trăng kia xuống nhậu thi.Sách muốn mới hoài hoa chớ rụng,Trần gian có một khách tham si. Rất ham đọc sách, bất kì loại nào, mỗi năm chỉ làm vài bài thơ mà cũng không muốn lưu lại. Hai người con thông minh của người mất sớm, người trông mong vào tôi mà người coi như con, và tôi mừng rằng đã đã đáp được công của người một phần nào[18]. Sách in rồi, tôi vẫn tiếp tục kiếm thêm tài liệu, đọc ở đâu hoặc được bạn bè (Nguyễn Hữu Ngư…) cho biết thêm điều gì tôi điều ghi lại, cho vào một hồ sơ riêng, để khi tái bản sẽ sửa chữa. Nhờ vậy lần in thứ nhì năm 1968, sách dày thêm được khoảng ba chục trang, lần thứ ba (1974) thêm được hai chục trang nữa, tất cả là 200 trang. Hai lần sau tôi đều giao cho nhà Lá Bối trông nom. Từ năm 1974 đến nay, tôi lại kiếm thêm được ít tài liệu nữa mà tôi sẽ chép trong phần phụ lục; nhưng chắc sẽ không có lần thứ tư.Độc giả ai cũng cho cuốn đó là một trong những cuốn có giá trị của tôi; chính tôi cũng thích nó một phần vì nó ghi lại được hoạt động của các bác, cha, chú tôi. BÀI HỌC ISRAËL – BÁN ĐẢO Ả RẬP Hai cuốn nữa tôi cũng đắc ý là: Bài học Israël và Bán đảo Ả Rập. Tài liệu về hai cuốn đó, tôi thu thập trong năm sáu năm được khá nhiều. Hồi đó, may mắn, một người cháu tôi Tô Lệ Hằng, đi du lịch ở Israël, gởi về cho tôi một số tài liệu mà người khác không có được, nhờ vậy phần III cuốn Bài học Israël, về tổ chức Quốc gia và sự phát triển kinh tế của Israël, nhất là về các nông trường Kibboutx, Mochav Ovedim, Mochav Chitoufi, tôi viết rất đầy đủ, nhiều độc giả chú ý tới. Dân tộc Israël có thể làm gương cho ta về đức đoàn kết, anh dũng, kiên nhẫn, và về tài tổ chức. Nhưng họ thành công rồi thì hoá ra kiêu căng, có óc thực dân, tôi không ưa. Tôi thích cuốn Bán đảo Ả Rập hơn. Các dân tộc Ả Rập đau khổ chiến đấu, bị liệt cường chia rẽ, thao túng, cứ ngoi lên được một chút thì lại bị dìm xuống; tình cảnh, thân phận của dân tộc I Rak trước cách mạng 1958 thật giống dân tộc mình thời đó. Những chương chúng tôi viết về lịch sử kiến quốc của Ả Rập Seoudite, về cuộc cách mạng của Ai Cập, của I Rak là những chương tôi thích nhất. Có những nhân vật y như trong Đông Chu liệt quốc. Đời một dân tộc cũng như đời của một cá nhân, trong thời đau khổ chiến đấu mới có nhiều trang sử hay. Một độc giả, ông Nguyễn Quí Toàn, trên tờ Diễn Đàn số 17 (1969), khen cuốn đó: “Nguyễn Hiến Lê có cốt cách một học giả thận trọng, lại có lối trình bày sáng, giản di của một nhà văn (…) Văn (của ông) đầy hình ảnh, cụ thể và lôi cuốn như tiểu thuyết”. Tôi cũng nhận thấy cuốn đó viết hay hơn cuốn Israël. Cả hai cuốn tôi đều viết rất mau và hứng thú. Khảo về sử hiện đại của bán đảo Ả Rập (trên đó có Israël) tôi càng thấy rõ cái hại của thực dân. Trong bài tựa cuốn Israël tôi viết: “Thực dân nào, bất kì Đông hay Tây cũng chỉ nghĩ tới quyền lợi của họ trước hết: còn có lợi cho họ thì họ giúp, bất lợi thì họ bỏ, đàn áp… Đi theo thực dân thì luôn luôn lợi bất cập hại (…) không sớm thì muộn, thế nào cũng khốn đốn, điêu tàn với họ (…) chỉ đem thân ra làm quân tốt thí cho họ trên bàn cờ quốc tế”. Có phải vì bài tựa đó không mà Bài học Israël, năm 1973 bị Nha Thông tin Văn hoá làm khó dễ, dìm trong mấy tháng trời khi xin phép tái bản, rồi năm 1975 bị một số cán bộ rỉ tai các sạp sách là không nên bán, mặc dù nó không có tên trong danh sách các tác phẩm bị cấm lưu hành. Vào khoảng 1969, tôi mua được trọn bộ Lịch sử Văn minh (32 cuốn) của Will Durant, dịch ra tiếng Pháp, do nhà Rencontre ở Lausanne (Thuỵ Sĩ) xuất bản. Bộ đó rất hay, ông bà Durant để ra ba chục năm, tham khảo mấy ngàn cuốn sách, đi du lịch gần khắp thế giới, để viết nó. Năm 1970 tôi dịch cuốn Văn minh Ấn Độ (550 trang), Lá Bối in. Để viết bài tựa 16 trang cho cuốn đó, tôi đã gởi thư qua Thuỵ Sĩ nhờ nhà Rencontre kiếm cho tôi những tài liệu về đời sống và sự nghiệp của Will Durant. Độc giả hoan nghênh, một vị viết thư yêu cầu tôi dịch trọn bộ. Tôi đáp cũng muốn vậy lắm, nhưng trong nước phải có ít nhất là ba ngàn độc giả như ông ta thì nhà Lá Bối mới dám tiếp tục. Sau