Sau gần 40 năm, bây giờ khi nhớ lại cái đêm tôi với ông Chủ tịch gặp nhau, tôi không khỏi bồi hồi vì đó là lúc nỗi khổ của tôi đã lên tới cực điểm, đến độ trơ lì ra. Từ ngày tôi rời Yoroido, đời tôi chỉ gặp toàn chuyện đau khổ, gian truân. Và dĩ nhiên bước gian truân ấy vẫn còn rất rõ trước mắt tôi. Khi chúng ta lội ngược trong một dòng suối có nhiều đá ngầm, chúng ta phải cẩn thận từng bước một. Nhưng cuộc đời tôi trở nên dễ chịu hơn sau khi ông Chủ tịch trở thành danna của tôi. Tôi cảm thấy đời tôi như cái cây có rễ đâm vào vùng đất ẩm phì nhiêu. Trước kia chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến chuyện mình may mắn hơn người khác, nhưng nay thì tôi có thể nghĩ rằng tôi là người có diễm phúc. Nhưng tôi phải thú thật rằng tôi đã sống trong cảnh hạnh phúc một thời gian lâu tôi mới nhìn về quá khứ để thấy lại cuộc sống cô đơn của mình trước đó. Tôi nghĩ không thể kể chuyện đời mình ra được, tôi không tin có ai thành thật nói về nỗi khổ đau của mình cho đến khi không chịu đựng được nữa. Vào buổi chiều, ông Chủ tịch và tôi cùng uống sakê trong buổi lễ tại phòng trà Ichiriki, có một chuyện kỳ cục đã xảy ra. Tôi không biết tại sao, nhưng khi tôi nhấp tí rượu trong ba cái tách chúng tôi thường dùng, tôi đã để cho rượu sakê chảy ra khỏi lưỡi, một giọt chảy ra khóe miệng. Tôi mặc chiếc áo kimono màu đen có năm cái vương miện, với con rồng thêu chỉ vàng và đỏ uốn mình từ lai áo cho đến ngang đùi. Tôi nhớ tôi thấy giọt rượu rơi xuống dưới cánh tay, lăn trên nền vải đen cho đến khi nó dừng lại tại sợi chỉ lớn màu bạc ở cái răng của con rồng. Tôi biết hầu hết geisha đều cho hiện tượng này là một điềm xấu, nhưng với tôi, giọt rượu ấy như giọt nước mắt đã kể lại đời tôi. Nó rơi vào khoảng trống hoàn toàn không bị cái gì cản trở, rồi lăn theo một đường trên lớp lụa, và rồi chảy đến dừng lại trên răng con rồng. Tôi nghĩ đến những cánh hoa tôi đã ném trên thượng nguồn sông Kame, ở phía ngoài xưởng thợ của ông Arashino, mong sao chúng đến được với ông Chủ tịch. Và tôi cũng nghĩ chúng đã đến được. Suốt thời con gái, tôi thường nuôi hy vọng điên cuồng, tôi nghĩ nếu được làm tình nhân của ông Chủ tịch thì chắc đời tôi sẽ tuyệt hảo. Hy vọng trẻ con ấy tôi mang theo bên mình cho đến lúc trưởng thành. Đáng ra tôi phải biết rõ hơn điều này, tôi đã gặp bao nhiêu bài học đắng cay có thể xem như cái ngạnh móc vào da thịt, phải chăng nó sẽ để lại những vết sẹo không bao giờ mất? Khi xua đuổi Nobu ra khỏi đời tôi vĩnh viễn, tôi không chỉ mất tình bạn của ông thôi, mà tôi còn tự mình xua đuổi mình ra khỏi Gion nữa. Lý do quá đơn giản, đáng ra tôi phải biết trước mới phải. Người đàn ông thắng được giải thưởng mà bạn mình ao ước phải đương đầu với sự lựa chọn khó khăn, anh ta phải hoặc là thu giấu giải thưởng đi cho người bạn không thấy hoặc đành chịu cảnh sứt mẻ tình bạn. Đây cũng là vấn đề rất khó khăn giữa tôi và Bí Ngô, tình bạn của chúng tôi không hàn gắn được sau ngày tôi được