IV. XÁC CHẾT DI ĐỘNG
CHƯƠNG 38

     lina Frazier - người phụ nữ giả làm cô cố vấn Patricia Barton - không có được sự lạnh lùng như đồng phạm của bà ta. Thompson Boyd đã là một tảng băng rồi. Hắn không bao giờ bị bối rối hay lo lắng. Nhưng Alina luôn luôn dễ kích động. Cô ta giận dữ, chửi rủa, khi quờ quạng cào bới qua xác cha của Geneva và lao vào con hẻm, nhìn sang trái rồi sang phải tìm kiếm cô bé.
Điên tiết vì Boyd đã bị tóm cổ, điên tiết vì cô bé đang chạy trốn.
Hít thở thật sâu, nhìn lên rồi xuống con hẻm vắng tanh vắng ngắt. Chạy đuổi lên trước rồi phía sau. Con quỷ cái nhỏ thó ấy có thể ở đâu...?
Một ánh màu tối sẫm ở bên phải cô ta: Geneva đang bò ra từ phía sau một thùng đựng rác màu xanh da trời hoen gỉ và biến mất sâu hơn vào trong khu công trường. Người phụ nữ bắt đầu lao vào truy đuổi, thở hổn hển. Bà ta to lớn, nhưng cũng rất khỏe và di chuyển nhanh nhẹn. Tù tội có thể khiến một người trở nên mềm yếu, hoặc cũng có thể vì tù tội mà biến ai đó trở thành sắt đá. Cô ta đã chọn cái thứ hai.
Frazier đã từng là một gangster trong đầu những năm 90, thủ lĩnh một nhóm nữ lang thang khắp quảng trường Thời đại và phía Upper East Side, nơi mà khách du lịch và người dân - người luôn dè chừng những đám con trai tuổi mới lớn - không hề nghĩ tới một nhóm đầy nữ quái hung dữ, mang những chiếc túi mua sắm của Daffy Dan và Macy. Cứ như vậy, cho đến khi những con dao hay súng xuất hiện và những mụ giàu có mất tiền, trang sức. Sau một thời gian ngắn ngồi tù lúc vị thành niên, cô ta lại dính vụ lớn hơn và lại ngồi tù vì tội ngộ sát - đáng lẽ đó là tội giết người, nhưng công tố viên đã nhầm. Sau khi tại ngoại, cô ta quay lại New York, ở đây, cô ta gặp Boyd thông qua một gã mà cô ta sống cùng, và khi chia tay, Boyd gọi cho cô ta. Lúc đầu, cô ta cứ nghĩ rằng đó chỉ là một trong số những thứ ở gã-da-trắng-thu-hút-những-cô-gái-da-màu. Nhưng khi nhận lời mời uống cà phê, hắn không hề muốn tán tỉnh cô ta chút nào. Hắn chỉ quan sát cô bằng đôi mắt kỳ lạ, khô khốc của mình và nói rằng sẽ rất có ích nếu một phụ nữ làm việc với hắn trong một vài nhiệm vụ. Liệu cô có cảm thấy thích thú không?
Nhiệm vụ? Cô hỏi, nghĩ tới ma túy, nghĩ tới súng, nghĩ tới những kênh ti vi về tội phạm.
Nhưng hắn đã thì thầm giải thích về công việc của mình.
Cô chớp mắt.
Rồi hắn còn thêm vào rằng nó có thể mang lại năm mươi ngàn đô cho cô chỉ sau vài ngày làm việc.
Một khoảng dừng. Rồi một cái cười nhăn nhở. “Đồng ý thôi.”
Mặc dù về sự việc liên quan tới Geneva Settle, chúng đã yêu cầu số tiền gấp năm lần số tiền trên. Nó là một cái giá khá đẹp, bởi đó là vụ khó thực hiện nhất mà chúng từng làm. Sau đợt tấn công ở bảo tàng sáng ngày hôm qua không có kết quả, Boyd đã gọi cho cô ta và yêu cầu giúp đỡ (thậm chí còn đề nghị thêm năm mươi ngàn đô nếu cô ta tự tay giết chết cô bé). Frazier, luôn luôn tinh quái nhất trong nhóm của mình, đã nghĩ ra ý tưởng đóng giả làm giáo viên cố vấn và một tấm thẻ ngành giả được làm. Cô ta bắt đầu gọi điện cho các trường công trong Harlem, đề nghị được nói chuyện với bất cứ giáo viên nào của Geneva Settle, và đã nhận được hàng tá câu trả lời: “Cô bé không được tuyển vào, rất tiếc”. Cho tới trường trung học Langston Hughes, một vài người làm việc văn phòng nói, đúng rồi, đây là trường của con bé. Frazier chỉ đơn giản là mặc một bộ trang phục công sở rẻ tiền, treo lủng lẳng chiếc thẻ trước bộ ngực to lớn và đi dạo trong trường như thể đó là chỗ của mình.