tôi chỉ dịch thêm bốn cuốn nữa: Văn minh Ả Rập, Bài học của lịch sử, Nguồn gốc văn minh và Văn minh Trung Hoa[19]. Cuốn sau chưa kịp in thì thay đổi chế độ. Những cuốn đó đều có ích, nhất là Bài học của lịch sử. KINH TẾ Về kinh tế tôi chỉ có một cuốn: Một niềm tin ở trên đã giới thiệu rồi. Sách viết gọn, sáng sủa và đầy đủ, để phổ biến những luật phát triển kinh tế và những vấn đề cùng đường lối phát triển kinh tế tại các nước lạc hậu mà người ta gọi là thế giới thứ ba. Một người điểm sách khen là “tác giả viết với tấm lòng yêu nước nồng nàn”. Một vài suy luận của Fourastié trong cuốn đó đã hoá sai. Như (tr.65) ông tiên đoán khoảng vài thế kỉ nữa, số dân hoạt động tại các nước tiên tiến sẽ như sau: 10% về hoạt động sơ đẳng, 10% về hoạt động nhị đẳng[20], 80% về tam đẳng. Hiện nay tại Mĩ, hoạt động sơ đẳng chỉ chiếm 5% số dân hoạt động; và nhờ sự phát triển của kĩ thuật điện tử, có thể chỉ đầu thế kĩ tới hoạt động nhị đẳng chỉ còn 10% số dân hoạt động. TIỂU PHẨM Tiểu phẩm là những bài văn ngắn từ mươi trang trở xuống viết về bất kì vấn đề gì (tự sự, nghị luận, phê bình…) và có tính cách độc lập nghĩa là không trích từ một tác phẩm dài ra. Trong loại tiểu phẩm tôi có thể kể nhiều bài mà tôi đã gom lại trong hai cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa, Mười câu chuyện văn chương đã xuất bản, và trong hai tập Để tôi đọc lại, Mười tám câu chuyện thời sự chưa in thành sách. Dưới đây tôi giới thiệu một số bài tôi đắc ý vì có tính cách nghệ thuật ít nhiều, lí luận xác đáng, và nhất là ghi được tâm tư, những nỗi vui buồn, phẩn uất của tôi. Nói như Hàn Dũ thì đây là những “Bất bình tắc minh” của tôi, “bất bình” hiểu theo nghĩa rộng là không có sự quân bình (bất đắc kì bình), là xúc động mạnh. ° Trên các báo định kì tôi đã gởi đăng một số bài có tính cách bút chiến, như những bài về tư thục, về chuyển ngữ ở đại học (đã giới thiệu ở trên) hoặc những bài: - Vấn đề kiểm duyệt (Bách Khoa – 1969) - Nhà cầm quyền và dư luận (Bách Khoa – 1966), bài này bị kiểm duyệt bỏ nhiều quá, mất gần hết ý nghĩa. - Vấn đề thông cảm lẫn nhau giữa chính quyền và nhân dân (1961), bị kiểm duyệt bỏ trọn. - Thân phận người dân các nước chậm tiến (1966), Bách Khoa không đăng vì sợ bị trù. Những bài trên tôi gom lại trong tập: Mười tám câu chuyện thời sự. Hai bài tôi đắc ý nhất, giá trị ngang với cổ văn Trung Quốc là: - Ý nghĩa cái chết của giáo sư Trần Vinh Anh. Ông Anh là một giám khảo trong kì thi Tú tài I ở Nha Trang năm 1967, bị một bọn thí sinh ghét vì ông nghiêm chỉnh giữ kỉ luật trường thi mà đâm ông túi bụi ở trước một quán ăn, và ông đã tắt thở. Hay tin tôi xúc động mạnh, viết một hơi trong bài trên. Mạt sát cả Bộ Giáo dục, lẫn cha mẹ học sinh, giọng phẩn uất bừng bừng trên ngọn bút. Ông Giản Chi đọc xong khen: “ngắn mà hay”. - Cụ Phan và lòng dân Năm 1967, ông Lê Văn Hảo, giáo sư đại học Văn khoa Huế vào Sài Gòn nhờ tôi viết cho một bài cho số kỉ niệm 100 năm năm sinh Phan Bội Châu và tôi gởi ông bài Cụ Phan với lòng dân. Bài đó rất được bạn văn thích, cả Nam lẫn Bắc. Tôi kể lại lòng ngưỡng mộ của dân làng tôi hồi năm 1925 đối với cụ Phan và đả bọn thực dân Pháp đã bị cái lợi ám nhãn không nhận ra tinh thần ái quốc của dân tộc chúng ta, để đến nỗi non 30 năm sau phải chịu cái nhục ở Điện Biên Phủ. Câu cuối bài: “Nhưng nào phải chỉ có Pháp mới ngốc”, tiên đoán rằng Mĩ cũng sẽ bị nhục như Pháp. Nên kể thêm hai bài: - Đả phá dễ hay xây dựng dễ, tôi đã giới thiệu ở chương XXVII. - Con đường hoà bình, mới đầu đăng trên một số kỉ niệm Nhất Chi Mai của Hội Phật giáo thống nhất, sau nhà Lá Bối in thành một tập mỏng trong loại Bông hồng cài áo. Tôi hô hào gột bỏ hết những nhiễm độc của Tây phương, gột bỏ tinh thần kì thị, phe đảng, gột bỏ những ý thức hệ ngoại lai, mà trở về tinh thần bao dung, bất đồng nhi hoà của tổ tiên, có vậy mới đoàn kết quốc dân, thống nhất quốc gia được. Con đường hoà bình ở đó. Sau năm 1975, một luật sư bị một bạn đồng nghiệp tố cáo và suýt mang hoạ vì đọc tập đó. ° Loại tuỳ bút, phải kể trước hết hai bài rất ngắn viết trước 1945 và sau trích dẫn trong Hương sắc trong vườn văn: - Hương và sắc, giọng nửa biền nửa tản, lời bóng bẫy có chỗ du dương, đại ý là trọng hương hơn sắc. Đó chính là bản tính của tôi: bất kì ở đâu, vườn dù hẹp tôi cũng trồng những cây cao có hương thơm như hoàng lan, ngọc lan chứ không trồng các loài chỉ có sắc mà không hương, lại mất công săn sóc.