nhận làm con của nhà kỹ nữ. Cho nên mặc dù việc thương lượng của ông Chủ tịch với Mẹ để ông làm danna của tôi kéo dài mấy tháng trời, nhưng cuối cùng hai bên cũng đồng ý để cho tôi không làm geisha nữa. Dĩ nhiên tôi không phải là nàng geisha đầu tiên rời khỏi Gion, bên cạnh những cô bỏ đi, có cô lấy chồng và sống cuộc đời làm vợ, những người khác thì rút lui để mở phòng trà hay mở nhà kỹ nữ riêng cho mình. Thế nhưng trường hợp của tôi, tôi bị kẹt vào một tình thế ở giữa thật là kỳ khôi. Ông Chủ tịch muốn tôi rời khỏi Gion để không gặp Nobu nữa, nhưng dĩ nhiên ông ta cũng không cưới tôi được vì ông đã có vợ rồi. Có lẽ giải pháp tuyệt hảo nhất, giải pháp do ông Chủ tịch đề nghị, là để cho tôi mở phòng trà hay quán trọ, nơi mà Nobu sẽ không bao giờ đến thăm. Nhưng bà Mẹ không bằng lòng để cho tôi rời khỏi nhà kỹ nữ, nếu tôi không còn là thành phần trong nhà kỹ nữ nữa, thì bà sẽ không có lợi tức gì thu được từ mối liên hệ của tôi với ông Chủ tịch. Vì thế mà cuối cùng, ông Chủ tịch bằng lòng trả cho nhà kỹ nữ một số tiền đáng kể để Mẹ cho phép tôi chấm dứt hành nghề geisha. Tôi tiếp tục sống trong nhà kỹ nữ, y như lâu nay, nhưng tôi không đến trường học buổi sáng, hay đi quanh Gion để ra mắt khách khứa vào những buổi tiệc lớn, tiệc nhỏ, và dĩ nhiên, tôi không còn đi hầu vui cho khách vào buổi tối nữa. Vì tôi đã có ý đồ trở thành geisha để có cơ hội chiếm được tình thương của ông Chủ tịch, nên có lẽ tôi không nên luyến tiếc gì về việc phải rút lui khỏi Gion. Thế nhưng trải qua nhiều năm trời làm geisha, tôi đã có nhiều bạn bè thân thiết, không những chỉ có geisha thôi, mà còn với nhiều đàn ông tôi quen biết nữa. Tôi không phải chia tay với các geisha khác vì tôi đã chấm dứt công việc giúp vui, mà còn chia tay với những người sinh sống ở Gion chỉ biết công việc nội trợ trong nhà. Tôi thường ghen với các cô geisha đang hấp tấp đi đến chỗ hẹn tiếp theo, vừa đi vừa cười đùa với nhau. Tôi không ghen vì cuộc sống bất định của họ, mà tôi ghen vì họ có nhiều hứa hẹn trước mắt, vì buổi tối của họ sẽ mang lại cho họ nhiều điều thích thú. Tôi thường gặp Mameha. Ít ra chúng tôi cũng cùng uống trà với nhau nhiều lần trong một tuần. Vì cô ấy đã giúp tôi từ lúc tôi còn nhỏ - và nhất là cô đã thay mặt ông Chủ tịch để đóng vai trò đặc biệt trong đời tôi – nên chắc anh cảm thấy tôi mang ơn cô ấy không biết bao nhiêu mà kể. Một hôm vào trong một nhà hàng tôi thấy bức tranh lụa từ thế kỷ 18 vẽ cảnh một phụ nữ dạy cho một thiếu nữ tập viết. Cô giáo trong tranh có khuôn mặt trái xoan xinh đẹp, đang nhìn cô học trò với vẻ nhân từ, khiến tôi nghĩ đến Mameha, tôi bèn mua bức trang để làm quà tặng cho cô ấy. Vào một buổi chiều trời mưa, khi cô ấy treo bức tranh lên tường trong căn hộ buồn bã của cô, tôi đứng lắng nghe tiếng xe cộ chạy trên đại lộ Hagashi-Oji. Không làm sao tôi khỏi nhớ căn phòng đẹp đẽ của cô trước kia, tôi luyến tiếc vì không còn được nghe tiếng nước chảy róc rách ngoài cửa sổ từ cái thác nhỏ đổ vào con suối Shirakawa. Gion lúc ấy đối với tôi như một bức tranh cổ tuyệt vời, nhưng đã thay đổi quá nhiều. Bây giờ căn hộ của Mameha chỉ còn là một phòng nhỏ trải chiếu có màu u tối và phảng phất mùi thuốc Bắc của tiệm dược phẩm ở phía dưới – cho nên vì thế áo kimono của cô ấy thường thường cũng có mùi thuốc Bắc. Sau khi treo bức tranh thuỷ mặc lên tường xong, cô ấy ngắm nghía một lát rồi trở về ngồi ở bàn. Cô ấy ngồi hai tay ôm lấy tách trà nóng, mắt nhìn vào tách trà như thể đang suy nghĩ để tìm ra lời gì để nói. Tôi kinh ngạc thấy gân tay nổi lên thật rõ trên hai tay cô, vì tuổi già đã xồng xộc đến. Cuối cùng, vẻ mặt buồn buồn, cô lên tiếng nói: - Cuộc đời kỳ lạ thật, tương lai bất định. Cô phải cẩn thận đấy nhé, Sayuri, đừng đòi hỏi nhiều. Tôi hoàn toàn cho lời cô ấy nói là đúng. Nếu tôi không tiếp tục tin rằng một ngày nào đó Nobu sẽ tha thứ cho tôi thì chắc tôi đã sống thoải mái hơn vào những năm sau đó. Cuối cùng tôi không hỏi Mameha về việc ông ta có hỏi han gì về tôi không, tôi rất đau khổ khi thấy cô ấy thở dài và nhìn tôi với ánh mắt buồn da diết, như thể muốn nói rằng cô ấy rất buồn khi thấy tôi không nghĩ đến chuyện gì hay ho, hơn là cứ hy vọng một chuyện như thế. Vào mùa xuân năm sau, sau khi tôi đã thành tình nhân của ông Chủ tịch, ông mua một ngôi nhà thật sang ở phía Đông Bắc của thành phố Kyoto, và ông đặt tên là Eishin-an, có nghĩa là Đại phú ẩn cư. Ngôi nhà dùng đón khách của công ty, nhưng thực ra ông Chủ tịch sử dụng ngôi nhà này nhiều hơn ai hết. Đây là nơi tôi và ông cùng sống với nhau qua đêm mỗi tuần ba bốn lần, có khi nhiều hơn nữa. Gặp ngày bận bịu nhiều công việc, ông thường đi đến khuya và chỉ muốn tắm nước nóng trong khi tôi nói chuyện với ông, rồi sau đó đi ngủ. Nhưng hầu hết các buổi tối, ông đến vào lúc hoàng hôn, hay sau một chút, ông ăn cơm trong khi chúng tôi nói chuyện với nhau và nhìn gia nhân thắp đèn lồng trong vườn. Thường thường khi nào ông đến, trước hết ông nói chuyện một lát về công việc trong ngày. Ông nói về những sự rắc rối trong việc sản xuất sản phẩm mới, hay về tai nạn giao thông có liên quan đến các bộ phận do công ty sản xuất, hay những việc đại loại như thế. Dĩ nhiên tôi rất sung sướng khi được ngồi nghe ông nói, nhưng tôi thừa biết ông Chủ tịch không phải kể những chuyện này vì muốn cho tôi biết, mà ông kể là vì ông muốn nói cho nhẹ bớt tâm trí, như đổ nước ra khỏi cái xô. Cho nên tôi nghe mà không chú ý đến nội dung, chỉ chăm chú đến giọng của ông thôi, vì khi ông cất giọng lên, tôi cảm thấy như nước chảy ra khỏi xô, nghĩa là ông trở nên dịu dàng, thoải mái. Khi nào thấy thuận tiện là tôi thay đổi đề tài, và sau đó, không nghiêm trang nói chuyện làm ăn nữa, mà chúng tôi nói về các chuyện vui khác, như là sáng ấy khi đi làm ông thấy có cái gì xảy ra, hay là cuốn phim mà chúng tôi vừa mới xem tại Đại phú ẩn cư cách đây mấy đêm có hay không, hay tôi kể cho ông về câu chuyện vui mà tôi đã nghe Mameha