Ở đó, cô ta đã nghe về phụ huynh huyền bí của cô bé, căn hộ trên phố 118 - từ thanh tra Bell và các cảnh sát khác về ngôi nhà trên khu tây Central Park cũng như ai đang bảo vệ Geneva. Cô ta đã đưa hết những thông tin này cho Boyd để giúp hắn vạch kế hoạch sát hại cô bé.
Cô ta lén theo dõi căn nhà của cô bé ở gần Momingside cho đến khi thấy rằng việc này quá mạo hiểm bởi những người bảo vệ Geneva. (Cô ta đã bị tóm lúc lởn vởn quanh đó buổi chiều ngày hôm nay, khi một chiếc xe cảnh sát yêu cầu cô ta dừng xe bên lề đường gần ngôi nhà để kiểm tra, nhưng hóa ra là cảnh sát không truy tìm ả.)
Frazier đã nói chuyện với người bảo vệ ở Langston Hughes đưa cuộn băng an ninh sân trường cho mình, và với cái cớ ấy, cô ta đã sắp xếp để vào được bên trong căn nhà của người đàn ông bị liệt, đồng thời biết được nhiều thông tin hơn về cô bé.
Nhưng rồi Boyd bị tóm cổ - hắn đã nói với cô ta rằng những cảnh sát giỏi tới mức nào - và giờ thì nhiệm vụ của Alina Frazier là hoàn thành công việc nếu muốn phần còn lại của khoản tiền công, 125.000 đô la.
Hổn hển lấy hơi thở, người phụ nữ to lớn giờ đứng nghỉ ở giữa con dốc đưa xuống móng của khu đất. Nheo mắt vì ánh mặt trời lặn phía tây hắt vào mắt, cố gắng nhìn xem cô bé đã trốn đi đâu. Khốn kiếp, con nhóc, thò mặt ra đi xem nào.
Rồi: Có chuyển động một lần nữa. Geneva đang cố gắng tìm đường về phía bên kia của khu xây dựng bị bỏ hoang, bò thật nhanh trên nền đất, nấp sau máy trộn bê tông, Bobcats, hàng đống xà, cột và vật liệu. Cô bé biến mất phía sau một thùng dầu.
Bước vào phía bóng tối để nhìn rõ hơn, Frazier nhằm vào giữa thùng dầu và nổ súng, viên đạn trúng vào lớp kim loại với một tiếng vang lớn.
Cô ta cho rằng bùn đất bắn tóe lên không trung qua thùng đựng dầu. Liệu có trúng vào con bé không?
Nhưng không, con bé đang bò lên và di chuyển nhanh tới một đống những mảnh vụn – của gạch, đá, ống nước. Ngay khi cô bé nhảy tót qua nó, Frazier lại nổ súng.
Cô bé lộn xuống bên kia bức tường với một tiếng thét inh tai. Có một cái gì đó bắn lên không khí. Đất và bụi đá? Hay là máu?
Liệu Frazier đã bắn trúng cô bé chăng? Ả là một tay súng cừ - ả và gã bạn trai cũ, một tay buôn súng ở Newark, đã dành hàng tiếng đồng hồ nhắm bắn lũ chuột trong những tòa nhà bỏ hoang nằm ở rìa thành phố, thử những sản phẩm của chúng. Ả cho rằng mình đã bị để ý lúc này. Nhưng không thể đợi lâu để kiểm chứng điều đó; mọi người hẳn đã phải nghe thấy tiếng súng nổ. Hẳn là vài người sẽ lờ đi, chắc chắn rồi, và vài người sẽ cho rằng những công nhân vẫn đang làm việc với các thiết bị nặng. Nhưng ít nhất sẽ có một hay hai công dân tốt có thể đang gọi 911 lúc này.
Chà, để xem sao nào...