[21] - Con vịt, có chút triết lí hoài nghi như Anatole France; giọng bài này - nhiều đối thoại – chịu nhiều ảnh hưởng của Tây phương, khác hẳn bài trên chịu ảnh hưởng Trung Hoa. - Nhưng tôi thích Hoa đào năm trước hơn cả. Bài này cũng ngắn, in trong loại Bông hồng cài áo của nhà Lá Bối, nửa là hồi kí, nửa là nghị luận, giọng tự nhiên, cảm động, lời đẹp, ai đọc rồi cũng thấy mang mang nhớ nhung một cái gì đã mất. Đoạn kết buồn man mác: “Nay bóng chiều đã xế, tôi nghiệm rằng những cảnh đẹp nhất mà ta được thấy luôn luôn chỉ thoáng hiện rồi biến mất. Không sao gặp lại được lần lần thứ hai (…) Vì phải có sự giao hội kì diệu mà hữu tình của biết bao cái ngẫu nhiên, từ người và vật tới mây nước, ánh sáng, hương thơm, tâm trạng… cùng nhau tấu lên một hoà khúc thì mới gây cho ta được một cảm giác hoàn toàn thoả mãn về tinh thần, một cảm giác phơi phới, nửa hư nửa thực, đột ngột mà bâng khuâng. Ta thấy lòng ta nở ra, ngũ quan mẫn tuệ, tinh thần thanh thoát như chơi vơi. Một đời người hưởng được vài ba phút mà dư hưởng bất tuyệt đó, tôi tưởng đã là phước lớn. Nó quí ở chỗ không bao giờ tái hiện và rất ngắn ngủi. Đừng kiếm nó lại, vô ích, mà đừng mong cho nó kéo dài… Cái tuyệt mĩ bao giờ cũng phù du mà lại thọ nhất”. - Có thể kể thêm vài bài trong Hương sắc trong vườn văn như Cái thần trong văn… và trong Mười câu chuyện văn chương như Kĩ nguyên tiêu thụ và nghề viết văn… ° Hồi kí về người thân như cha mẹ tôi, con tôi trong Làm con nên nhớ; về bà ngoại tôi, mẹ tôi trong Cháu bà nội tội bà ngoại (hai bài trên đều do nhà Lá Bối xuất bản trong loại Bông hồng cài áo); về thầy học trong Thầy học tôi: cụ Dương Quảng Hàm (Bách Khoa – 1966); về bạn như Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên, Đất Hà Tiên với họ Mạc và họ Lâm đăng trên Bách Khoa nhân ngày giỗ đầu 1979, và giỗ cuối 1971 của Đồng Hồ, bài trên ghi công của Đông Hồ với Việt ngữ, bài sau ghi công của Đông Hồ với đất Hà Tiên, quê hương của ông. Ai cũng nhận hai bài đó hơn tất cả các bài từ trước tới nay viết về ông, và tóm tắt đủ sự nghiệp rất đặc biệt của ông. Sau Đông Hồ, tôi còn phải khóc Hư Chu trong bài Hư Chu (Bách Khoa năm 1973). Đời ông ngắn, sự nghiệp của ông cũng ngắn, nhưng ông rất nghệ sĩ, cũng nổi danh sớm mà được nhiều bạn mến vì tính hồn nhiên, vui vẻ. Cảm động nhất, ngày nay mỗi lần đọc lại tôi đều rơm rớm nước mắt là những bài viết về người thân của tôi. Bài Làm con nên nhớ là một lời sám hối làm cho Đông Hồ rơi lệ khi đọc rồi, đương đêm viết ngay cho tôi một bức thư dài, sau tôi sắp chung với bài của tôi, đưa cho nhà Lá Bối in. Bài Cháu bà nội tội bà ngoại kể lại tình thương của bà ngoại tôi, công của bà và của mẹ tôi, mà tôi chưa đền đáp được chút nào. Tôi cũng sụt sùi khi viết bài đó như bài trên và một bạn văn, ông Châu Hải Kì ở Nha Trang cũng sụt sùi đọc nó như Đông Hồ đọc bài trên. ° Tôi đã viết bốn năm chục bài tựa cho các tác phẩm của tôi và hai chục bài cho tác phẩm của người khác. Ai cũng nhận rằng tôi viết hay cho nên vài bạn văn nhờ đề tựa cho hai ba cuốn. Hai đã là quá nhiều rồi, mà phải là hai cuốn trong hai loại khác nhau thì tôi mới nhận lời. Và tôi cũng chỉ nhận cho bạn văn thôi. Ông Châu Hải Kì có lần khuyên tôi nên lựa những bài tựa vừa ý hơn hết, cho vào một tuyển như một nhà văn nào đó của Pháp. Tôi không làm việc đó khiến ông bực mình, nhưng sau sau 1975, tôi cũng lựa ít bài cho vô tập: Để tôi đọc lại (không xuất bản)[22]. Tựa tôi viết cho tôi mà tôi lấy làm đắc ý: - Cổ văn Trung Quốc: Có giọng cổ văn, hợp với nội dung tác phẩm: mạnh, giản, bóng bẩy mà minh bạch, cảm thán thành thực, nửa trên ghi lại một hồi kí thời thiếu niên, nửa dưới tả tâm sự và tài của cổ nhân.