TỰ CHỮA TRỊ VÀ THẦY CHỮA TÂM LINH 'Hỡi thầy thuốc, hãy tự chữa cho mình" Jesus ======================== Nhập đề CẢI BIẾN VÀ TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI BẢN THÂN Bạn và chỉ có bạn là chịu trách nhiệm về sức khỏe của mình. Nếu bạn có một vấn đề thể chất, bạn phải có quyết định cuối cùng để theo đuổi một chương trình chữa trị riêng biệt. Bạn chỉ quyết định như vậy khi bạn thực sự chăm lo hết mức. Để bắt đầu, bạn chọn trong trận đồ rộng lớn sự giúp đỡ sẵn có cho hiệu lực đối với bạn. Bạn tin ai? Bạn theo đuổi việc chữa bệnh trong bao lâu trong khi bạn không thể nói được là nó có tác dụng hay không? Chỉ có thể trả lời những câu hỏi này từ sự tìm tòi sâu sắc cái thích hợp với bạn. Nếu bạn không tin vào chẩn đoán thì không có gì là sai trái với quan niệm thứ hai hay thứ ba hoặc một kỹ thuật khác nói chung. Nếu bạn lẫn lộn điều bạn đã nghe nói về tình hình ốm yếu riêng của mình, thì hãy hỏi thêm bác sĩ, tìm vài cuốn sách, học hỏi điều mà bạn có liên quan. Hãy nhận lấy trách nhiệm đối với sức khỏe của bạn. Hơn tất cả là đừng để cho bản thân bạn bị giới hạn vào một tiên lượng tiêu cực. Tốt hơn là hãy coi đó như một thông điệp để nhìn sâu sắc hơn vào bản thân và rộng rãi hơn vào trong các phương pháp xen kẽ có thể có. Y học tiêu chuẩn phương Tây có nhiều câu trả lời, nhưng không trả lời được tất cả các câu hỏi. Nếu nó vô hiệu trong việc chữa một bệnh nào đó thì bấy giờ hãy nhìn vào một nơi khác. Hãy nhằm vào mọi cơ sở. Bạn sẽ ngạc nhiên rằng có biết bao điều phải học hỏi về bản thân và về sức khoẻ của mình. Sự tìm tòi sẽ thay đổi cuộc đời bạn theo những cung cách mà bạn không hề mong đợi. Tôi gặp nhiều người mà bệnh tật cuối cùng đã đem lại cho họ một niềm vui lớn lao, một sự nhận biết cũng như đánh giá sâu sắc cuộc đời và sự đáp ứng mà họ không thể thực hiện được trước khi ốm đau. Nếu ta có thể chỉ thay đổi thái độ đối với bệnh tật thành một thái độ chấp nhận và nhận thức rằng đó là một thông điệp cần được nghiên cứu, thì ta sẽ làm nhẹ bớt đi nhiều nỗi sợ hãi của ta về bệnh tật, không những ở mức cá nhân mà có thể cả ở mức quốc gia hay toàn cầu. Trong phần này, tôi sẽ trình bày những điều gợi ý của tôi về cách thức giữ gìn sức khỏe. Điều đó bao gồm việc thực hành hàng ngày từ đó mà chọn lựa cũng như dẫn giải về chế độ ăn, không gian và y phục. Nhưng trước hết, bạn cần phải yêu thương để giữ lấy sức khỏe của mình. Yêu thương bản thân cũng đòi hỏi thực hành hàng ngày. GƯƠNG MẶT CỦA NỀN Y HỌC MỚI: BỆNH NHÂN TRỞ THÀNH THẦY CHỮA Do cách nhìn của ta về bệnh tật thay đổi, phương pháp chữa trị cũng thay đổi. Vì ta trở nên có khả năng hơn trong chẩn đoán và chữa trị nên có thể định rõ hơn các chương trình chữa bệnh của mình. Mỗi cá thể là đơn nhất và đòi hỏi một sự phối hợp hơi khác biệt các tác nhân sử dụng trong quá trình chữa trị. Từng buổi chữa cũng khác nhau. Thầy chữa phải chuẩn bị một vốn kiến thức rộng lớn, dồi dào yêu thương và có tiếp cận tốt với các hướng đạo tâm linh của mình trong chữa trị và dẫn kênh. Do chỗ ta đi vào một phương pháp chữa bệnh tế nhị hơn, nên việc thực hành trở thành một nghệ thuật. Đây là công trình nghiên cứu chi tiết về một bệnh nhân mà tôi đã tiến hành trong hơn hai năm, công trình này chứng minh rằng điều tôi nghĩ là một cái nhìn hé cỏn con vào cái ở phía trước chúng ta. Tôi chọn David vì công trình nghiên cứu về anh minh họa cho mọi mức độ và giai đoạn chữa trị. Nó cho thấy chữa trị sâu có thể đi vào cấu trúc nhân cách như thế nào khi được tiến hành trong thời gian lâu. Heyoan đã nói rằng "chất liệu chính xác dùng với liều lượng chính xác tại thời điểm chính xác thì tác động như một chất liệu cải biến". Trong công trình nghiên cứu này tôi sử dụng phối hợp thao tác bàn tay, trực tiếp nhận thông tin và phân tích động lực tâm lý. Những việc này kết hợp với sáng kiến riêng của bệnh nhân và trách nhiệm của anh ta đối với bản thân không những có tác động chữa bệnh mà còn đem lại những đổi đời sâu sắc. Những thay đổi sâu sắc này chỉ có thể xảy ra nếu bệnh nhân lãnh trách nhiệm đầy đủ về tự chữa trị. Tìm ra nguyên nhân khởi đầu của bệnh tật luôn là phần then chốt của chữa trị. Trực tiếp nhận thông tin luôn là công cụ vô giá cho việc đó. Trong trường hợp giới thiệu ở đây, nguyên nhân gây bệnh được luận bàn từ quan điểm hoàn cảnh cuộc sống thể chất, kể cả các động lực tâm lý, các hệ thống niềm tin và kế hoạch đời sống tâm linh của bệnh nhân. Chữa trị cho David David lớn lên ở California. Bố mẹ anh là hai nhà tâm lý học. Anh yêu đại dương, lướt sóng và mặt trời. David nhận học vị Tiến sĩ Tâm động học tại trường đại học California rồi bắt đầu làm giảng viên. Về sau anh sống một thời gian ở Ấn Độ, tại đây anh yêu một đồng hương là cô Anne và cũng trở nên khá ốm yếu. Anh và Anne trở về Hoa Kỳ. Trong bốn năm liền sau đó, anh đi khắp nước để tìm cách chữa chạy và người ta đặt cho anh những chẩn đoán bệnh khác nhau, từ "có khả năng bị tăng bạch cầu đơn nhân", "vim gan mãn tính dai dẳng", "mắc loại bệnh virus chưa biết" đến "do cái đầu cả thôi, anh chẳng có gì trục trặc đâu". Trong khi đó, năng lượng của anh suy giảm nhanh chóng và anh ngày càng thấy làm việc khó khăn hơn. Vào thời gian anh đến chỗ tôi, năng lượng của anh khá lên trong một hai ngày, sau đó biến mất và anh phải nằm tại giường một hai ngày. David bước vào phòng làm việc của tôi với trường năng lượng như Hình 25-1A. Vấn đề rõ nhất và nghiêm trọng nhất là ở luân xa đám rối thái dương bị rách toan và cần phải khâu để lấy lại dáng hình trên toàn bộ các vầng cấu trúc của trường, kể cả vầng thứ bảy. Vấn đề quan trọng thứ hai là tình trạng méo mó của luân xa 1; luân xa này cong sang trái và bị bít. Điều đó gây nên tình trạng thiếu khả năng thu năng lượng vào hệ thống năng lượng qua luân xa nền này. Sự phối hợp của luân xa 3 bị rách gầy rò năng lượng với luân xa 1 bị bít đã tạo ra một hệ thống năng lượng suy kiệt. Sự suy kiệt này sẽ được cảm nhận rõ rệt về thể chất vì luân xa 1 chuyển hóa phần lớn năng lượng phối hợp với sức mạnh thể chất, như đã được luận bàn ở Chương 11. Cộng thêm vào những vấn đề này, hào quang còn cho thấy có suy kiệt và ốm yếu ở luân xa 2 là luân xa không những phối hợp với chức năng sinh dục (ở bên dưới) mà còn phối hợp với hệ thống miễn dịch. Có một trung tâm bạch huyết khu trú tại đó. Trung tâm tim cho thấy có tắc nghẽn sâu bên trong các cuộn xoáy. Nó cũng phối hợp với hệ thống miễn dịch thông qua tuyến ức. Tắc nghẽn này khu trú ở 2/3 đường đi xuống vào trôn ốc của luân xa tim. Mỗi lần tôi nhìn thấy dung mạo này ở mọi người, tôi đều thấy nó phối hợp với một vấn đề có liên quan đến mối liên hệ của cá thể với Thượng đế và lòng tin của cá thể về vấn đề Ý chí Thượng đế là gì (vấn đề này sẽ được nói thêm sau). Trung tâm họng bị nạp thiếu năng lượng. Trung tâm này phối hợp với giao lưu, trách nhiệm đối với bản thân cũng như với cho và nhận. Con mắt thứ ba bị bít và làm nghẽn toàn bộ con đường đi sâu vào đầu và vào tuyến tùng. Luân xa đỉnh đầu ốm yếu và nạp thiếu. Toàn bộ hào quang xẹp và mờ. Qua khám xét các cơ quan, tôi thấy nhiều năng lượng tắc nghẽn và có màu tối trong gan. Có những lớp biến màu trong gan. Nơi thì màu lục thẫm lầy nhầy, nơi thì vàng ệnh, và khi vào sâu tới gần cột sốt thì có những khu vực gần như màu đen. Ma traạn etheric của bản thân gan bị rách và biến dạng. Qua kiểm tra kỹ càng hơn, tôi thấy có nhiều vi sinh vật lây nhiễm, có kích thước và hình thù phần nào giống vi khẩn và virus. Những vi sinh vật này rải ra khắp vùng bụng giữa bao gồm tụy, lách và đường tiêu hóa. Trên bề mặt của tụy có một cuộn xoáy nhỏ xoay tròn nhanh tạo nên tiếng rít the thé. Dung mạo này thường phối hợp với những vấn đề về chuyển hóa chất đường, như bệnh đái tháo đường (tiểu đường) hay bệnh hạ đường huyết. Trường tổng thể bị nạp thiếu và ốm yếu. Thay vì những dải sáng đẹp từ vầng thứ sáu đi ra thì ở đây chúng thiếu khí lực và xám xịt. Đây là một người rất ốm yếu. Với sinh viên học chữa trị, tôi gợi ý là tới điểm này bạn hãy ngừng đọc, phân tích trường cũng như vạch kế hoạch chữa trị mà bạn sẽ làm theo. Bạn sẽ bắt đầu từ đâu trước? Bạn sử dụng hết số năng lượng mà bạn có thể cho chạy vào hệ thống này để nạp cho nó? Tại sao, hoặc tại sao không? Khi nào thì bạn sửa chữa vết rách của vầng thứ bảy và tại sao? Bạn có hình dung ra nguyên nhân khởi đầu của bệnh này là gì không và nó hiện ra trên trường hào quang như thế nào? Sẽ chóng hay chậm hồi phục? Tại sao? Tất cả những câu hỏi này sẽ được giải đáp trong mô tả sau đây của tiến trình chữa trị. Tiến trình chữa trị: Giai đoạn thứ nhất: Thanh lọc, nạp và tái cấu trúc trường Trong vài ba tuần đầu, chữa trị tập trung trước nhất vào việc thanh nạp trường, nắn thẳng luân xa 1 và sau đó sửa chữa vấn đề ở khu vực luân xa 1 một cách từ tốn nhưng chắc chắn. Lắm lúc tôi phải ngồi hàng nửa giờ đến bốn mươi nhăm phút, hai tay đặt lên vùng gan của David và khu vực luân xa 3. Không thể nạp thật mạnh năng lượng cho hào quang vì có tình trạng ốm yếu trong khu vực luân xa 3. Nếu nạp mạnh năng lượng vào có thể xé rách thêm luân xa đó. Nắn thẳng và thanh lọc luân xa 1 trong mấy tuần đầu tương đối dễ. Việc này được thực hiện có hệ thống, trong khi phần lớn tiêu điểm của mỗi lần chữa lại tập trung vào vùng bụng giữa. Việc sửa chữa các vết rách trong trường hào quang tốn nhiều thời gian vì có quá nhiều những thay đổi cần thiết. Không thể nạp đầy năng lượng cho hào quang vì vết rách ở luân xa 3 có thể hoặc sẽ toạc thêm hoặc nhất định sẽ làm rò thêm năng lượng nếu nạp mạnh vào đó. Mỗi lần David đi vào, chúng tôi lại thanh nạp, nạp năng lượng và sửa chữa từng phần của khu vực luân xa 3, tạm thời đặt "dấu niêm" hoặc "băng gạc" lên vết rách và để cho nó liền lại trong vòng một tuần. Tuần tiếp đó lại làm thêm một chút. Mỗi tuần tôi lại đi sâu hơn vào trường hào quang để sửa chữa cấu trúc của nó, bắt đầu bằng tinh khiết hóa, sau đó bằng tái cấu trúc, làm dần từng bước. Trước tiên phải sửa chữa cấu trúc của mức etheric, sau đó là mức etheric mẫu của gan và các cấu trúc giải phẫu khác trong vùng này cũng như luân xa. Từng tuần lễ trôi qua, năng lượng của David bắt đầu lên được ít nhiều. Thay vì những giai đoạn lên xuống gấp gáp, bệnh nhân đã ổn định ở mức thấp thường xuyên. Đối với anh, điều này không có vẻ gì là tiến bộ, nhưng tôi cho là có. Tôi đã nhìn thấy được trường của anh dần dần tự hiệu chỉnh lại. Thay vì những lắc lư mạnh đột ngột của năng lượng do cơ thể tìm cách bù đắp tình trạng ốm yếu rồi sau đó không duy trì nổi bù đắp này, bây giờ năng lượng của bệnh nhân đã lên được ở mức mà cơ thể có khả năng duy trì trong điều kiện hiện tại. Tình hình nói trên làm David rất nản lòng. Luân xa 1 của David bắt đầu giữ được tư thế đã nắn thẳng và luân xa 2 bắt đầu nạp đủ. Cuối cùng bệnh nhân bắt đầu lấy lại năng lượng và bản năng sinh dục của mình. Anh cũng bắt đầu cảm thấy ít bị xúc động hơn. Trong phần lớn thời gian ba tháng đầu chữa trị cho David, Heyoan không bình luận gì với anh ta cả. Heyoan chỉ nói với tôi rằng David trước đây đã thuyết trình khá nhiều về tâm lý học hay tâm linh và điều đó chẳng khác gì "luật vũ trụ đem tọng vào họng anh ta". Vì thế tôi đã cố kìm lại không tiến hành thao tác tâm lý động lực học vào giai đoạn này. Ở giai đoạn này, việc đó không phải là điều quan trọng nhất. Nạp lại và sửa chữa quan trọng hơn nhiều. Thầy chữa chỉ có thể chuyển dịch mỗi khi bệnh nhân có khả năng chuyển dịch. Cuối cùng, trường của David trở nên đủ mạnh để qua đó cho chạy đủ năng lượng có rung động cao để sửa chữa vầng thứ bảy. Sau đó David bắt đầu đòi hỏi nhiều thông tin hơn. Anh bắt đầu đặt ra các câu hỏi về ý nghĩa bệnh tật của mình mong hiểu được nó trong những giới hạn hoàn cảnh sống riêng của anh. Tiến trình chữa trị Giai đoạn thứ hai: Các động lực tâm lý và một vài nguyên nhân khởi đầu Việc thẩm tra David bắt đầu khi luân xa 3 ký ức tuyến tính) bắt đầu hoạt động êm ả hơn. Dần dần một bức tranh hình thành tại mức nhân tính của các nhân tố gây bệnh nơi anh. Như đã luận bàn trong chương 8, con cái có những mối liên kết vững chắc với mẹ. Liên kết này hình thành khi đứa bé còn nằm trong bụng mẹ và sau khi nó chào đời thì liên kết này có thể thấy trong dây rốn hào quang tồn tại giữa hai mẹ con. Dây hào quang này liên kết luân xa 3 của hai người. Sau khi sinh cũng có một mối liên kết vững chắc được hình thành giữa hai mẹ con qua luân xa tim của họ. Vết rách khởi đầu trong luân xa 3 của David xảy ra vào thời gian cậu bé sắp bước vào tuổi dậy thì khi cậu nổi loạn vì bà mẹ chuyên áp chế và kiểm soát con cái. Trước đó David vẫn làm hết sức mình để mẹ vui lòng. Bố mẹ cậu, cả hai đều là chuyên gia tâm lý học, đã vô tình sử dụng sai kiến thức của họ để ra sức kiểm soát con trai. Giải pháp của David để có được quyền tự quản cũng giống như của nhiều thiếu niên khác. Cậu cắt đứt quan hệ với bố mẹ. Thật đáng tiếc, cách xử sự duy nhất mà cậu biết, theo đúng nghĩa của từ, lại là cắt đứt mối quan hệ vốn ràng buộc cậu với mẹ. Cậu còn lại một mình, mất dây rốn hào quang và mang một lỗ thủng trong khu vực đám rối thái dương. Dĩ nhiên điều tự nhiên nhất là tìm một người nào để liên kết và nhờ vậy mà thay thế được mẹ (vào giai đoạn này, ai cũng nghĩ vấn đề là mẹ, chứ không phải bản thân). Chẳng may, David phát hiện ra rằng anh liên kết với những phụ nữ có tính hay kiểm soát. Hệ thống năng lượng của anh thường tự động hấp dẫn một vài người có tính hay kiểm soát, đơn giản vì đó là thứ năng lượng mà anh quen sử dụng để được liên kết. Điều này David cảm thấy "bình thường" (giống nhau thì hút nhau). Những mối quan hệ khiông ưng ý này dẫn anh tới chỗ đi tìm chính mình và cuối cùng anh đến với một nơi tu đạo ở Ấn Độ. Anh bắt đầu thấy rằng vấn đề nằm ngay bên trong anh. Ở mức trái tim, luân xa 4 của David không khi nào thực sự liên kết vững chắc với luân xa 4 của mẹ anh. Ngay từ đầu bà đã không chấp nhận con người như anh. Khi anh liên kết với mẹ bằng trái tim mình, anh thấy việc đó là cần thiết để trở thành con người mà bà muốn có nơi anh. Điều đó có nghĩa là tự phản bội. David cảm nhận sự phản bội nơi tim anh. Chàng trai nào cũng có một lời cam kết của trái tim. Mặc dù anh liên kết vững chắc với trái tim mẹ qua trái tim anh, cuối cùng anh phải học cách chuyển cái đó tới người bạn đời của mình, như vậy anh mới có thể trở thành người đàn ông đầy đủ với khả năng sinh dục dồi dào, một trải nghiệm mà anh không hề có với người đầu tiên mà anh yêu thương là mẹ mình. Nếu anh không liên kết với trái