Ả ta bắt đầu chậm rãi bước xuống con dốc dành cho xe tải, để bảo đảm rằng mình không ngã; con dốc khá dựng đứng. Nhưng rồi một tiếng còi ô tô bắt đầu rú inh ỏi từ con hẻm, phía sau và bên trên ả. Đó là tiếng từ xe của cô ta.
Mẹ kiếp, ả nghĩ đầy giận dữ, cha của con bé vẫn sống.
Frazier do dự, rồi quyết định: Đã đến lúc cuốn gói khỏi nơi này. Kết thúc người cha. Geneva hẳn đã trúng đạn và không thể sống lâu được. Nhưng thậm chí nếu con bé không bị thương, Frazier có thể lần theo hạ gục nó sau. Sẽ có hàng đống cơ hội.
Tiếng còi chó chết... Nó có vẻ ầm ĩ hơn tiếng súng nổ và thu hút sự chú ý hơn. Tồi tệ hơn là, nó có thể che đi bất kỳ tiếng còi xe cảnh sát nào đang đến gần. Frazier leo lên frên con phố phía trên con hẻm bụi bẩn, thở mạnh vì cố sức. Nhưng khi tới chỗ chiếc xe, ả cau mày, thấy nó trống không. Cha của Geneva không ở ghế lái. Một vệt máu dài dẫn tới một con hẻm gần đó, nơi mà xác ông ta đang nằm sõng soài. Frazier nhìn lại một lần nữa vào trong chiếc xe của mình. Những gì xảy ra là: Trước khi bò khỏi xe, ông ta đã lôi chiếc thanh nâng của xe ra và chống nó vào phím còi ở trên bánh lái.
Giận dữ, Frazier giật mạnh nó ra.
Ả ném cái thanh nâng vào ghế sau và nhìn vào người đàn ông. Liệu ông ta đã chết chưa? Chà, nếu chưa thì sẽ sớm thôi. Ả bước về phía ông, khẩu súng ở sát sườn. Rồi ả dừng lại, cau mày... Làm thế nào mà một người đàn ông với một vết thương nặng như cái gã này có thể mở cốp xe, vặn cái thanh nâng ra, lôi nó tới ghế trước và dựng nó vào bánh lái chứ?
Frazier bắt đầu nhìn quanh.
Và nhìn thấy một hình ảnh nhòe nhoẹt ở bên phải, nghe thấy tiếng gió rít lên khi chiếc cần nậy bằng sắt vung xuống và đập mạnh vào cổ tay ả, làm văng khẩu súng và tạo ra một cơn đau nhói đến nghẹt thở xuyên suốt cơ thể. Ả đàn bà to lớn la hét và khuỵu xuống, vung tìm khẩu súng với bàn tay trái. Ngay khi ả chộp được nó, Geneva vung thanh sắt lên một lần nữa và đập vào vai ả với một tiếng rắc. Frazier lăn trên đất, khẩu súng trượt khỏi tầm tay ả. Mắt nhắm tịt vì cơn đau và sự giận dữ, ả lao tới và chặn cô bé trước khi cô có thể vung thanh sắt một lần nữa. Geneva ngã nhào, không thể thở được.
Ả đàn bà quay sang phía khẩu súng đang nằm nhưng trong hơi thở hổn hển và nghèn nghẹt, Geneva bò về phía trước, chộp lấy cánh tay phải của ả và cắn vào cái cổ tay đã bị đập trầy trụa của Frazier. Cơn đau không thể nào tồi tệ hơn nữa chạy dọc cơ thể. Frazier vung mạnh nắm đấm chắc nịch của ả vào quai hàm cô bé. Geneva hét lên và nước mắt lăn ra xối xả khi lăn lộn tuyệt vọng. Frazier loạng choạng bước tới, ôm lấy cái cổ tay đầy máu và đau đớn vì bị gãy, đá vào bụng cô bé. Cô bé bắt đầu nôn mửa.
Loạng choạng đứng dậy, Frazier tìm kiếm khẩu súng, đang nằm cách đó đến hơn ba mét. Không cần nó, không muốn dừng nó. Cái thanh sắt nâng cũng đủ để làm rồi. Bùng lên nỗi giận dữ, ả nhặt nó lên và bắt đầu bước tới. Nhìn xuống cô bé với một sự căm thù tột độ và giơ thanh sắt lên trên đầu. Geneva co rúm lại và đưa bàn tay lên ôm mặt.
Rồi một tiếng hét lên từ phía sau ả đàn bà to lớn: “Không!”.