- Thế hệ ngày mai: phần trên cảm động chép tình của cha mẹ đối với con trong hai buổi học đầu tiên của tôi và của con tôi.- Đại cương văn học sử Trung Quốc: Đoạn kết từ “Trăng mới ló dạng” tới cuối lời đẹp và có giọng cảm thán.- Tương lai ở trong tay ta: Tôi ví đời người với một cuộc thám hiểm, ai cũng phải tự tìm lấy con đường của mình, như Magellan đi vòng quanh thế giới.- Quảng gánh lo đi: Đoạn đầu giọng cũng cảm thán vì đời người là một bể thảm, đúng như Đoàn Như Khuê nói, dù sang hèn, giàu nghèo, ai cũng đáng thương như ai hết.- Bán đảo Ả Rập: Tôi tóm tắt được bi kịch của bán đảo đó trong câu đầu: nó bị Dầu lửa chi phối mạnh hơn Hồi giáo. Lời lưu loát mà giọng rất mỉa mai, phẫn uất.- Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười: Tình thương của các bà già miền Nam. Đoạn mở đầu đột ngột và lí thú.[23] Tựa viết cho các bạn: - Úc viên thi thoại của Đông Hồ. Mở đầu tôi giảng tại sao thi thoại khó viết: phải vừa là nhà thơ vừa là nhà văn, có danh, có uy tín, lịch lãm nhiều, đọc sách nhiều.Đoạn giữa tôi nhắc lại những hồi ức Đông Hồ, chứng tỏ ông có đủ những điều kiện trên.Vì bài tựa đó bà quả phụ Đông Hồ, nữ sĩ Mộng Tuyết, nhờ tôi viết khi xuất bản tác phẩm của chồng, nên cuối bài tôi ghi lại việc đó: “Chẳng qua nữ sĩ Mộng Tuyết nghĩ rằng sinh thời thi sĩ coi tôi vào hàng tâm giao nên bây giờ cho tôi được kí tên dưới tên thi sĩ đấy. Tấm lòng đó thật cảm động. Xin ghi ơn nữ sĩ”.Thi sĩ Quách Tấn khen bài đó tôi không làm văn mà lời rất cảm động.- Đất nước quê hương của Võ Phiến.Bút pháp bài này cũng giống bút pháp bài tựa Úc viên thi thoại. Mở đầu tôi cũng xét về thể tuỳ bút: nó rất tự do, gặp gì chép nấy, nghĩ sao nói vậy, tưởng là dễ viết mà thực ra rất khó; phải có giọng thân mật, hấp dẫn như một câu chuyện thanh nhã giữa những người bạn đồng điệu lúc ngồi bên giàn hoa hay một ấm trà, lời phải tự nhiên, có duyên, nội dung phải thay đổi, có ý vị.Đoạn giữa tôi cũng chứng tỏ Võ Phiến có đủ điều kiện đó. Nhưng đoạn kết thì khác, tôi bảo nhờ thượng cấp của ông – ông là nhân viên Nha Thông tin – muốn trừng phạt ông mà ông có dịp đi đây đi đó khắp trong nước, viết được tập Đất nước quê hương. “Vậy trong cái rủi vẫn thường có cái may. Và khi một nhà văn biết lợi dụng nghịch cảnh thì chẳng những có ích cho mình mà còn có ích cho độc giả, cho văn hóa nữa”.Đông Hồ thường khen với tôi rằng Võ Phiến viết tuỳ bút hay nhất trong Nam. Tôi rất vui được họ Võ nhờ viết bài tựa đó.- Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu của Nguyễn Văn Hầu.Bố cục bài này tự nhiên mà lạ. Mới đầu tôi nói về miền Tây Nam Việt, rồi thu lại, nói về miền Hồng Ngự - Cao Lãnh (tôi gọi là miền Hồng Cao); sau thu lại nữa, nói riêng về Cao Lãnh, quê hương của Nguyễn Quang Diêu; lại thu nữa, nói về đời Nguyễn Quang Diêu và ông Nguyễn Văn Hầu tác giả cuốn sách; đây là tâm điểm của bài tựa. Từ tâm điểm tôi toả ngược ra nói về các nhà cách mạng ở miền khác; rồi nói tới các học giả các miền khác có tân học và cựu học như Nguyễn Văn Hầu, và tự hỏi tại sao Viện Khảo cổ không biết nhờ họ giúp sức cho mau kết quả. Rồi tôi lại toả rộng ra nữa, nói về tất cả các công việc văn hoá khác: Khảo cứu địa lí, soạn Tự điển v.v…; sao chính quyền không nhờ toàn dân giúp sức mà cứ ôm lấy hết về mình. Và cuối cùng tôi kết: “… khi toàn dân thấy có thể giúp chính quyền trong mọi phạm vi, có trách nhiệm hợp tác với chính quyền trong mọi hoạt động, thì lúc đó mới có sự đoàn kết thực sự và công việc xây dựng quốc gia mới tiến triển mau được”.Như vậy là từ tâm điểm toả ngược ra lần lần, cuối cùng bao cả vòng khởi thuỷ. Văn ba lan, tiến lui như những đợt sóng.Bài Tựa đó, ông Đông Hồ khen là: “còn hay hơn cả cuốn sách”. Mấy năm sau đọc lại, tôi mới nhận ra rằng bút pháp bài đó giống hệt bút pháp của Tăng Củng trong bài Kí Âu Dương Xá nhân thư mà khi viết tuyệt nhiên tôi không nghĩ tới. Cổ văn thâm nhập vào tôi mà tôi không hay. - Bài được các bạn văn khen hay nhất là bài Tựa tập Qê hương của Nguyễn Hữu Ngư. Tôi tả kĩ dáng người, y phục, cử chỉ, ngôn ngữ của tác giả, vạch tình của ông đối với nước, với nhà, bạn bè; ghi lại những lúc ông bị thất vọng mà muốn hoá điên, đi lang thang khắp nơi bị cảnh sát nhốt, đánh đập… khiến tôi nhớ tới Từ Vân Trường đời Minh bên Trung Quốc mà Viên Hoàng Đạo cho là “vô chi vi bất kì” cho nên “vô chi vi bất kì”, vì khác người nên gặp cảnh gian truân, trắc trở. Nguyễn Hữu Ngư quả là một kì nhân ở nước ta, mà tập Qê hương cũng là một kì thư: nội dung thật loạn, đủ các thể, đủ thứ tài liệu, không thể đặt nó vào loại nào được cả.Tôi nhớ hôm ông lại tôi lấy bài Tựa rồi không ra về mà ngồi bệt ngay xuống dưới mái hiên để đọc. Tôi ở trên lầu nhìn xuống, đợi ông đọc xong, hỏi: “sao, anh có vừa ý không?”. Ông cười, đáp: “Ngoài ước vọng nữa”.Ông mất năm 1978, sau khi ở Dưỡng trí viện Biên Hoà về nhà được độ một tháng. Bạn bè ai cũng thương tiếc.Ngoài ra nên kể bài Tựa:- Cuốn Trần Quí Cáp của Lam Giang do con cháu nhà cách mạng họ Trần nhờ viết; và cuốn Thi văn Hán Việt của Đông Xuyên mà đoạn cuối giọng rất thân mật. ° Du kí: Tôi chỉ có hai tập: Đế Thiên Đế Thích, và Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười mà tôi đã giới thiệu trong một chương trên. ° Sách dịch: - Sống đẹp: Tôi xin nói trước hết về tập Sống đẹp của Lâm Ngữ Đường, thuộc loại cảo luận, rồi sẽ xét các tiểu thuyết sau. Cuốn nào tôi dịch cũng kĩ, nhưng thích nhiều hay ít dĩ nhiên là tuỳ nội dung từng cuốn, tài của tác giả. Lâm Ngữ Đường viết cuốn Sống đẹp bằng tiếng Anh, nhan đề là The Importance of living từ 1937. Khoảng 1957 tôi được đọc bản dịch ra tiếng Pháp L’Importance de vivre của nhà Corrêa, thấy tác phẩm rất hay mà bản dịch kém. Mấy năm sau tôi thấy ở nhà xuất bản Á Châu một bản Việt dịch hình như của Vũ Bằng[24] cũng tấm thường mà lại cắt bỏ nhiều quá, chỉ còn độ một phần ba, như vậy ý nghĩa của tác phẩm không còn gì cả. Từ đó tôi có ý dịch lại, muốn vậy phải có nguyên bản tiếng Anh và phải tra được những nhân danh, địa danh bằng chữ Hán. Năm 1964 tôi viết thư hỏi thẳng tác giả ở Mĩ. Ông hồi âm liền từ Thuỵ Sĩ, nơi ông đang du lịch, vui vẻ cho phép tôi dịch, và cho biết nguyên bản tiếng Anh không còn, nhưng có bản Hoa dịch nhan đề là Sinh hoạt đích nghệ thuật. May sao ông Giản Chi có bản này (do Việt Duệ dịch – nhà Thế giới Văn hoá xuất bản – 1940) và cho tôi mượn. Bản đó đầy đủ, chép hết những cổ văn, cổ thi Trung Hoa mà Lâm Ngữ Đường dẫn trong tác phẩm và nhiều khi chép thêm bản dịch những bài đó của Lâm nữa. Thế là tôi có được hai bản của Hoa và Pháp. Tôi so sánh rồi khởi công dịch liền, cuối năm 1964 xong. Trong khi dịch, luôn ba hay bốn tháng, tôi thấy vui gần như hồi trước dịch cuốn Quẳng gánh lo đi, vì nhân sinh quan nhà tản của Lâm – mà chính là của Trung Hoa – vì tinh thần nghệ sĩ và hài hước của ông, vì giọng tự nhiên, thân mật, đôi khi như cười cợt, đùa bỡn nữa, không khác một cuộc đàm thoại chung quanh một bình rượu hay một ấm trà giữa những người bạn đồng điệu. Nhờ có những văn thơ bằng chữ Hán, khỏi phải dịch theo bản tiếng Anh hay Pháp, nên tôi biết chắc rằng bản dịch của tôi sẽ được hoan nghênh, độc giả sẽ thích hơn là đọc nguyên tác của Lâm. Cuốn Sống đẹp bán chạy. Nhà Tao Đàn in hai ba lần mỗi lần ít nhất 3.000 bản, lần đầu vào tháng 3 năm 1965. Nhiều độc giả khen là dịch khéo, trong số đó có Đông Hồ. Một độc giả tôi chưa hề quen, bác sĩ Trần Văn Bảng (học trường Bưởi trước tôi vài năm) thích quá, làm một bài thơ nhan đề là Sống đẹp gởi tặng tôi. Bài gồm 5 đoạn, tôi chép lại đây đoạn giữa:---Đây tư tưởng chín tầng mây siêu việtSang sảng nghe tiếng nói của thánh hiềnNgọc chuốt, châu gieo, lời vàng, ý thépKhiến tâm linh hoan lạc cõi vô biên--- Từ đó chúng tôi thành bạn thân. Ông hồn nhiên, vui tính, hình như sống hơi lôi thôi, thích làm thơ, đánh mạc chược, chắc đã lựa lầm nghề y sĩ. Năm 1977, trước khi qua Pháp đoàn tụ với con, ông lại thăm tôi, xin một bản Sống đẹp để mang theo. Ít bữa sau ông trở lại, đưa hai tay lên trời, bảo: “Họ không cho mang theo mà còn tịch thu nữa”. Vài tác phẩm của