kể, cô ấy thỉnh thoảng vài đêm lại đến thăm chúng tôi. Nói tóm lại, công việc giản dị này đã làm cho ông thư thái tâm hồn, như chiếc khăn sũng nước đem phơi ngoài nắng mặt trời. Khi ông mới đến, tôi rửa tay cho ông bằng khăn nước nóng, mấy ngón tay ông cứng như que củi. Sau khi nói chuyện một lát, chúng mềm mại dễ thương như ông đang nằm ngủ. Tôi cứ tưởng cuộc đời như thế mà trôi, hầu vui cho ông Chủ tịch buổi tối, sống thanh thản hạnh phúc suốt ngày tùy theo sở thích, nhưng vào mùa thu năm 1952, tôi theo ông sang Hoa kỳ, đây là chuyến đi thứ hai của ông ấy. Mùa đông năm trước ông sang một lần rồi, và chưa có bao giờ trong đời ông có chuyện gì gây cho ông nhiều ấn tượng sâu sắc như chuyện đi này. Ông nói rằng đây là lần đầu tiên ông chứng kiến được cảnh phồn vinh thực sự. Ví dụ, trong lúc ấy, hầu hết người Nhật mới chỉ được hưởng điện lực trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng ánh sáng trong các thành phố Mỹ thì sáng suốt ngày suốt đêm. Và trong khi chúng tôi ở Kyoto tự hào nhà ga xe lửa mới được đúc bê tong chứ không lát ván như trước, thì nền nhà các ga xe lửa ở Mỹ được lát đá hoa cứng. Ngay trong các thành phố nhỏ ở Mỹ, các rạp chiếu bóng cũng lớn như nhà hát quốc gia của chúng tôi, ông Chủ tịch nói thế, và các phòng vệ sinh công cộng khắp nơi đều sạch bong. Điều làm cho ông kinh ngạc nhất là hầu như mọi gia đình ở Mỹ đều có tủ lạnh, việc mua tủ lạnh rất dễ, chỉ cần một tháng lương của một công nhân trung bình thôi là mua được. Trong khi đó ở Nhật, một công nhân phải mất 15 tháng lương mới mua nổi cái tủ lạnh, cho nên rất ít gia đình có nổi một cái tủ lạnh như thế. Như tôi đã nói, ông Chủ tịch cho tôi đi theo ông vào chuyện đi Mỹ lần thứ hai. Tôi đi xe lửa một mình đến Tokyo rồi từ đấy chúng tôi đáp máy bay sang Hawaii. Chúng tôi nghỉ ngơi vài ngày rất thoải mái ở đây. Ông Chủ tịch mua cho tôi một bộ đồ tắm – lần đầu tiên tôi có đồ này – và tôi mặc ngồi trên bãi biển, tóc xoã dài xuống vai, như bao phụ nữ khác quanh tôi. Hawaii nhắc tôi nhớ đến Amani, tôi lo sợ ông Chủ tịch cũng có ý nghĩ như thế, nhưng nếu có, ông cũng không nói gì hết. Từ Hawaii, chúng tôi bay đến Los Angeles, rồi cuối cùng đến New York. Tôi không biết gì về nước Mỹ ngoại trừ những điều tôi thấy trên màn ảnh. Tôi không tin chuyện ở New York lại có những toà cao ốc vĩ đại như thế. Và khi vào ở trong phòng tại khách sạn Walforf-Astoria, nhìn qua cửa sổ thấy nhà cửa trùng điệp cao ngất quanh tôi và nhìn đường phố phẳng phiu sạch sẽ ở phía dưới, tôi cảm thấy như chuyện cổ tích. Thú thật tôi thấy mình như một em bé lôi ra khỏi mẹ, vì chưa bao giờ tôi rời khỏi nước Nhật, tôi không tin rằng một nơi xa lạ như New York này sẽ làm tôi sợ. Có lẽ nhờ tình thương của ông Chủ tịch mà tôi vững tâm đến đây. Ông lấy một phòng riêng dùng để làm việc, nhưng mỗi đêm ông đến ở với tôi tại căn hộ ông dành riêng cho tôi. Thường thường tôi thức dậy trong căn phòng kỳ lạ ấy, quay qua nhìn ông ngồi