Frazier quay ra nhìn người nữ cảnh sát với mái tóc đỏ từ ngôi nhà của người đàn ông bị liệt chậm rãi bước tới phía ả, khẩu súng ngắn tự động được nắm chặt trong hai tay.
Aliz Frazier nhìn xuống khẩu colt gần đó.
“Tôi cần một lời xin lỗi...”, người nữ cảnh sát nói. “Thực sự cần.”
Frazier ngồi sụp xuống, quẳng thanh sắt sang một bên và, cảm thấy nhụt chí, hoàn toàn thất bại. Ả ôm lấy bàn tay gãy nát của mình.
Người cảnh sát tiến tới gần hơn, đá khẩu súng và thanh sắt ra xa, khi Geneva đứng dậy, lảo đảo bước tới phía hai nhân viên y tế đang chạy lại. Cô bé chỉ cho họ về phía cha cô.
Nước mắt giàn giụa từ cơn đau, Frazier đòi hỏi: “Tôi cần bác sĩ”.
“Cô sẽ phải xếp hàng theo thứ tự”, nữ cảnh sát nói và quấn chiếc còng tay dẻo vào cổ tay ả mà trong tình trạng này, Frazier cho là thực sự nhẹ nhàng.
“Ông ấy ổn rồi”, Lon Sellito nói. Anh vừa trả lời cuộc gọi từ một nhân viên ở Bệnh viện Columbia - Presbyterian. “Anh ta không biết điều đó có ý nghĩa như thế nào. Nhưng chúng ta đã nhận được tin tốt này rồi.”
Rhyme gật đầu khi biết tin về Jackson. “Ổn” có nghĩa là gì đi chăng nữa, ít nhất thì ông ấy cũng còn sống, mà Rhyme thực sự vô cùng biết ơn điều đó - vì lợi ích của Geneva.
Các nhân viên y tế đã kiểm tra và sơ cứu các vết thương của Gevena sau đó cho cô bé về.
Chính bức ảnh về đồng phạm của Boyd đã cứu cô bé. Mel Cooper đã rà soát biển số xe mà cô bé và cha mình bước vào rồi tìm ra nó được đăng ký dưới tên Alina Frazier. Một cuộc kiểm tra nhanh chóng qua Trung tâm lưu trữ quốc gia và dữ liệu bang đã chỉ ra rằng ả có hồ sơ tiền án tiền sự: hầu tòa với tội ngộ sát và hai vụ tấn công với vũ khí chết người ở New York, cũng như một loạt những vi phạm khi còn trẻ.
Sellito đã phải dùng đến chương trình Định vị thiết bị cơ giới khẩn cấp, qua đó cảnh báo tất cả các nhân viên an ninh, cảnh sát trong khu vực tìm kiếm chiếc Sedan của Frazier. Một cảnh sát đảm trách giao thông đã báo cáo về việc trước đó không lâu một chiếc xe đã được thấy ở gần khu công trình bị phá hủy ở phía nam Harlem. Đồng thời cũng có những báo cáo về tiếng súng ở trong khu vực quanh đó. Ở nhà của Rhyme, Amelia Sachs đã nhảy vào chiếc Camaro và lao như bay tới hiện trường, nơi cô tìm thấy Frazier đang chuẩn bị đánh Geneva đến chết.
Frazier đã được thẩm vấn nhưng chẳng có chút hợp tác nào hơn đồng phạm của mình. Rhyme đoán rằng ả phải suy nghĩ rất lâu và thận trọng về việc phản bội Thompson Boyd, đặc biệt là trong tù, đó là nơi hắn có những mối liên hệ trong phạm vi lớn.
Liệu Geneva cuối cùng đã an toàn hay chưa? Hầu như là rồi. Hai tên sát thù đã bị tóm và nhân vật chính thì bị thổi bay thành từng mảnh. Sachs đã tìm đến căn hộ của Alina Frazier và không tìm thấy gì ngoài vũ khí và tiền mặt - không có thông tin nào cho thấy có một kẻ nào khác muốn truy sát Geneva Settle. Jon Earle Wilson, một cựu tù từ New Jersey, kẻ đã làm chiếc bẫy cho căn hộ ần nấp của Boyd trên phố Queens, đang được áp giải đến chỗ Rhyme, và nhà tội phạm học hy vọng rằng hắn sẽ giúp xác nhận lại những kết luận của họ. Rhyme và Bell vẫn quyết định cử một sĩ quan cảnh sát mặc thường phục trong một xe cảnh sát bảo vệ Geneva.