Lâm viết bằng tiếng Anh được dịch ra 14 thứ tiếng, và có hồi ông làm Trưởng ban Văn nghệ cơ quan Văn hoá Liên hiệp quốc. Mấy năm nay ông Bảng vẫn liên lạc với tôi bằng thư, vẫn vui sống, thỉnh thoảng làm một bài thơ “tếu”, tôi tặng ông biệt danh Tú Sụn (vì đã có Tú Xương và Tú Mỡ rồi). - Chiến tranh và Hoà bình Trong tạp chí Tân Văn năm 1969, không nhớ tháng nào, đăng bài Tôi dịch Chiến tranh và Hoà bình kể lại do đâu tôi dịch bộ đó và dịch khó nhọc mà vui ra sao. Trong một chương trên tôi đã kể lối dịch bộ đó; trong phần giới thiệu [Chiến tranh và Hoà bình] tôi cũng đã phân tích nghệ thuật của Tolstoi, đây chỉ xin ghi lại cái duyên văn tự khiến tôi hợp tác với nhà Lá Bối. Tôi thích Chiến tranh và Hoà bình hồi ở trung học, và khoảng 1961-62 tôi đã muốn dịch, đề nghị với hai nhà xuất bản lớn ở Sài Gòn, hễ khi nào thấy có thể in được thì cho tôi hay, tôi sẽ khởi công liền. Tới tháng 9 năm 1966, lời đề nghị đó vẫn chưa được hai nhà đó xét; họ bận quá, có lẽ họ không nhớ tới. Trong bài Đả phá dễ hay xây dựng dễ đăng trên Tin Văn ngày 15.9.66, tôi nhắc lại đề nghị. Bài đăng được khoảng một tháng thì một hôm một vị mà tôi chưa hề gặp mặt lại thăm tôi, tự giới thiệu là Giám đốc nhà xuất bản Lá Bối, tặng tôi ít cuốn sách và nhân đọc bài của tôi đăng trên Tin Văn mà nhờ tôi dịch cho Chiến tranh và Hoà bình. irc;ng không đến nỗi phải ôm hận. Làm nghề cầm bút cũng phải có số, cần gặp thời. Tập đó sau ông đánh máy, gởi cho tôi hai bản, năm 1980 tôi gởi được một bản cho vợ con tôi ở Paris. Tôi quen Dã Lan (tên thật Nguyễn Đức Dụ, quê ở Hải Dương) mới từ mấy năm nay. Ông ở Bắc vô Nam đã lâu, trước hiệp định Genève, làm một vài nghề rồi sau Quản thủ thư viện cho trường Đại học Kiến trúc Sàigon. Để hết thì giờ vào việc nghiên cứu ngành Gia phả, đã soạn được một bộ dày khoảng 500 trang, quay ronéo vài trăm bản, bán trong nước và gởi tặng thư viện vài nước lớn: Pháp, Mĩ, Nhật…, được học giả ngoại quốc khen là công phu. Từ 1975, ông suốt ngày đạp chiếc xe đạp cũ đi tìm tài liệu, phỏng vấn các gia đình danh tiếng, nhất là gia đình văn nhân để viết gia phả, lưu lại những tiểu sử đáng tin về danh nhân cho đời sau, đồng thời cũng để gián tiếp khuyên thanh niên nhớ công tổ tiên, giữ truyền thống dân tộc. Phòng viết của ông treo đầy “phả trạng” các gia đình danh tiếng như họ Cao Xuân Dục, họ Trần Trọng Kim, Đông Hồ, Trương Vĩnh Ký…; trên bàn, cả trên sàn nữa, ngổn ngang sách báo. Hôm đó ông đến tặng tôi một bản khảo về Gia phả[28] bìa bọc gấm và ngỏ ý lập Phả trạng cho gia đình tôi. Tôi cho ông Gia phả tôi đã viết, và thêm ít tài liệu nữa về đời viết văn của tôi. Từ đó lâu lâu ông ghé chơi tôi. Con người đó cũng lạ: chịu sống nghèo, chỉ say mê gia phả, viết được Phả trạng cho gia đình nào, ông tốn rất nhiều công phu, nhưng mùng lắm, mừng hơn chính con cháu gia đình đó nữa. Ông kém tôi khoảng mười tuổi. Ông Toan Ánh[29], quê ở Bắc Ninh, nhỏ hơn tôi vài tuổi, tôi quen từ mười lăm năm nay, có một đam mê khác: ghi chép phong tục Việt Nam. Ông đi khắp nơi từ Bắc vào Nam, đọc sách báo nào, thấy có tài liệu gì về phong tục cổ cũng ghi lại, đã cho ra được trên chục cuốn, có cuốn dày trên 400 trang; hiện ông còn non chục cuốn nữa đã đánh máy rồi, chưa in. Cần có người ghi chép thật nhiều như ông, rồi sau sẽ có người đọc lại, làm một công trình tổng hợp. Cuộc đảo chính hụt năm 1960, ông suýt bị cách chức vì hăng hái hạ hình Ngô Đình Diệm trong sở sớm quá. Bình Nguyên Lộc[30] quê ở Tân Uyên, trước cách mạng tháng tám, làm sở kho bạc, viết rất nhiều truyện ngắn, một số nổi tiếng nhưng chuyện dài tầm thường; về già lại khảo cứu về nguồn gốc dân tộc mình, ngữ nguyên một số tiếng Việt, được hai bộ dày. Thật là một nhà văn cần cù. Muốn hiểu biết miền Nam thì phải đọc Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam. Ông bạn già Đỗ Bằng Đoàn[31] khảo về điển lễ, ca trù Việt Nam, đưa ra nhiều tài liệu quí; Giản Chi và tôi sốt sắng giới thiệu các độc giả mà rồi Tết nào ông cũng cho chúng tôi một gói Vương trà rất ngon. Chỉ người cổ mới có