trong bóng tối, trên chiếc ghế kê bên cửa sổ, kéo màn che cửa để nhìn xuống Công viên Trung tâm. Một lần vào khoảng sau hai giờ sáng, ông nắm tay lôi tôi đến bên cửa sổ để nhìn một cặp tình nhân mặc áo quần như vừa đi dạ hội trở về, đứng hôn nhau dưới ngọn đèn ở góc đường. Trong ba năm tiếp theo, tôi cùng ông Chủ tịch sang Hoa kỳ thêm hai lần nữa. Trong khi ban ngày ông đi lo công việc, tôi và cô hầu đi xem các viện bảo tang rồi vào ăn nhà hàng – và ngay cả vào xem một buổi múa ba lê, vở múa làm tôi thích thú vô cùng. Kỳ lạ thay là một trong số mấy nhà hàng ăn uống của người Nhật ở New York, có người quản lý tôi đã quen rất thân ở Gion trước chiến tranh. Vào một buổi chiều trong giờ ăn trưa, tôi đến phòng riêng của ông ta ở phía sau nhà hàng, giúp vui một số người đã lâu tôi không gặp lại, như Phó giám đốc công ty Điện thoại điện báo Nippon, Tổng lãnh sự mới của Nhật, nguyên là thị trưởng thành phố Kobe, một vị giáo sư khoa chính trị ở đại học Kyoto. Tôi có cảm tưởng như được sống ở Gion trở lại. Mùa hè năm 1956, ông Chủ tịch có hai cô con gái với vợ chính thức, nhưng không có con trai – thu xếp để cho cô con gái đầu lấy một người có tên là Nishioka Mimoru. Ý đồ của ông là ông Nishioka sẽ lấy tên họ Iwamura rồi thừa kế ông, nhưng đến giây phút chót, ông Nishioka đổi ý, báo cho ông Chủ tịch biết ông ta không bằng lòng lấy con gái của ông Chủ tịch nữa. Ông này là một thanh niên có tính khí thất thường, nhưng ông Chủ tịch tin anh ta là người thông minh đĩnh ngộ. Ông Chủ tịch chán nản suốt mấy tuần, ông nạt nộ gia nhân và tôi thật vô cớ. Chưa bao giờ tôi thấy ông rối loạn tinh thần như thế. Không ai nói cho tôi biết lý do tại sao. Nishioka Minoru thay đổi ý kiến, nhưng chắc có người biết. Vào mùa hè trước, người sáng lập ra công ty bảo hiểm lớn nhất ở nước Nhật đã không cho người con trai làm giám đốc, mà lại giao cho người con trai ngoại hôn còn trẻ hơn, anh này là con của ông ta với một geisha ở Tokyo. Chuyện này đã gây ra tai tiếng một thời gian. Những chuyện như thế này trước đây đã từng xảy ra ở Nhật, nhưng thường ở các giới thấp hơn, trong những gia đình buôn bán áo kimnono hay bán bánh kẹo, hay những gia đình buôn bán khác. Ông giám đốc công ty bảo hiểm đã cho báo chí hay rằng cậu cả của ông ta là “người kém tài năng hơn…” và ông nêu tên người con trai ngoại hôn của mình, mà không nói rõ về mối liên hệ tình dục với ai hết. Nhưng chẳng cần ông nói rõ hay không, mọi người ai cũng biết sự thật. Nếu anh cho rằng Nishioka Minoru, sau khi đã bằng lòng làm kẻ thừa kế cho ông Chủ tịch, đã phát hiện ra một vài tin tức mới mẻ, như là ông Chủ tịch có con trai ngoại hôn chẳng hạn, thì theo tôi, việc anh ta không bằng lòng lấy con gái ông Chủ tịch là điều dễ hiểu thôi. Mọi người đều biết ông Chủ tịch ta than không có con trai và chỉ trông mong vào hai cô con gái. Nhưng ai biết ông ta không trông cậy vào cậu con trai ngoại hôn và biết đâu một ngày nào đấy, trước khi chết, ông ta