Giờ, chiếc máy tính kêu lên một tiếng báo thân thiện và Mel Cooper nhìn lên màn hình. Anh mở một bức email. “Chà, điều bí ẩn đã được giải đáp.”
“Có thể là điều bí ẩn nào vậy nhỉ?”, Rhyme nói một cách cộc cằn. Tâm trạng của anh ấy, luôn dễ thay đổi, có vẻ như buồn hơn vào cuối vụ án, khi sự buồn tẻ đang dần hiện ra.
“Winskinskie”.
Một từ trong ngôn ngữ của người Anh điêng trên chiếc nhẫn mà Sachs tìm ra quanh xương ngón tay bên dưới đống đổ nát ở quán rượu Potter’s Field.
“Và?”
“Đây là email từ giáo sư ở Đại học Maryland. Bên cạnh bản dịch nguyên mẫu từ ngôn ngữ Delaware: ‘Winskmskie’ là một cấp bậc trong tổ chức chính trị Tammany.”
“Cấp bậc?”
“Kiểu như là trung sĩ trong quân đội. Boss Tweed là người lãnh đạo tối cao. Còn đây - một cái hất đầu về phía những mẩu xương và cái sọ mà Sachs tìm thấy trong chiếc giếng - là Winskinskie, người canh cửa.”
“Tammany Hall...”, Rhyme gật gật đầu khi suy tư về nó, để cho tâm trí của mình trôi ngược lại dòng thời gian, bỏ qua vụ án này, đi vào cái thế giới của thời báo đen trắng và khói bụi của New York thế kỷ XIX. “Và Tweed có qua lại ở Potter’s Field. Vậy nên ông ta và bộ máy Tamany Hall hẳn đã đứng sau vụ dàn dựng ông Charles.”
Anh ra lệnh cho Cooper thêm một số tìm kiếm mới vào tấm bảng. Rồi xem xét các thông tin một lúc. Anh gật đầu. “Rất thú vị.”
Sellito nhún vai. “Vụ án đã kết thúc rồi”, Linc. Gã sát thủ đã bị tóm cổ. Tên khủng bố thì đã chết. Thế thì còn lý do gì mà một điều xảy ra hàng trăm năm trước lại thú vị nữa chứ?”
“Gần một trăm bốn mươi năm, Lon. Hãy chính xác một chút.” Arih đang cau mày khi nhìn chằm chằm vào tấm bảng bằng chứng, những tấm bản đồ - và khuôn mặt bình thản của Người treo ngược. “Và câu trả lời cho câu hỏi của anh là: Anh biết rõ rằng tôi ghét những kết thúc lỏng lẻo như thế nào.”
“Ừ, nhưng thế nào là lỏng lẻo chứ?”
“Cái điều gì mà chúng ta đã quên mất trong suốt những giờ phút nóng bỏng của trận chiến, nếu chúng ta bước đi trên một bãi mìn đầy những câu nói cũ xin một lần nữa, Lon?”
“Tôi chịu”, Sellito ậm ừ.
“Bí mật của Charles Singleton. Ngay cả khi nó chẳng có liên quan chút gì tới hiến pháp hay những tên khủng bố, ít nhất tôi đang vô cùng muốn biết nó là gì đây. Tôi cho rằng chúng ta nên tìm ra.”
Bảng bằng chứng:
Hiện trường vụ nổ bom xe tải
+ Chiếc xe được đăng ký dưới tên Bani-al-Dahab (xem hồ sơ).
+ Giao đồ ăn tới các nhà hàng Trung Đông và các xe đẩy hàng.
+ Bức thư nhận trách nhiệm về vụ đánh bom trung tâm mua bán trang sức được tìm lại. Mẩu giấy khớp với tư liệu trước đó.
+ Các thành phần của thiết bị nổ được tìm ra: Phần còn lại của Tovex, các dây điện, pin, bộ phận kích nổ bằng sóng vô tuyến, các phần của hộp đựng.
Nơi ở của Thompson Boyd và nhà an toàn chính
+ Có nhiều falafel và sữa chua hơn, các vết sơn, như trước.
+ Tiền mặt (tiền cho công việc?) 100.000 đô la tiền mới. Không có dấu vết. Nhiều khả năng được rút ra nhiều lần bằng các khoản tiền nhỏ.
