ƯỚI CHÂN CẦU BURNSIDE – PORTLAND, OREGON Thứ ba, 23 giờ 21 Jeremy cố nhắm mắt ngủ, nhưng những cơn ác mộng cứ bám riết lấy hắn. Jeremy không biết đó là do lương tâm cắn rứt hay là những cái máy nhỏ xíu đang lộng hành trong đầu hắn. Quần áo dơ dáy và ướt sũng, Jeremy nấp ở dưới gầm cầu và lặng nhìn dòng nước đục ngầu của con sông Willamette. Hắn chợt rùng mình. Phía trên đầu hắn, có tiếng gừ của một vài con bồ câu. Cao hơn nữa, trên cầu, người ta nghe thấy những xe tải chạy trong đêm, đè bẹp những vỏ đồ hộp quăng lăn lóc đâu đó. Một chiếc xe 10 bánh vừa vụt qua. Tiếng rú của động cơ giống như một tiếng nổ. Một tiếng nổ như đã diễn ra tại DyMar. Jeremy không bao giờ quên được đêm hôm ấy. Những tiếng kêu, lửa, khói. Những kẻ giấu mặt, những kẻ hung bạo được những người có thế lực thuê đã tới gieo rắc tai họa. Jeremy thấy lại tất cả. Có lẽ hắn nằm mơ, cũng có thể hắn đi ngược lại thời gian, hoặc đơn giản hơn, những vi sinh vật trong não bộ hắn đã tạo ra ảo ảnh. Hắn nói với David Kennessy: Những rào cản và vài ba anh cớm ở bên ngoài không đem lại cho tôi một ấn tượng an toàn! DyMar không phải là một trung tâm được bảo vệ tốt. Chính vì thế, Kennessy đã lén mang vào con Vador của ông và một khẩu súng. Phòng thí nghiệm đã gọi cảnh sát và yêu cầu họ tăng viện. Nhưng họ từ chối. Jeremy cho rằng thành phố không muốn điều động cảnh sát tới vì những người biểu tình không biểu hiện một sự nguy hiểm nào. Hắn đâu có biết từ chối cứu viện chính là ý đồ của họ. Kennessy là một nhà thông thái, nhưng ông không hiểu đã xảy ra chuyện gì. Kennessy nhớ lại rằng, khi đám đông trở nên hung bạo, Kennessy đã thu thập những ghi chép, những băng cassette – y hệt như các nhà bác học trong phim khoa học giả tưởng hy sinh tính mạng của họ để cứu những cuốn sổ nhỏ ghi công thức mà họ đã nghiên cứu trong bao năm. Kennessy không hiểu… Ông ta hình như muốn chống lại hơn là hãi sợ. Đã có những kẻ ngu si – Kennessy nói – muốn cản trở khoa học, nhưng chúng không bao giờ đạt được mục đích. Chẳng một ai có thể ngăn cản sự phát triển của kỹ thuật. Nhưng Jeremy biết rằng một số người có chức vụ cao trong chính phủ đã có ý định bằng mọi cách xóa bỏ kỹ thuật ấy. Họ đã hứa với Jeremy sẽ để cho hắn có đủ thì giờ để chạy trốn. Nhưng họ đã không giữ lời. Trong lúc Kennessy điện thoại cho vợ để báo cho biết tình hình nghiêm trọng thì Jeremy lục lọi khắp nơi để tìm những robot tí hon gốc, những cái đã được thử nghiệm trên con Vador của Kennessy. Những cửa kính bắt đầu bị đập vỡ. Những tiếng hò hét. Với Jeremy, không còn một khả năng nào khác ngoài việc sử dụng ngay những vi sinh vật. Người ta đã chích cho con chó và nó hoàn toàn khỏe mạnh. Những cuộc thử nghiệm trên một đối tượng người cũng đã thành công. Jeremy ngần ngừ. Hắn biết điều