thay đổi ý kiến, đem chuyển giao công ty mà ông đã dày công xây dựng cho cậu con trai ấy? Còn tôi thì không biết có đẻ cho ông Chủ tịch một đứa con trai hay không. Nếu tôi có đẻ, thì chắc tôi cũng không dám đề cập đến nhiều, vì sợ mang tai mang tiếng cho ông ta. Tốt nhất là không nên nói ra, vì không có lợi cho ai hết. Đối với tôi phương pháp hay nhất là không nói gì hết, tôi nghĩ chắc anh hiểu rồi. Khoảng một tuần sau ngày Nishioka Minoru thay đổi ý kiến, tôi quyết nêu vấn đề rất tế nhị này với ông Chủ tịch. Chúng tôi đang ở Đại phú ẩn cư, sau khi ăn tối xong, chúng tôi ngồi ở hàng lang trông ra vườn hoa. Trước bữa ăn ông Chủ tịch suy nghĩ miên man không nói một tiếng. - Người yêu của em – tôi nói – vừa mới đây, em có thưa với mình một chuyện rất lạ, phải không? Tôi nhìn ông, nhưng ông không có dấu hiệu gì chứng tỏ có nghe tôi nói. - Em cứ nghĩ đến phòng trà Ichiriki hoài – tôi nói tiếp – thú thật, em rất nhớ cảnh hầu vui ngày trước. Ông Chủ tịch đang ăn kem, ông liền đặt muỗng xuống. - Dĩ nhiên em không thể về lại Gion được, em thừa biết như thế. Nhưng em tự hỏi không lẽ ở New York không có chỗ để mở một cái phòng trà nho nhỏ hay sao. - Tôi không hiểu em đang nói cái gì – ông đáp – không có lý do gì để cho em rời khỏi nước Nhật hết. - Bây giờ các thương gia Nhật, các nhà chính khách Nhật đổ xô đến New York làm ăn rất nhiều như rùa con đua nhau lội xuống hồ - tôi nói – hầu hết những người này em đã quen biết từ lâu. Rời bỏ nước Nhật đúng là một sự thay đổi đột ngột đấy. Nhưng em nghĩ rồi đây người em yêu sẽ sống ở New York nhiều…- Tôi không biết đây là chuyện thật, vì ông đã nói với tôi, ông có kế hoạch mở chi nhánh tại đấy. - Tôi không có ý định như thế, Sayuri – ông đáp. Tôi nghĩ ông muốn nói thêm cái gì nữa, nhưng tôi nói tiếp như thể tôi không nghe ông nói gì. - Người ta nói đứa bé lớn lên giữa hai nền văn hoá khác nhau thường gặp nhiều chuyện rất khó khăn. Cho nên, người mẹ mang con đến ở một nơi như Hoa kỳ chẳng hạn có lẽ là hành động rất khôn ngoan, vì để cho đứa bé lấy chỗ ấy làm quê hương vĩnh viễn. - Sayuri… - Nghĩa là – tôi nói tiếp – người mẹ nào chọn lựa như thế có lẽ không mang con về lại Nhật làm gì. Đến đây, ông Chủ tịch chắc hiểu ý tôi muốn nói gì, tôi sang Mỹ tức là tôi sẽ mang theo chướng ngại vật làm cản trở việc chọn Nishioka Minoru làm người thừa kế của ông. Ông kinh ngạc nhìn tôi một lát. Rồi, có lẽ ông hình dung ra trong óc cảnh tôi ra đi, nét cau có trên mặt ông biến mất, và một giọt nước mắt ứa ra bên khóe mắt ông, ông vội nhấp nháy mắt cho giọt nước mắt rơi đi như xua một con ruồi. Tháng tám năm ấy, tôi sang New York để mở một phòng trà tí hon cho các thương gia và chính trị gia Nhật mỗi khi họ sang Hoa Kỳ. Dĩ nhiên bà Mẹ cương quyết cho rằng bất kỳ công việc kinh doanh nào của tôi ở New York cũng đều xem như một chi nhánh của nhà kỹ nữ Nitta, nhưng ông Chủ tịch thẳng thừng bác bỏ, không chấp nhận. Mẹ chỉ có quyền với tôi chừng nào tôi ở