+ Vũ khí (súng, gậy dùi cui, dây thừng) đưa tới hiện trường trước.
+ Acid và cyanide đưa tới hiện trường trước đó, không có dấu hiệu đưa tới nhà sản xuất.
+ Không có điện thoại di động. Các thông tin ghi chép về điện thoại khác không có ích.
+ Các dụng cụ đưa tới hiện trường trước.
+ Lá thư hé lộ ra việc G. Settle bị nhắm tới vì cô bé là nhân chứng tới một vụ cướp trang sức đang được lên kế hoạch. Nhiều carbon nguyên chất hơn - được nhận định là bụi kim cương.
- Lá thư được gửi tới Parker Kincaid ở Washington D.C., để làm các kiểm tra đánh giá về văn bản.
* Ngôn ngữ của người viết là tiếng Ả Rập.
* Thiết bị nổ tự tạo, một phần bẫy trong nhà. Các dấu tay là của một kẻ tạo bom từng bị kết án, John Earle Wilson.
- Đã được xác định. Đang được đưa tới thẩm vấn tại chỗ Rhyme.
Hiện trường quán Potter’s Field (1868)
+ Một quán rượu ở Gallows Heights - nằm trên con phố 80 ở Upper West Side, vào khoảng những năm 1860.
+ Potter’s Field có khả năng là nơi tụ tập của Boss Tweed và các chính trị gia tham nhũng của New York.
+ Charles đến đây vào ngày 15 tháng 7 năm 1868.
+ Bị đốt cháy sau một vụ nổ, được phỏng đoán là ngay sau chuyến viếng thăm của Charles. Để giấu bí mật của ông ấy?
+ Xác ở dưới tầng hầm, đàn ông, được phỏng đoán bị Charles Singleton giết.
- Phát bắn vào trán bởi khẩu Navy Colt 36 ly được nạp đạn 39 ly (loại súng mà Charles sở hữu).
- Những đồng tiền vàng.
- Người đàn ông bị giết có một khẩu Derringer.
- Không có danh tính.
- Có chiếc nhẫn khắc ‘Winskinskie’
* Nghĩa là “người canh cửa” hoặc “người gác cổng” theo ngôn ngữ Delaware của người da đỏ.
* Hiện đang tìm các nghĩa khác.
* Là một cấp bậc trong bộ máy chính trị Tammany Hall của Boss Tweed.
Hồ sơ về Nghi phạm 109
+ Thompson Boyd, cựu nhân viên thi hành án, Amarillo, TX.
+ Hiện đã bị bắt giữ.
Hồ sơ về kể thuê Nghi phạm 109
+ Bani al-Dahab, Ả Rập Xê út, ở lại Mỹ bất hợp pháp do visa đã hết hạn.
+ Đã chết.
+ Tìm kiếm tại chỗ ở cho thấy không có liên quan tới khủng bố. Hiện đang kiểm tra nhật ký điện thoại.
+ Đang thực hiện điều tra những người thuê hắn làm việc để tìm kiếm các liên hệ với khủng bố.
Hồ sơ về đồng phạm Nghi phạm 109
+ Được xác định không phải là người đàn ông theo miêu tả lúc đầu, mà là Alia Frazier, hiện đã bị giam giữ.
+ Tìm kiếm nơi ở không cho thấy vũ khí và tiền bạc, không có gì khác liên quan tới vụ án.
Hồ sơ về Charles Singleton
+ Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, một con trai. Được ông chủ cho một vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò một thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ
rất sớm.
+ Charles bị cho là đã thực hiện một vụ ăn trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm.
+ Có một bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng sẽ gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ.
+ Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York.
- Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm?
- Làm việc với Frederick Douglass và những người khác liên quan tới Bản sửa đổi số 14 trình Thượng viện để được phê chuẩn.
+ Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu:
- Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm một lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền đã được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. Không có thông tin gì về ông ấy sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ.
+ Thư của Charles:
- Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: Về cuộc khởi nghĩa chống quân dịch năm 1863, sự chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sản mà người da đen sở hữu.
- Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến.
- Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân sự. Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.
- Bức thư thứ tư, tới vợ: Đi tới Potter’s Field với khẩu súng vì “công lý”. Kết quả thảm khốc. Sự thật hiện đang nằm sâu dưới quán Potter’s Field. Bí mật của ông ấy là tất cả những gì khiến ông ấy đau khổ.