hắn làm sẽ là hành động một chiều. Nhưng người ta đã phản bội hắn, và ý nghĩ ấy đã buộc hắn phải có quyết định. Jeremy cho thêm vào đó chất hormone hoạt hóa. Những cái máy sẽ làm lại chương trình của chúng từ số không, để thích ứng với sứ mạng mới… Rồi họ nghe thấy một tiếng nổ lớn. Một trái bom xăng bùng cháy ở đại sảnh. Những tiếng bước chân rầm rập, những giọng nói ban ra các mệnh lệnh chính xác, trong khi đó ở bên ngoài, người ta tiếp tục hò hét. Kennessy bắt đầu sợ. Đã tới lúc ông phải hiểu. Nhưng đã quá muộn. Bốn phát súng. Bốn viên đạn vào giữa ngực. Nhà bác học khốn khổ ngã ngửa ra trên mặt bàn, hai tay bắt chéo. Rồi trung tâm DyMar trở thành địa ngục. Khói lửa mù mịt. Jeremy cố gắng chạy trốn, nhưng hình như những ngọn lửa vẫn đuổi theo hắn. Một tiếng nổ mới hất hắn về phía trước. Hắn lăn tròn trên tấm thảm mà một phần đã bị cháy xém. Hắn chạy đến cầu thang cuốn, ở đó có một lối thoát. Lại một tiếng nổ khác. Hắn cảm thấy biểu bì rạn nứt, da hắn cháy xem. Hắn hét lên, không chỉ vì đau đớn mà còn vì căm phẫn, bởi người ta đã phản bội hắn… Jeremy hét lên một tiếng rồi tình dậy. Hắn vẫn ở dưới gầm cầu. Tiếng kêu của hắn dội trên mặt nước. Hắn loạng choạng đứng dậy, cảm thấy cơ thể quằn quại. Những cái bướu dưới lớp da sống động và cựa quậy: những sinh thể sáng tạo bởi con người bắt đầu sản xuất… Hắn nghiến răng, nắm chặt tay. Đừng run nữa… hãy kiểm soát sự đau đớn. Không… rồi mọi sự sẽ qua… Hắn ngắm nhìn gầm cầu nơi hắn đã qua đêm. Năm con bồ cầu nằm đó, tất cả đều chết, mắt trắng dã. Lông chúng rũ rượi, mỏ há ra, cái lưỡi nhỏ bé thò ra ngoài. Jeremy thấy buồn nôn trước hiện tượng ấy. Nhưng hắn không hề có ý định rằng rồi đây cơ thể hắn cũng sẽ bị tàn phá như vậy. Hắn thu hết nghị lực rồi dò dẫm lên mặt đường. Bất cứ giá nào hắn cũng phải rời khỏi Portland. Nhất định hắn phải tìm bằng được những người mà hắn cần gặp. Chỉ còn rất ít thời gian. Phải mau chóng tìm ra họ trước khi quá muộn. BƯU ĐIỆN TRUNG ƯƠNG – MILWAUKIE, OREGON Thứ tư, 10 giờ 59 Scully và Mulder cùng đến bưu điện. Họ giả vờ điền vào các mẫu khai in sẵn để gửi những lá thư bảo đảm. Cái mà họ quan tâm là những thùng thư ấy, hai người lại trao đổi một cái nhìn nhanh chóng, để sẵn sàng. Những cái hộp được người ta mở ra không phải là 3733! Hơn nữa, chẳng có khách vãng lai nào phù hợp với sự mô tả do cơ quan cung cấp. Mãi nửa giờ sau mới có một anh chàng gầy gò, mặt lưỡi cày tiến về phía các hộp thư. Đó là một con người kỳ dị: trán bóng lộn như đánh xi, bộ râu để theo kiểu Freud, má lõm và cặp mắt láo liên. Mulder, chính hắn. Alphonse Guric, Scully đã nghiên cứu rất nhiều tấm hình của hắn. Mặc dù hắn đã hóa trang, nhưng nàng vẫn nhận ra hắn. Mulder kín đáo gật đầu. Như Scully đã tiên liệu, các chuyên viên của cơ quan đã dễ dàng tìm ra nguồn gốc của bức thư. Cái gọi là nhóm “Giải phóng tức khắc” đã viết thư trên giấy có nhãn hiệu, chữ viết cũng không giả mạo, lại còn hai dấu tay để lại ở phía dưới thư. Việc làm của một tay mơ. Người đàn ông giấu mặt sau những chuyện ngờ nghệch đó tên là Alphonse Gurik. Hắn không có chỗ ở nhất định và là một gã chuyên đi biểu tình. Scully theo dõi hắn lại gần các thùng thư. Hắn đúng là một tên ngớ ngẩn, nhưng đầy nhiệt tình, và dĩ nhiên, không có tay nghề. Trong khi ấy, lúc quan sát những phế tích của DyMar, Scully có thể xác quyết rằng cuộc tấn công đã được chuẩn bị chu đáo và được thực hiện bởi những phần tử chuyên nghiệp. Gurik quay số để mở ngăn 3733, rồi lấy ra một chồng thư. Scully ra hiệu cho Mulder. Họ cùng nhảy bổ tới và dí vào mũi hắn huy hiệu FBI. Alphonse Gurik, anh đã bị bắt – Scully nói với giọng đanh thép. Gurik để rơi những lá thư xuống đất, giơ tay lên và run lẩy bẩy: Tôi không làm gì cả. Tôi vô tội. Các người không có quyền làm vậy. Các người là đồ phát xít. Mọi người nhìn họ. Scully rút trong túi ra một tờ giấy. Đây là lệnh bắt giữ anh, tác giả của bức thư yêu sách phá hoại phòng thí nghiệm của trung tâm nghiên cứu DyMar. Có hai người chết trong vụ này. Mặt Gurik trắng bệch. Tôi… nhưng… nhưng… Mulder tra còng vào tay hắn, còn Scully thì lùi lại phía sau để phòng ngừa hắn giở trò. Theo hồ sơ, Gurik đã bị tống giam bảy lần, vì những hành động phá rối: ném đá, biểu tình đòi cái này cái nọ, vẽ bậy bạ trên tường các công ty đa quốc gia mà hắn không thích… Mulder đẩy hắn ra bên ngoài trong khi Scully nhặt những bức thư của hắn. Ba mươi giây sau khi ra khỏi cửa bưu điện, hắn bắt đầu van xin: Vâng, tôi đã gửi thư, tôi thú nhận! Nhưng tôi không bao giờ ném bom cháy vào DyMar, không bao giờ giết một ai, không can dự vào những vụ nổ. Tôi vô tội! Scully tin ở hắn. Nhìn phong cách của hắn, nàng cũng biết hắn không có đủ khả năng làm những việc ấy. Cuộc biểu tình được hình thành ra sao? Scully hỏi. Người ta đến từ nhiều phong trào khác nhau với mục đích giải phóng những con vật của phòng thí nghiệm. Nhưng có một gã tập hợp chúng tôi. Hắn bảo hắn sẽ gửi thư cho nhà báo sau khi biểu tình. Nhưng hắn không làm. Sự thật, hắn đã chuồn mất. Tôi cho rằng hắn sợ. Thế là tôi quyết định tự đảm nhiệm việc yêu sách. Cần phải có người đứng ra làm chứ, phải không? Người ta có quyền biết phòng thí nghiệm đã hành hạ những con vật như thế nào! Họ đi ra phố. Gurik buồn rầu nhìn cái xe tải cũ kỹ đã tróc hết sơn đậu ở vỉa hè. Xe của anh đấy à? Mulder hỏi. Anh đậu xe ở nơi dành cho khách bộ hành. Vi phạm luật giao thông! Sẽ bị rút bằng lái. Họ lại gần xe. Trong xe đầy truyền đơn, chống đủ mọi thứ: chống thử hạt nhân, chống ô nhiễm môi trường… Mulder đẩy Gurik vào thành xe, hỏi: Anh thú nhận