Gion, nhưng khi đã đi ra khỏi đấy, xem như tôi đã cắt đứt hết mọi rang buộc với bà ta. Ông Chủ tịch đã phái hai kế toán viên đến giúp tôi kiểm soát tiền bạc để bà Mẹ không thu được một yen nào hết. Khi cánh cửa căn hộ của tôi tại khách sạn Waldorf Towers đóng lại lần đầu tiên, xin thú thật, tôi không sợ sệt gì hết như cách đây nhiều năm về trước. Nhưng New York là một thành phố sôi động. Phải mất một thời gian thật lâu tôi mới cảm thấy quen như ở Gion được, và cảm thấy đây là quê nhà của mình. Thật vậy, khi nhìn lại thời ấy, rất nhiều kỷ niệm của tôi với ông Chủ tịch ở đây đã làm cho tôi cảm thấy cuộc đời của tôi tại Hoa kỳ phong phú hơn rất nhiều so với thời còn ở Nhật. Phòng trà nhỏ của tôi nằm trên lầu hai của một câu lạc bộ cũ trên Đại lộ Thứ Năm, gặt hái được thành quả ngay từ đầu. Một số geisha ở Gion sang làm việc cho tôi, thậm chí cả Mameha thỉnh thoảng cũng sang thăm. Bây giờ, chỉ khi nào có bạn bè thân thiết hay khách quen cũ đến thành phố, tôi mới đến hầu vui. Thế nhưng tôi đã dùng thì giờ vào cách khác. Buổi sáng tôi thường gặp các nhà văn, các nghệ sĩ Nhật ở tại đấy để nghiên cứu về các vấn đề có quan hệ đến chúng tôi – như là thi ca hay âm nhạc, lịch sử thành phố New York suốt khoá lâu một tháng. Ngày nào tôi cũng ăn trưa với một người bạn. Còn buổi chiều, tôi quỳ trước bàn trang điểm để hoá trang chuẩn bị cho các buổi tiệc – thỉnh thoảng tổ chức tại căn hộ của tôi. Khi tôi lấy tấm vải thêu che tấm gương soi ra, không làm sao tôi quên được mùi của chất hóa trang màu trắng tôi thường dùng ở Gion. Tôi rất muốn về đấy thăm, nhưng tôi sợ những đổi thay ở đấy sẽ làm tôi xúc động. Khi có người bạn nào đến, mang ảnh chụp Kyoto cho tôi xem, tôi thường nghĩ rằng Gion bé nhỏ đi như một mảnh vườn thiếu chăm sóc, để cho cỏ dại mọc khắp nơi. Ví dụ, sau ngày bà Mẹ chết cách đây mấy năm, nhà kỹ nữ Nitta bị triệt hạ để xây vào đấy một ngôi nhà bê tong cốt sắt nhỏ, ở dưới dùng làm tiệm sách, tầng trên dùng cho hai gia đình ở. Khi tôi mới đến Gion, ở đấy có tám trăm geisha hoạt động, bây giờ chưa đến 60 với một ít tập sự, và mỗi ngày lại một ít đi, vì sự đổi thay càng ngày càng gia tăng. Lần đến thăm New York sau cùng của ông Chủ tịch, ông và tôi đi bách bộ qua công viên Trung Tâm. Tự nhiên chúng tôi nhắc đến quá khứ, và khi chúng tôi đi trên con đường chạy qua rừng thông, bỗng ông Chủ tịch thình lình dừng lại. Ông thường nói cho tôi nghe về những hàng thông chạy ven đường ở ngoài thành phố Osaka nơi ông lớn lên. Khi nhìn ông dừng lại, tôi biết ông đang nhớ đến hàng thông ở đấy. Ông đứng yên, hai tay yếu đuối tựa lên chiếc can, mắt nhắm lại, hít thở thật sâu hương vị của quá khứ. - Nhiều khi – ông thở dài nói – tôi nghĩ những điều trong ký ức còn thật hơn những điều trước mắt nhiều. Khi tôi còn trẻ, tôi cứ nghĩ đam mê của người đời sẽ nhạt phai theo năm tháng, như tách nước để trên bàn sẽ bốc hơi cạn dần theo thời gian. Nhưng khi ông Chủ tịch và tôi về lại căn hộ của tôi, chúng