tim của mẹ thì lúc này anh không có hình mẫu để làm như vậy khi đến lúc tìm bạn trăm năm và sẽ gặp khó khăn khi yêu. Vấn đề quan hệ của David cũng là vấn đề không biết cách liên kết với yêu thương thông qua trái tim. Điều này đã đưa anh đến Ấn Độ, đến với một tôn sư mà theo như David nói là "Người có tấm lòng quảng đại". Qua trải nghiệm nơi tu đạo ấy, David đã học được cách liên kết trái tim. Đầu tiên với tôn sư, sau đó với Anne, người mà anh gặp nơi đây. Tuy nhiên anh phát hiện ra rằng khi liên kết qua trái tim với tôn sư, anh cũng nâng cao dần được ý chí. Anh cố gắng học yêu thương vô điều kiện, nhưng các điều kiện đã ăn sâu. Vì David nâng cao được ý chí, anh lại bắt đầu thấy bị phản bội nhưng lần này lối thoát không phải là yêu một con người khác, mà là yêu nhân loại và yêu Thượng đế. Lối thoát bây giờ lộ ra trong hình thái ý chí của David đối đầu với ý chí Thượng đế. Điều này thấy được trong dung mạo của tim ở trường hào quang. David thấy rằng vì anh không còn là "con ngoan" đối với mẹ anh thì anh là "con ngoan" đối với tôn sư và Thượng đế. Anh và Anne quyết định rời đi và anh trải nghiệm một vết rách khác ở luân xa 3 khi họ rứt khỏi tôn sư. Nhưng anh đã biết sử dụng trái tim mình. Lần đầu tiên trong đời, David liên kết sâu sắc với một phụ nữ xuất phát từ trái tim cũng như qua các luân xa đám rối thái dương. Việc tìm kiếm sự chấp nhận và tình yêu hoàn hảo là rất mạnh mẽ trong linh hồn con người và sẽ hướng dẫn nó qua nhiều bài học. Tôi thấy có những người trải qua nhiều năm sống tại một cộng đồng tâm linh học cách khai mở trái tim họ, nhưng lại từ bỏ dần nhiều hành vi tự quản, hệt như điều họ đã làm giữa tuổi ấu thơ. Nhiều người thấy rằng điều đó đã giúp họ trải nghiệm tình yêu sâu sắc trong ranh giới một cộng đồng được cấu trúc, trước khi họ có thể mang nó ra để tự ý mình đưa vào thế giới. Điều này đặc biệt xác thực nếu như nó không được trải nghiệm nơi ngôi nhà thời thơ ấu. Sau khi trải nghiệm yêu thương tại cộng đồng và không may từ bỏ đôi chút ý chí tự do của mình để làm như vậy, bây giờ họ cần giữ yêu thương đó trong tim và quy phục ý chí Thượng đế như được biểu thị trong trái tim của chính họ, không phải theo định nghĩa của ai đó về ý chí Thượng đế. Việc chữa trị cho David tiến triển thi những vấn đề về quan hệ của anh với người bạn gái vốn đã mãn tính nay trở nên không chịu đựng nỗi đối với anh. Anh đã đổi thay bằng những cung cách không tương hợp với các rung động của người bạn đời bởi vì chị không đổi thay theo lối đó. Trường hào quang của hai người không cùng đập một cách hài hòa nữa. Người nào từng có quan hệ dài lâu thì biết hiện tượng đó. Nếu bạn đổi thay mà bạn đời của bạn không thay đổi với tốc độ tương tự thì sẽ có lúc cả hai đều ngạc nhiên rằng mình đang sống với ai đây. Người kia có thể đổi thay và trở nên tương hợp được không? Thường là được, nếu cả hai sống trong kiên nhẫn và yêu thương. Nếu không thì cuối cùng người ta sẽ tiếp tục như cũ. David và Anne bắt đầu cùng nhau làm việc để giải quyết các vấn đề của họ. Với nhiều yêu thương và chân tình, họ tập trung trước hết vào những tâm lý động lực của hoàn cảnh. Điều quan tâm chính của David đã quay về với công việc, với tự do của anh và có được quyền lực của chính anh. Nhưng Anne lại muốn tiếp tục theo tôn sư của mình và xây dựng một lối sống khác. Cùng với những sợi dây năng lượng phát triển giữa mẹ và con, những người có quan hệ với nhau luôn để cho các sợi dây này nảy nở giữa họ. Chúng được liên kết qua các luân xa. Trong một quan hệ lành mạnh thì những sợi dây này có màu vàng tươi trong trẻo, cân bằng và liên kết qua hầu hết các luân xa. Trong nhiều mối quan hệ, những sợi dây này chỉ lặp lại một cách đơn giản những liên kết không lành mạnh từ tuổi ấu thơ giữa bố mẹ và con cái; nhiều những sợi dây này liên kết tại đám rối thái dương và có màu tối. Trong quá trình cải biến một quan hệ không lành mạnh thành lành mạnh, cần phải tháo gỡ những sợi dây không lành mạnh, nạp năng lượng cho chúng và tái liên kết chúng sâu vào trong nồng cốt riêng của cá thể. Chúng là những sợi dây mang tính lệ thuộc cần được cắm rễ trở lại vào trong cá thể đến mức anh ta có thể tự tin. David và bạn anh dần dần tháo gỡ những sợi dây mang tính lệ thuộc của họ. Đây là một quá trình thật dễ sợ. Cảm nhận của con người đôi lúc như bồng bềnh trong không trung, chẳng liên kết được với bất cứ cái gì. Làm như vậy, người này bỏ được "tính an toàn viển vông" của sự cứng nhắc và thay thế nó bằng sự tự lực có tính linh hoạt. Nếu bạn đã kinh qua ly hôn hay phải chịu đựng cái chết của người bạn đời thì bạn sẽ hiểu được hiện tượng này. Nhiều người coi vợ hoặc chồng mình là "nửa tốt hơn" của họ. Nhiều người mất vợ hoặc mất chồng nói với tôi rằng họ có cảm giác bị rứt riêng ra hoặc bị mất nửa tốt hơn của con người họ. Giữa một