rằng anh đã tham gia biểu tình? Phải, phải, tôi thú nhận! Nhưng có biết bao nhiêu người, đâu phải mình tôi. Tôi không đốt phá, cũng chẳng ném đá. Tôi chỉ giơ cao biểu ngữ và hò hét cùng với những người khác. Tôi không biết kẻ nào đã ném bom cháy, nhưng không phải tôi. Ai đứng đằng sau nhóm “Giải phóng tức khắc”? Chẳng có ai. Đó là cái tên do tôi nghĩ ra. Trong quá khứ, tôi đã bịa ra nhiều nhóm, nhiều hội. Tối hôm đó có đông người tham dự nên cũng phải đặt cho nó một cái tên. Ai tổ chức cuộc biểu tình trước trung tâm DyMar – tới lượt Scully mở cuộc tấn công. Tôi không biết. Đông lắm, những hội, những nhóm, người ta đã có những cuộc tiếp xúc. Giữa họ luôn không có sự nhất trí, nhưng người ta biết sát cánh bên nhau khi có vấn đề quan trọng. Cuộc biểu tình chống DyMar được hình thành trong thời gian rất ngắn. Nó gồm những thành phần của những tổ chức khác nhau; họ không biết rõ tại sao họ đã tụ tập ở đấy, thế rồi mọi người biến đi đâu mất hút. Những người chủ trương vụ này xứng đáng là bậc thầy: mọi người tưởng rằng tới đó theo sự yêu cầu của những người khác. Giỏi thiệt! Một việc làm tuyệt vời! Scully nghĩ rằng anh bạn đồng nghiệp đã có lý khi anh ta nhìn thấy một âm mưu đen tối, trong vụ này, và cô dịu dàng hỏi: Alphonse, anh có thể giúp đỡ chúng tôi, hãy nói cho chúng tôi biết họ đã dẫn Patricia và Jody đi đâu? Gurik tỏ ra không hiểu” Ai? Vợ và đứa con trai của một trong những nhà bác học mà các người đã giết trong vụ hỏa hoạn ở DyMar. Tôi không biết cô nói gì. Tôi chưa bao giờ nghe thấy những tên ấy, vả lại, tôi không giết ai cả. Trong lúc các người phá phách DyMar, vợ và con trai của Kennessy đã bị bắt có tại nhà của họ ở Tigard. Tôi tin chắc anh là người chịu trách nhiệm về hành động bỉ ổi đó. Tôi muốn biết tên những tòng phạm của anh. Mulder biết rõ Gurik không can dự gì vào vụ mất tích này, nhưng nếu hắn hoảng sợ, hắn có thể cung khai một vài chi tiết có lợi cho cuộc điều tra. Nhưng… tôi vừa nói với ông rằng tôi chỉ hò hét trước trung tâm DyMar. Tôi không quen những người làm việc ở đó. Tôi đi biểu tình là theo nguyên tắc, để bảo vệ những tư tưởng của tôi. Scully quay về phía Mulder, khẽ nói: Cần phải tìm ra Patricia và Jody. Sẽ không mấy khó khăn để tìm thấy đứa bé. Đừng quên rằng nó phải được tiếp tục cuộc trị liệu chống ung thư. CAO ỐC FEDERAL 313 THỊ TRẤN CRYSTAL, VIRGINIA Thứ tư, 11 giờ 30 Một văn phòng vắng người, vài vật dụng bằng gỗ do nhà nước cung cấp. Adam Lentz đang xem xét một băng video cassette. Nó được đưa về từ những phế tích của DyMar và hãy còn đượm mùi khói. Adam hấp tấp muốn soi nó bằng máy. Tên của Adam không xuất hiện trên cửa văn phòng cũng chẳng có ở trên bàn. Hắn không cần cái bề ngoài lộng lẫy. Hắn có đủ các chức tước để có thể đi đâu cũng lọt. Hắn chọn sở làm và cấp bậc của hắn tùy theo sứ mạng mà hắn phải hoàn thành. Hắn giữ một vai trò luôn thay đổi. Chỉ một điều đáng kể: thành công trong sứ mạng mà người ta giao cho hắn. Căn phòng không có cửa sổ, cái đó muốn nói rằng không có ai có thể dò xét hắn. Văn phòng của hắn tọa lạc trong một tòa nhà giống như tất cả các tòa nhà công của thành phố. Không có một dấu hiệu đặc biệt nào để phân biệt với những cái khác. Một trong những sứ mạng của Adam: Giám sát những nghiên cứu của Kennessy ở DyMar, rồi những nhà nghiên cứu khác của NASA, của Viện Kỹ thuật California, của Trung tâm nghiên cứu phân tử quốc gia, và ngay cả ở Nhật, trong những phòng thí nghiệm của Mitsubishi. Nhưng vấn đề của Kennessy là ưu tiên hàng đầu. Adam biết rằng, chỉ có hắn mới khám phá được những việc làm của Kennessy. Hắn luôn bám sát những nghiên cứu của ông ta, nhưng ông ta đã thực hiện được những bước tiến khiến hắn không thể kiểm soát nổi. Adam cầm cuộn băng lên. Hắn hy vọng những ngọn lửa chưa đụng tới nó. Thuộc hạ của hắn đã tỏ ra rất cừ khôi: họ biến DyMar thành một đống hoang tàn, thiêu hủy tất cả những tài liệu nguy hại, và họ đã khám phá ra cái két sắt của Kennessy, trong đó họ tìm thấy băng cassette này. Hắn đứng dậy, đi ra khóa cửa, rồi lấy ra một máy liên hợp T.V – máy ghi hình từ để lên bàn. Trước khi tắt đèn, hắn cho cassette vào trong máy. Hắn biết nội dung, nhưng chưa coi hình. Một hình ảnh xuất hiện trên màn hình. Một con chó Labrador đen đi vòng tròn trong chuồng. Nó vẫy đuôi như thể hy vọng được người ta mở cửa cho nó ra. Rồi Kennessy bắt đầu hiện ra. Tốt, ngoan nào, Vador? Hãy bình tĩnh một chút chứ. Ngồi xuống, ngồi xuống. Nhà khoa học giơ tay vuốt tóc trong lúc nhìn vào camera. Ông ta đổ mồ hôi. Cuộn băng này được dùng để thuyết phục những nhân vật cao cấp hãy còn ngờ vực việc làm của ông. Kennessy muốn người ta biết rằng ông đã thành công. Nhưng có điều ông chưa biết, chính sự thành công ấy đã dẫn ông tới cái chết. Những kẻ quyền thế đỡ đầu cho ông có bao giờ lại nghĩ rằng ông sẽ thành công, có ngờ đâu… Thành thử các ngài ấy sợ. Kennessy lau ống kính. Con chó vẫy đuôi. Bên cạnh ông là Jeremy Dorman, chờ đợi lệnh của ông. Cảnh tượng ấy không khác gì như Frankenstain, viên phụ tá Igor của lão ta và con quái vật… Kennessy bắt đầu nói. Giọng ông khàn khàn. O.K. thưa quí bà và quí ông, tối nay quí ngài sẽ được chứng kiến một cảnh tượng mà quí vị chắc sẽ khó quên. Tôi đã gửi tới các ngài các báo cáo và kết quả của những cuộc thí nghiệm của tôi. Nhưng hình như người ta không được, hoặc ít ra thì cũng không hiểu. Tôi rất buồn khi người ta chôn vùi công trình của tôi dưới hàng tấn hồ sơ. Tôi nghĩ rằng các ngài xem video chắc sẽ thích hơn. Trong lúc ngồi uống cà phê, các ngài sẽ có thể xem nó. Kết quả của