tình thanh nhã như vậy. Ông Nguyễn Văn Xuân[32] quê ở Quảng Nam, lần đầu tiên gặp ông tôi thấy ông phảng phất có vài nét của cụ Phan Sào Nam. Ông viết truyện dài, truyện ngắn (một truyện viết về nghệ thuật đúc cái phèng la của người Thượng, tôi rất thích nhưng quên mất nhan đề; sách dời đi dời lại ba bốn lần, không biết còn hay mất). Ông có tinh thần quốc gia, khảo về phong trào Duy Tân ở Trung, có một tập truyện về các nhà Nho kháng Pháp[33]. Ông Phan Du tôi chưa được gặp, ở Huế, có vài truyện ngắn tôi thích như Hai chậu lan tố tâm, sau viết biên khảo, gởi cho tôi cuốn Mộng kinh sư, nặng lòng hoài cổ.[34] Ông Võ Hồng ở Nha Trang, vừa dạy học vừa truyện dài, đa cảm, bút pháp bình dị, nhẹ nhàng, cảm động. Truyện ông dạt dào tình yêu thời cũ và quê hương xứ sở[35]. Trước ngày giải phóng độ nửa tháng, hoạ sĩ kiêm thi sĩ Tạ Tị cùng với Lê Ngộ Châu lại thăm tôi, vẽ cho tôi một bức chân dung trong năm phút theo lối riêng của ông (để in trên Bách Khoa số 20.4.75) và bảo: “Đây là bức chân dung cuối cùng tôi vẽ”. Không ngờ lời đó đúng[36]. Lần đó ông nhận xét về tôi: “Khi nào anh nói, tôi mới thấy mắt anh bừng lên”. Mới đây Kinh Dương Dương (Nguyễn Tuấn Khanh) bị bắt làm tù binh ở Kontum từ 1975, được thả, lại thăm tôi. Tôi mừng rằng cả thể chất và tinh thần không sút, can đảm lập lại cuộc đời. Nhà văn trẻ đó kiêm hoạ sĩ, là con của một bạn học của tôi ở trường Bưởi. Tôi còn giữ một bức hoạ một cảnh lăng ở Huế của anh. Màu và nét đều buồn như truyện ngắn của anh. Nguyễn Đức Sơn[37] - Trong khoảng 1960-70 ở Sài Gòn có bốn nhà văn thuộc loại “hiện tượng của thời đại: Nguyễn Hữu Ngư, Bùi Giáng (làm thơ khá hay) hơi khùng (Nguyễn thỉnh thoảng lên cơn, Bùi không), cả hai đều trạt năm mươi tuổi; và Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn, đều trạt 35 tuổi, đều “mục hạ vô nhân”: Thiện chửi thiên hạ mà có vẻ trí thức; Sơn tục tỉu, nhưng không ai ghét; Thiện viết về triết, nhai lại những ý chán chường khinh bạc của Phương Tây; Sơn làm thơ, viết truyện ngắn. Họ đều là những kẻ bất mãn. Thiện sau qua Pháp; Sơn thì sau ngày giải phóng, dắt vợ con lên Blao ở, khai thác một trại của nhà Là Bối, trồng lúa, trà, khoai mì, kiếm măng tre, sống y như người dân tộc, thỉnh thoảng về Sài Gòn, ăn bận lôi thôi, cũng đeo cái gùi trên lưng, lại thăm tôi cho một gói trà hoặc một nải chuối, một trái bí rợ. Lúc này đương đợi qua Pháp vì vợ là dân Pháp. Nguyễn Đức Sơn đã in cho tôi cuốn Những vấn đề của thời đại. Tôi không lấy tác quyền. Bốn người đó tôi thỉnh thoảng còn tiếp xúc. Chỉ có hai học giả: Hồ Hữu Tường và Hà Việt Phương (tức Nguyễn Đức Quỳnh trong nhóm Hàn Thuyên trước kia), là có bạn muốn cho tôi gặp mà mấy lần tôi đều từ chối. Tính tình, chủ trương của họ đều khác tôi xa, biết nói chuyện gì với nhau? Hồ Hữu Tường phải đi trại cải tạo, năm 1980 được về, tới nhà thì mất. Còn nhiều bạn nữa, đa số chỉ là những người tôi gặp đôi ba lần, nói với nhau dăm câu chuyện, mà tôi nhớ hơn những bạn trường Công Chánh, sống chung với tôi ba năm trong một phòng học, một phòng ngủ. GIỚI BÁC SĨ Một văn sĩ Pháp bảo có một sự tương thông tương cảm tự nhiên và mạnh mẻ giữa nhà văn và y sĩ. Lời đó đúng. Từ hồi trẻ tôi đã biết rằng nhiều y sĩ thích viết văn, người thì bỏ nghề để chuyên viết, người thì vừa làm y sĩ vừa viết. Mãi đến khi tôi hơi có danh một chút mới thấy y sĩ thường có cảm tình với nhà văn, dĩ nhiên tôi không kể những y sĩ chỉ ham hốt bạc, không bao giờ đọc sách. Tôi gặp một số bác sĩ niềm nở với tôi liền khi tôi xưng danh. Người đầu tiên là bác sĩ Lê Văn Ngôn ở Chợ Lớn. Tôi nhờ ông khám phổi cho, ông chiếu điện, soi rất kĩ, cuối cùng bảo không sao, sẽ sống được tám chục tuổi. Người thứ nhì là bác sĩ Huỳnh Kim Bửu ở đường Lê Thánh Tôn, gần chợ Saigòn. Tôi nhờ ông trị bệnh loét bao tử, ông chỉ sách cho tôi đọc về bệnh đó, và bây giờ sau hơn hai chục năm không gặp nhau mà ông còn hỏi thăm tôi. Người thứ ba là bác sĩ Nguyễn Văn Tạo trị bệnh lao phổi cho tôi. Ông trị rất kĩ và thường chuyện trò với tôi. Người thứ tư là bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm trị bệstyle='height:10px;'>°