chấn thương nghiêm trọng như vậy, ai cũng cảm thấy như toàn bộ khuôn mặt của mình bị giật phăng ra. Thật đúng y như vậy. Nhiều lần tôi thấy những sợi từ đám rối thái dương phát ra theo đuôi nhau lằng nhằng trong không gian sau cảnh chia ly đau đớn nhường ấy. Tiến trình chữa trị Giai đoạn thứ ba: Những chất liệu cải biến Khi David lại sức, anh đóng vai trò tích cực hơn trong các buổi chữa. Anh bắt đầu đặt ra cho Heyoan những câu hỏi rất sâu về chuyên môn. Anh hỏi Heyoan rằng anh cần theo cách điều trị nào (thường tôi vẫn thấy các vi sinh vật trong vùng bụng giữa của David. Anh cần điều gì đó). David đã nghe nói đến một loại huyết thanh Canada giúp những người mắc các loại bệnh gây suy nhược. Anh ta có phải dùng huyết thanh đó không? "Không", Heyoan đáp. "Đúng, thuốc đó có thể giúp ta chút ít nhưng có loại thuốc khác rất mạnh". Heyoan bảo tôi rằng cái đó có liên quan đến một chất được dùng chữa sốt rét giống như quinine. Nói đoạn Heyoan đưa cho tôi xem bức tranh bể bơi và bảo rằng phần đầu của từ là chlorine, như chất ở bể bơi. Tên thuốc nghe như là chlorin, quinine. Chloroquine. Heyoan nói là nếu David dùng thuốc này thì thuốc có tác dụng rửa cho gan sạch. Người chỉ cho tôi bức tranh gan của David đang được rửa sạch bằng một chất lỏng ánh bạc. Rồi Người nói thêm rằng David có thể có được thuốc đó qua một bác sĩ tại vùng New York nơi chúng tôi sống. Heyoan cũng tuyên bố rằng David không được dùng với liều lượng chuẩn, mà phải thay đổi liều lượng phù hợp với nhu cầu của mình, hàng ngày kiểm tra xem anh cần gì bằng cách sử dụng tri giác cao cấp của mình và một con lắc. David bắt đầu tìm kiếm. Tuần tiếp đó, khi anh đến chỗ làm việc của tôi, tay cầm một ít chloroquine thì tôi sửng sốt. Tôi chưa hề nghe nói về thuốc này. David đã hỏi một bác sĩ rằng ông ta có nghe nói về thứ thuốc gì như Heyoan đã mô tả không. Bác sĩ lập tức lấy từ trên giá xuống một cuốn sách nói về sử dụng chloroquine. Thuốc này được dùng trong một số trường hợp viêm gan mãn dai dẳng như của David. Khi chẩn đoán của bác sĩ thống nhất với chẩn đoán của Heyoan thì ông ta kê đơn cho chloroquine với liều bình thường. David bắt đầu dùng thuốc này và hàng ngày kiểm tra liều lượng bằng con lắc. Năm ngày đầu, thuốc không những ảnh hưởng mạnh đến David về thể chất mà cònlàm cho anh dễ xúc cảm. Anh đi sâu vào trạng thái xúc cảm oằn oại đau đớn. Anh trải ngiệm mạnh mẽ các vấn đề của mình (đã mô tả ở trên). Anh mô tả trải nghiệm trong một ngày như thể là anh trải qua một ngày "đào bới vào trong bụng người bạn gái của anh". Anh biết rằng đó là một cuộc tinh khiết hóa. Anh muốn tái trải nghiệm các cảm giác để tự chữa trị. Sau năm ngày, anh ngừng chloroquine theo gợi ý của con lắc. Heyoan bảo David dùng các loại trà có tác dụng tinh khiết hóa và các vitamin trong một hoặc hai tuần sau cuộc vật lộn với chloroquine. Nhìn từ trường hào quang, tôi thấy rằng sau khi David dùng thuốc được năm ngày, đại tràng của anh (lầy nhầy, nâu ngả vàng) bị bít do việc thải các độc tố trong khi anh thanh lọc các ổ nhiễm khuẩn. Cần phải dùng các loại trà có tác dụng tinh khiết hóa. Sau vài ngày ngưng chloroquine, David "đọc thấy" bằng con lắc đã đến lúc quay lại dùng thuốc đó. Anh dùng. Dùng vài ngày lại nghỉ vài ngày. Mỗi lần dùng thuốc anh lại đắm mình vào trong một vầng khác của nhân cách cần thanh lọc. Mỗi lần làm như thế, anh thấy mình khỏe hơn, nhanh nhẹn hơn và giàu quyền lực hơn. Mỗi lần anh sử dụng nó là có thêm nhiều vi sinh vật được thanh lọc khỏi thân thể, hào quang của anh trở nên sáng hơn và đầy đặn hơn. Anh đang thực sự tự cải biến. Từng thời gian Heyoan lại gợi ý với anh một loại vitamin khác hay chất khoáng (như ferrum phosphate, iron phosphate) để giúp cho việc chữa trị được tốt hơn. Tôi hỏi Heyoan tại sao Người không đề cập đến chloroquine sớm hơn. Người nói rằng trường của David bị thương tổn đến mức anh ta không thể chịu đựng nỗi những tác động mạnh của chloroquine cho đến khi hoàn tất việc sửa chữa. Ed và tôi cùng tiến hành một quá trình chữa trị hữu hiệu trong vài tháng. Đầu tiên tôi thao tác với dòng chảy năng lượng để làm cho xương cụt hết bị kẹt, ngay ngắn trở lại, sau đó tăng cường và cân bằng dòng chảy năng lượng của anh. Sức lực anh dần dà trở lại như cũ. Trưa hôm ấy anh ta chỉ còn bị yếu chút ở cổ tay trái. Nhưng trước khi chú trọng đến điều đó, tôi lại cân bằng và tăng lực cho toàn bộ trường năng lượng của anh. Sau đó tôi dành thêm thời gian tác động cho năng lượng chữa trị tuôn chảy vào cổ tay. Bệnh nhân cuối cùng của tôi trong ngày hôm ấy là Muriel, nghệ sĩ, vợ của một nhà phẫu thuật nổi tiếng. Đây là lần thứ ba chị hẹn gặp tôi. Ba tuần trước chị đã đến chỗ tôi với một tuyến giáp rất to. Trong lần đến gặp đầu tiên đó, tôi sử dụng tri giác cao cấp của mình để thu thập thông tin về hoàn cảnh của Muriel. Tôi