tôi đã cùng nhau ân ái như thời còn trẻ với nhiều đam mê khát vọng, đến nỗi sau đó tôi cảm thấy tất cả sinh lực của tôi đã bị ông Chủ tịch lấy đi, nhưng đồng thời cũng được sinh lực của ông bù đắp lại. Tôi lăn ra ngủ say, mơ thấy tôi đang dự một buổi đại tiệc ở Gion, đang nói chuyện với một ông già, ông ta nói với tôi rằng vợ ông, người vợ ông rất thương yêu, không chết, vì những lạc thú mà họ đã cùng nhau hưởng vẫn còn sống mãi trong lòng của ông. Trong khi ông ta nói những lời này, tôi húp một tô súp ngon chưa từng thấy, mỗi một ngụm súp húp vào miệng là một cực khoái. Tôi cảm thấy những người tôi quen biết đã chết đi hay đã xa tôi, thật ra không ai từ giã tôi đi đâu hết, họ vẫn còn sống mãi trong lòng tôi như người vợ của ông già này cứ sống mãi trong lòng ông ta vậy. Tôi cảm thấy như tôi đã uống hết họ vào người, - chị Satsu của tôi, người đã bỏ trốn để lại tôi một mình khi còn bé nhỏ, mẹ tôi và bố tôi, ông Tanaka, với vẻ đạo đức giả, ông Nobu, người không bao giờ tha thứ cho tôi, thậm chí cả ông Chủ tịch nữa. Tô súp tôi húp đầy những thứ mà tôi đã lo nghĩ suốt cả đời, và trong khi tôi húp, ông già này rót những lời ông ta nói vào trái tim của tôi. Tôi thức dậy với nước mắt đầm đìa hai bên thái dương, tôi vội nắm tay ông Chủ tịch, lòng lo sợ khi ông chết đi để lại tôi một mình, chắc tôi không thể nào sống nổi. Vì ông đã quá yếu rồi, ngay cả khi ông nằm ngủ bên tôi, không tài nào tôi không nghĩ đến hình ảnh của mẹ tôi ở Yoroido. Thế nhưng, khi ông chết vào mấy tháng sau, tôi hiểu ra rằng ông từ giã tôi ra đi là điều rất tự nhiên, như những chiếc lá lìa cành mà thôi. Tôi không thể nói với anh cái gì đã đưa chúng tôi đến với nhau trong cuộc đời này, nhưng đối với tôi, tôi đã đến với ông Chủ tịch như hòn đá phải rơi xuống đất. Khi tôi bị rách môi và gặp ông Tanaka, khi mẹ tôi chết và tôi bị bán đi một cách tàn nhẫn, thân tôi như một dòng suối rơi xuống bờ núi đá trước khi đổ ra biển. Thậm chí bây giờ ông ấy chết rồi, nhưng với tôi, ông ấy vẫn còn bên tôi, những ky niệm về ông ấy vẫn còn nguyên vẹn trong lòng tôi. Khi kể chuyện này cho anh, là tôi đã sống lại cuộc đời tôi. Quả thật, thỉnh thoảng tôi đi qua công viên Trung Tâm, tôi lại giật mình sửng sốt trước những cảnh vật chung quanh. Những chiếc taxi màu vàng chạy vụt qua, bóp còi inh ỏi, những phụ nữ xách cặp đi qua, họ có vẻ ngơ ngác bàng hoàng khi thấy một bà già nhỏ con người Nhật mặc kimono đứng bên góc đường. Nhưng có thật nếu tôi về lại Yoroido, cảnh tượng ở đấy sẽ ít kỳ lạ hơn không? Khi còn là con gái, tôi tin rằng nếu ông Tanaka không lôi tôi ra khỏi ngôi nhà ngà say, thì chắc đời tôi sẽ không trải qua phong ba bão táp. Nhưng bây giờ tôi thấy rằng thế giới của chúng ta chẳng khác nào ngọn sóng dâng trào trên biển cả. Cho dù chúng ta thành công hay gặp thất bại, thì đàng nào chúng ta cũng nếm mùi đau khổ, tất cả trước sau gì cũng bị thời gian cuốn trôi, như mực nước trên giấy, sẽ bị thời gian xoá mờ.HẾT