Nay ôn lại những năm từ 1961 đến 1974, mua được căn nhà ở đường Kì Đồng rồi, tôi rút công việc xuất bản tới mức tối thiểu, để toàn lực vào việc viết văn. Được vài tờ báo và vài ba nhà xuất bản yêu cầu hợp tác, nhờ vậy mà tôi viết được khá nhiều, trong nhiều lãnh vực, khiến có người phải ngạc nhiên rằng về vấn đề gì tôi cũng bàn được với một tinh thần nghiêm túc, bằng một bút pháp giản dị, sáng sủa. Năm 1975, trên một bài báo, Võ Phiến khen tôi: “Ông Nguyễn có cái tài của một nhà giáo là trình bày ý kiến thật rành mạch, khiến những vấn đề rắc rối, tối tăm nhất cũng hoá ra giản dị, minh bạch”. Có thể nói những năm đó tôi sống đầy đủ nhất, được cảm tình của nhiều độc giả nhất, được thêm nhiều bạn văn nhất, uy tín lên nhất. Những bạn văn đó đều giúp tôi được nhiều, đều lưu lại nhiều kỉ niệm đẹp cho tôi. Tôi nhớ hồi tôi đau nặng, nấc cục luôn một tuần, ông Trí Đăng tự ý tìm thuốc cho tôi uống, và coi vợ chồng tôi như người thân trong nhà. Hôm nay trời u ám, nhìn chung quanh, mười bạn chỉ còn vài ba, những người khác ở chân trời gốc bể cả. Tôi bùi ngùi nhớ lại câu thơ của Tú Xương: “Người xa, xa có nhớ ta không?”[28][1] Muốn giỏi toán hình học, đại số tức ba cuốn: Muốn giỏi toán hình học phẳng, Muốn giỏi toán hình học không gian, Muốn giỏi toán đại số. (Goldfish).[2] Đoạn trích này có vài khác biệt nhỏ, so với bài viết của BS Đỗ Hồng Ngọc đăng lại trong cuốn Nguyễn Hiến Lê – Con người và tác phẩm, Nxb Trẻ, năm 2003. (Goldfish). [3] Nay là lớp Một. (Goldfish).[4] Ở đây, ông Nguyễn Hiến Lê goi tắt cho gọn, thực ra các nhan đề do chính André Maurois đặt lại dài hơn. Tiểu sử về George Sand là Lélia ou la vie de George Sand, về Victor Hugo là Olympio ou la vie de Victor Hugo, về Balzac là Prométhée ou la vie de Balzac. Riêng về Marcel Proust thì Maurois lấy luôn nhan đề tác phẩm chính của Proust. Tiểu sử về Marcel Proust có nhan đề là À la recherche de Marcel Proust. (BT). [Nhan đề tác phẩm chính của Proust là: À la recherche du temps perdu. (Goldfish)].[5] Nhạc Dương lâu kí của Phạm Trọng Yêm, Thương Lang đình kí 滄浪亭記 của Qui Hữu Quang. (Goldfish).[6] Năm 1989 Nxb An Giang tái bản (BT).[7] Nxb Văn học tái bản 1993 (BT).[8] Vẹn toàn: sách in là vạn toàn. Trong ĐVVCT in là lưỡng toàn. (Goldfish).[9] Trong ĐVVCT còn có thêm đoạn sau đây: “Trong Phụ lục, tôi thêm ba chương chê cuộc Cách mạng Văn hoá 1965-66 của Mao. Năm 1976 trong một cuộc toạ đàm ở Sài Gòn giữa ông Hà Huy Giáp, Thứ trưởng bộ Văn Hoá, ông Hà Xuân Trường, thứ trưởng Giáo dục ở Hà Nội vào, với khoảng mười nhà văn “nằm vùng”, hoặc “tiến bộ” ở Sài Gòn, tôi hỏi ông Giáp: Trong cuốn Văn học Trung Quốc hiện đại tôi có chỉ trích cuộc Cách mạng Văn hoá năm 1966 của Trung Hoa, như vậy có hợp với đường lối của chính phủ không? Ông do dự một chút rồi đáp: - Tôi không biết cuộc cách mạng đó ra sao, nhưng mỗi nước có một đường lối văn hóa riêng. Lúc đó tôi mừng lắm. Chính phủ Việt
[1] Tức bài thơ Trưng nữ vương của nữ sĩ Ngân Giang. (Goldfish) [2] Coi trong Văn thi sĩ hiện đại của Bàng Bá Lân – Nxb Xây Dựng. [3] Giống mai này gọi là Nam mai, thuộc loại mù u, đồn Cây Mai ở Chợ Lớn có mấy gốc, nay không biết còn không. Bà Đông Hồ 8 năm trước cho tôi một gốc nhỏ, trồng ở Long Xuyên nay đã cao non hai thước mà vẫn chưa có hoa). [4] Trong ĐVVCT chép: Một cành Xuân gởi nghìn trân trọng/ Sử dịch trao tay mở nẻo đường. (Goldfish). [5] Nay là Thư viện Tổng hợp TP.HCM. [6] Vì câu nói đừa đó mà sau này cụ Giản Chi khi nhắc lại học giả Nguyễn Hiến Lê, ông thường đùa, bảo: “Bác ấy gọi tôi là tướng cướp! Bố láo thật!”. (BT). [7] Trong ĐVVCT in là: “…bớt ngờ tương lai”. (Goldfish). [8] Coi trong phụ lục dư luận trên các báo ở Sài Gòn về giải thưởng này. [9] Trong ĐVVCT in là: “Mây sớm…”. (Goldfish). [10] Ông dạy ở Huế, trở Sài Gòn bằng máy bay Boing bay cao 9.000 thước. [11] Tức cuốn Vương Ma Cật hoạ sư thi Phật, sắp xuất bản. (BT). [12] Ông có nhớ lầm không? Bài đó làm năm 1939, Nhật chưa qua Việt