thấy rằng tuyến giáp của chị to không phải do ung thư, và chỉ với hai lần chữa phối hợp với thuốc men mà bác sĩ đã kê cho chị, chỗ tuyến giáp to ra đã biến mất. Tôi thấy không cần mổ xẻ. Chị xác nhận rằng chị đã khám một vài bác sĩ và họ đã kê cho chị thuốc làm co tuyến giáp. Chị nói thuốc đã làm cho tuyến giáp nhỏ đi ít nhiều nhưng chị vẫn cần đến phẫu thuật và trường hợp của chị có thể là ung thư. Cuộc mỗ được dự định tiến hành một tuần sau lần gặp thứ hai. Tôi chữa riêng cho chị hai lần trong tuần. Đến hẹn chị tới bệnh viện để mổ thì các bác sĩ hết sức ngạc nhiên, không cần phải mổ nữa. Ngày hôm đó chị trở lại để yên trí xem mọi cái đã hồi phục lại như thường chưa. Đã. Những sự kiện có vẻ kỳ lạ nầy xảy ra như thế nào? Tôi làm gì để giúp đỡ những con người này? Quá trình mà tôi sử dụng mệnh danh là chữa bệnh thao tác bàn tay, chữa bệnh bằng niềm tin hay chữa bệnh bằng tâm linh. Hoàn toàn không phải là một quá trình kỳ lạ, trái lại rất chân phương dù cho nhiều khi khá phức tạp. Nó là một phương thức cân bằng lại trường năng lượng mà tôi gọi là trường năng lượng con người vốn hiện hữu xung quanh chúng ta. Ai cũng có một trường năng lượng hay là hào quang bao quanh và thâm nhập vào thân thể. Trường năng lượng này kết hợp chặt chẽ với sức khỏe. Tri giác cao cấp là phương thức lĩnh hội sự vật vượt qua phạm vi thông thường của giác quan con người. Nhờ nó, con người có thể nhìn, nghe, ngửi, nếm, thấy và xúc chạm những sự vật mà bình thường không cảm nhận được. Tri giác cao cấp là một kiểu “nhìn thấy” trong đó bạn thấy một bức tranh trong óc mà không cần sử dụng thị giác thông thường. Nó không phải là tưởng tượng. Đôi khi nó được coi như minh triết. Tri giác cao cấp phát hiện ra thế giới động lực các trường năng lượng sống tương tác lỏng ở xung quanh và xuyên qua mọi vật. Phần lớn cuộc đời tôi như ở giữa một cuộc khiêu vũ với cả đại dương năng lượng sống động trong đó con người tồn tại. Qua cuộc khiêu vũ đó, tôi đã phát hiện ra rằng năng lượng ấy truyền sức mạnh cho ta, nuôi dưỡng ta, cho ta cuộc sống. Ai cũng cảm thấy nặng lượng bên cạnh mình; ta là của nó, nó là của ta. Bệnh nhân và học trò của tôi hỏi rằng tôi bắt đầu nhìn thấy trường năng lượng xung quanh mọi người từ bao giờ? Tôi bắt đầu thấy nó là công cụ có ích từ khi nào? Thế nào là có khả năng nhận ra sự vật vượt qua giới hạn của các giác quan con người? Trường hợp của tôi là đặc biệt hay có thể học hỏi để được như vậy? Nếu thế thì họ có thể làm gì để mở rộng tri giác của chính mình, và điều nầy có giá trị như thế nào đối với cuộc đời của họ? Để trả lời được trọn vẹn các câu hỏi nầy, tôi phải quay lại buổi ban đầu. Tuổi thơ của tôi rất bình dị. Tôi lớn lên trong một trang trại ở Wisconsin. Vì không có nhiều bạn chơi trong vùng, tôi thường tha thẩn một mình. Tôi ngồi một mình trong rừng hàng giờ, hết sức im lặng, chờ những con vật nho nhỏ bước đến với tôi. Tôi tập hòa mình vào xung quanh. Không phải là mãi về sau tôi mới bắt đầu hiểu hết ý nghĩa của những khoảng thời gian im lặng và chờ đợi đó. Giữa những khoảnh khắc yên tĩnh trong rừng, tôi đi vào một trạng thái bành trướng ý thức trong đó tôi có khả năng thấy được những sự vật vượt ra khỏi giới hạn trải nghiệm thông thường của con người. Tôi nhớ là đã biết được từng con vật nhỏ trong rừng mà không cần nhìn. Tôi có thể cảm nhận được trạng thái đó. Khi tôi tập bịt mắt đi lại trong rừng, tôi cũng cảm nhận được cây cối trước khi tự tay tôi chạm tới. Tôi thấy rằng cây cối hiện ra to hơn là khi nhìn bằng mắt. Cây cối có trường năng lượng sống bao quanh, và tôi thấy các trường năng lượng đó. Về sau tôi tập nhìn trường năng lượng của cây và của các động vật nhỏ. Tôi phát hiện ra rằng mọi vật đều có trường năng lượng bao quanh, giống như ánh sáng của ngọn nến. Tôi cũng bắt đầu nhận thấy rằng mọi vật liên kết với nhau bằng các trường năng lượng nầy và không một không gian nào hiện hữu mà lại không có trường năng lượng. Mọi vật, kể cả tôi, đều sống giữa đại dương năng lượng. Đối với tôi, điều đó không phải là phát hiện lý thú, mà chỉ đơn giản là trải nghiệm của mình, cũng tự nhiên như nhìn thấy con sóc đang ăn quá đấu trên cành cây vậy. Tôi không hề công thức hóa những trải nghiệm nầy vào bất cứ lý thuyết nào nói về cung cách hoạt động của thế giới. Tôi chấp nhận mọi thứ mình nhìn thấy trong trạng thái hoàn toàn tự nhiên, cho rằng ai ai cũng biết, sau đó tôi quên. Lúc bước vào tuổi vị thành niên, tôi thôi không vào rừng nữa. Tôi bắt đầu quan tâm tới cung cách hoạt động của các sự vật và tại sao chúng lại như thế. Tôi thường đặt câu hỏi với mọi vật để tìm ra trật tự và để hiểu thế giới hoạt động như thế nào. Tôi vào trường đại học, nhận bằng cử nhân khoa học về Vật lý lưu uyển, rồi làm công tác nghiên cứu nhiều năm cho Cơ quan hàng không vũ trụ NASA. Về sau tôi học tập và trở thành cố vấn. Không phải cho đến khi tôi làm cố vấn một số năm tôi mới bắt đầu nhìn thấy màu sắc quanh đầu mọi người và nhớ tới những trải nghiệm trong rừng thời thơ ấu. Lúc bấy giờ tôi nghiệm ra rằng các trải nghiệm đó đã mở đầu cho tri giác cao cấp hay sức nhìn thấu thị của mình. Những trải nghiệm tuổi thơ thú vị và bí mật ấy cuối cùng đã dẫn đến khả năng chẩn đoán và chữa trị của tôi. Khi nhìn lại, tôi có thể thấy mô hình phát triển các khả năng của tôi bắt đầu lúc lọt lòng. Cứ như là đời tôi đã được bàn tay vô hình nào đó dẫn dắt tới và đi qua từng trải nghiệm theo kiểu dẫn từng bước, rất giống kiểu dạy ở trường học – trường học đường đời như ta vẫn nói. Trải nghiệm trong rừng giúp cho việc mở rộng các giác quan của tôi. Sau đó, việc học tập ở trường đại học giúp phát triển tư duy lô gíc. Việc rèn luyện để thành người cố vấn đã khai mở tầm nhìn, khai mở trái tim tôi ra toàn nhân loại. Cuối cùng, việc rèn luyện tâm linh (sau này tôi sẽ luận bàn về vấn đề nầy) làm cho tôi tin vào những trải nghiệm khác thường của mình để mở rộng tâm trí mà chấp nhận là “có thật”. Bấy giờ tôi bắt đầu tạo ra một khuôn khổ để nhờ đó mà hiểu thấu các trải nghiệm nầy. Dần dà tri giác cao cấp và trường năng lượng con người trở nên các bộ phận hợp thành của đời tôi. Tôi tin tưởng vững chắc rằng chúng trở thành một phần cuộc đời của bất kỳ ai. Để phát triển tri giác cao cấp, cần phải đi vào một trạng thái bành trướng ý thức. Có nhiều phương pháp thực hiện việc nầy. Thiền định nhanh chóng trở thành nổi tiếng. Thiền định có thể thực hành bằng nhiều cách, điều quan trọng là tìm ra cách thích hợp nhất đối với bạn. Trong phần sau của cuốn sách, tôi sẽ gợi ý cho bạn một vài cách để bạn có thể tùy ý lựa chọn. Tôi cũng thấy rằng bạn có thể đi vào trạng thái bành trướng ý thức bắng cách tản bộ, dạo chơi, câu cá, ngồi trên đụn cát ngắm sóng vỗ vào bờ hoặc ngồi trong rừng như tôi thuở nhỏ. Bạn đã tiến hành việc đó như thế nào, dù bạn gọi là thiền định hay mơ mộng, hay gì nữa? Điều quan trọng nhất ở đây là dành được đủ thời gian lắng nghe bản thân mình - thời gian để làm im ắng cái tâm trí huyên náo cứ liên tục nói về điều bạn cần làm, về cung cách bạn đã thắng được lý lẽ nọ, về điều mà bạn vẫn làm, về cái mà bạn cho là sai, v.v. và v.v. Khi tiếng líu lo không dứt đó bị cắt thì một thế giới mới trọn vẹn của thực tại hài hòa êm ái mở ra trước mắt bạn. Bạn bắt đầu hòa mình vào xung quanh, như tôi đã từng làm trong rừng. Cũng lúc đó, nhân cách của bạn không bị lãng quên mà được đề cao. Quá trình hòa mình vào xung quanh là một phương thức khác để mô tả nhận thức mở rộng đang trải nghiệm. Chẳng hạn, hãy lưu ý lần nữa đến cây nến và lửa ngọn nến. Thông thường ta đồng nhất hóa bản thân như một vật thể (sáp và bấc) với ý thức (ngọn lửa). Khi ta đi vào trạng thái bành trướng ý thức, ta nhận thấy ta cũng như ánh sáng phát ra từ ngọn lửa đó. Ánh sáng bắt đầu chỗ nào và ngọn lửa kết thúc ở đâu? Đấy dường như là một dòng kẻ. Nhưng khi nhìn kỹ hơn, bạn có biết chính xác đó là chỗ nào không? Ngọn lửa bị ánh sáng thâm nhập hoàn toàn. Ánh sáng trong phòng, ngoài ánh sáng ngọn nến (đại dương năng lượng), có thâm nhập ngọn lửa không? Có. Ánh sáng trong phòng bắt đầu ở đâu và ánh sáng ngọn nến kết thúc ở đâu? Theo vật lý học, không có ranh giới cho ánh nến; nó vươn tới vô tận. Vậy thì ranh giới cuối cùng của ta ở đâu? Trải nghiệm của tôi về tri giác cao cấp, kết quả của bành trướng ý thức, là không có ranh giới. Tôi càng bành trướng ý thức thì tri giác cao cấp của tôi càng mở rộng, tôi càng có khả năng hơn trong việc nhìn thấy thực tại vốn ở sẵn đấy rồi nhưng trước đây nằm ngoài tầm giác quan của mình. Nhờ tri giác cao cấp của bản thân mở rộng, thêm nhiều thực tại đi vào tầm mắt. Buổi đầu tôi chỉ nhìn thấy được những trường năng lượng thô xung quanh đồ vật: chỉ khoảng trên dưới 1 in. cách mặt da. Khi đã thành thạo hơn, tôi có thể nhìn thấy trường nầy vượt quá mặt da xa hơn nữa nhưng rõ ràng là một chất mịn hơn hoặc một thứ ánh sáng kém mạnh hơn. Mỗi lần tôi nghĩ là mình đã tìm ra ranh giới thì một thời gian sau tôi lại thấy vượt ra xa hơn ranh giới đã tìm ra. Đường ranh giới ở đâu? Tôi kết luận rằng thật dễ dàng hơn khi nói là chỉ có các lớp: lớp của ngọn lửa, sau đó là ánh sáng của ngọn lửa, rồi đến ánh sáng của căn phòng. Thật khó mà phân biệt được từng ranh giới. Muốn thấy được từng lớp phía ngoài đòi hỏi phải tăng cường bành trướng ý thức và hòa đồng tri giác cao cấp một cách tinh vi hơn. Khi trạng thái bành trướng ý thức của bạn phát triển thì ánh sáng mà trước đây bạn nhìn thấy lờ mờ nầy sẽ rạng lên và trở thành dễ xác định. Qua nhiều năm dần dần phát triển tri giác cao cấp, tôi sưu tập các quan sát của mình. Phần lớn các quan sát nầy được tiến hành trong 15 năm làm cố vấn. Vốn được đào tạo về vật lý học, tôi hoài nghi khi lần đầu tiên bắt đầu “nhìn thấy” hiện tượng hào quang xung quanh thân thể con người. Song vì các hiện tượng vẫn cứ tồn tại, thậm chí cả khi tôi nhắm mắt lại để xua đuổi hình ảnh hoặc chuyển dịch xung quanh căn phòng, cho nên tôi bắt đầu quan sát kỹ càng hơn. Và cứ thế, cuộc hành trình của tôi bắt đầu, đưa tôi vào những thế giới mà trước đây tôi không biết là hiện hữu; làm thay đổi hoàn toàn cung cách trước đây tôi vẫn trải nghiệm về thực tai, con người, vũ trụ cùng mối quan hệ của tôi với vũ trụ. Tôi thấy rằng trường năng lượng kết hợp mật thiết với sức khỏe và hạnh phúc của con người. Nếu một người không được khỏe thì điều đó biểu hiện rõ trong trường năng lượng bằng một dòng chảy năng lượng mất cân bằng và/hoặc năng lượng ứ trệ ngừng chảy và hiện ra thẩm màu. Màu sắc và hình thái nầy rất đặc trưng cho từng loại bệnh. Tri giác cao cấp rất có giá trị trong y học và trong vai trò tham vấn tâm lý học. Khi sử dụng tri giác cao cấp, tôi trở nên thành thạo trong việc chẩn đoán các vấn đề thể chất lẫn tâm lý và trong việc tìm ra biện pháp giải quyết các vấn đề đó. Với tri giác cao cấp, cơ chế bệnh tâm thể nằm ngay trước mắt bạn. Tri giác cao cấp phát hiện cung cách mà phần lớn bệnh tật khởi đầu trong các trường năng lượng rồi qua thời gian và tập quán sống mà truyền sang thân thể, trở thành bệnh nặng. Nhiều khi nguồn gốc hoặc nguyên nhân khởi đầu của quá trình nầy phối hợp với chấn thương tâm lý và thân thể, hoặc kết hợp cả hai. Vì tri giác cao cấp phát hiện cung cách khởi đầu của bệnh tật cho nên nó cũng phát hiện cung cách đảo ngược quá trình bệnh tật. Trong quá trình tập nhìn trường năng lượng, tôi cũng tập tương tác với nó một cách hữu thức, như với bất cứ vật gì tôi có thể nhìn thấy. Tôi có thể thao tác để cho trường năng lượng của mình tương tác với trường năng lượng của người khác. Tôi sớm học được cách làm cân bằng một trường năng lượng ốm yếu để người đó có thể trở lại sức khỏe tốt. Hơn nữa, tôi thấy bản thân mình nhận được thông tin về nguồn gốc bệnh tật của bệnh nhân. Thông tin này dường như đến với tôi từ một trí óc có trình độ cao hơn bản thân tôi hoặc cái mà tôi thường coi là chính mình. Quá trình nhận thông tin theo cách nầy được gọi nôm na là dẫn kênh (channeling). Thông tin được dẫn kênh thường đến dưới hình thái lời nói, khái niệm hoặc bức tranh tượng trưng sẽ đi vào tâm trí tôi khi tôi tái cân bằng trường năng lượng của bệnh nhân. Tôi luôn ở trạng thái biến đổi ý thức khi làm việc nầy. Tôi trở nên thành thạo trong việc nhận thông tin bằng cách kết hợp các biện pháp khi sử dụng tri giác cao cấp (tức là dẫn kênh hoặc nhìn thấy). Tôi thường đối chiếu cái mà tôi nhận được bằng bức tranh tượng trưng trong tâm trí tôi, bằng khái niệm hoặc bằng lời phán bảo trực tiếp với cái mà tôi nhìn thấy trong trường năng lượng. Chẳng hạn, trong một trường hợp, tôi nghe nói trực tiếp “cô ấy bị ung thư”. Và tôi thấy một đốm đen trong trường năng lượng của chị bệnh nhân đó. Đốm đen nầy phù hợp về kích thước, hình thù và vị trí với kết quả chụp CAT scanner tiến hành sau đó. Cách kết hợp nhận thông tin bằng tri giác cao cấp trở nên rất có kết quả, và tôi đạt được độ chính xác cao trong bất cứ miêu tả đặc biệt nào về tình hình bệnh nhân. Tôi cũng nhận được thông tin dưới dạng những hành động tự cứu mà bệnh nhân sẽ sử dụng trong suốt quá trình chữa trị. Quá trình nầy thường đòi hỏi một loạt buổi chữa kéo dài ttong một vài tuần hoặc một vài tháng, tùy theo mức độ bệnh tật. Quá trình chữa trị bao gồm việc tái cân bằng trường năng lượng, thay đổi tập quán sống và xử lý chấn thương khởi đầu. Điều cốt yếu là xử lý, ý nghĩa sâu xa của bệnh tật. Ta cần phải hỏi: Bệnh nầy có ý nghĩa gì đối với ta? Ta có thể học được điều gì từ bệnh nầy? Có thể nhìn thấy bệnh tật một cách đơn giản như lời phán bảo từ thân thể của bạn nói với bạn. Chờ một chút: có cái gì sai đây? Bạn không lắng nghe toàn thể bản thân mình: bạn quên mất điều gì rất quan trọng đối với bạn. Cái gì vậy? Nguồn gốc của bệnh tật cần được tìm tòi bằng cách nầy, hoặc ở mức độ tâm lý hay cảm giác, ở mức độ hiểu biết, hoặc đơn giản bằng sự thay đổi trong trạng thái tồn tại có thể là vô thức của con người. Việc trở lại sức khỏe bình thường đòi hỏi cá nhân phải hành động và thay đổi nhiều hơn là chỉ đơn gian uống những viên thuốc theo đơn bác sĩ. Nếu không có thay đổi của bản thân, cuối cùng bạn sẽ không thể tạo ra một vấn đề khác để dẫn dắt bạn trở về với nguồn gốc đã gây nên bệnh tật trước tiên. Tôi thấy rằng nguồn gốc là chìa khoá. Xử lý nguồn gốc thường đòi hỏi thay đổi cách sống, cuối cùng sẽ dẫn dắt đời sống cá thể đến chỗ liên kết chặt chẽ hơn với cốt lõi của con người. Nó dẫn dắt ta đến phần sâu xa hơn của bản thân ta, phần nầy đôi khi được gọi là bản ngã cao cấp hoặc tia sáng của siêu phàm bên trong.