những cuộc thí nghiệm của tôi sẽ làm thay đổi bộ mặt của thế giới, chuyện đó xứng đáng để các ngài bỏ ra 5 phút trong số thì giờ “vàng ngọc” của các ngài, có phải không ạ? Adam Lentz nhướng mày: Ồ không, người ta không quên đọc các báo cáo của nhà bác học. Trái lại, người ta đã nghiên cứu chúng với một sự chú trọng cực kỳ. Trên màn hình, Kennessy nổi đóa. Các ngài, những kẻ quan liêu, các ngài chỉ biết tài trợ mà chẳng hiểu gì cả. Ông ngần ngừ như thể hối tiếc vì đã nặng lời. Rồi quay về phía người phụ tá. Dorman, anh đã sẵn sàng chưa? Người phụ tá của ông hình như rất bối rối. Hắn đặt một tay lên những chấn song của cái chuồng để có một chỗ dựa. Con chó liếm những ngón tay của hắn. Dorman giật nẩy người và lùi lại như bị chó cắn. Jeremy! Hơ… David, ông có chắc mình muốn làm chuyện đó không? Kennessy thở dài. Không, thật ra tôi muốn buông xuôi tất cả, nhìn Jody chết mà chẳng làm gì được và trở thành một anh thư ký quèn. Dorman ra dấu bảo ông bình tĩnh lại. O.K, chỉ hỏi vậy thôi? Kennessy khen ngợi con chó. Nó ngồi trong chuồng trìu mến nhìn ông. Vador ngoan lắm! Jeremy Dorman biến mất trong chốc lát, rồi trở lại với khẩu Smith Wesson cỡ lớn. Adam biết Kennessy đã mua nó vài ngày trước đó, và trả bằng tiền mặt. Điều mà các ngài sắp coi đây sẽ khiến các ngài bị sốc ghê gớm. Tôi xin phép được khẳng định rằng chúng tôi không sử dụng xảo thuật nào… rồi các ngài sẽ biết tôi muốn nói gì. Kennessy quay về phía người bạn đồng nghiệp. Jeremy, anh có thể nổ súng. Viên phụ tá từ từ chĩa khẩu súng vào con chó đang nhìn hắn. Vador cảm thấy một cái gì đó không bình thương. Nó đứng dậy, lùi lại và nhe răng gầm gừ. Jeremy bắn hai lần. Hai viên đạn bắn trúng con chó và hất nó vào tường. Một viên trúng ngực còn viên kia làm vỡ sống lưng. Máu đỏ chảy trên bộ lông đen tuyền của nó. Jeremy lùi lại nhìn khẩu súng, ngỡ ngàng. Trời ơi! David, hội bảo vệ súc vật sẽ giết chúng ta mất! Kennessy tiến ra trước camera, nói với một giọng nghiêm túc: Những khám phá của tôi về vi kỹ thuật sẽ được ứng dụng vào y khoa. Nền tảng của nhiều công ty sẽ bị xáo trộn. Adam không thể ngăn cản được sự thán phục Kennessy: ông ta có vẻ như đang đọc một bài diễn văn để bảo vệ những ý kiến của ông, trong khi con Vador trung thành rên rỉ trên đất, đằng sau ông ta. Vâng, Kennessy có lý khi nói rằng vi kỹ thuật sẽ làm “xáo trộn” thế giới. Chính vì thế Adam phải kiểm soát kỹ thuật ấy, bằng bất cứ giá nào. Nhà khoa học trên màn ảnh quay về phía con chó. Sau một chấn thương nặng như vây, việc đầu tiên mà những vi sinh vật sẽ làm là vô hiệu hóa những trung tâm quản lý sự đau đớn trong não bộ con vật. Vador thình lình đứng dậy. Nó có vẻ hoàn toàn ngơ ngác và thè lưỡi ra. Hình như nó không biết thân thể nó bị thủng hai lỗ to tướng. Nó khuỵu xuống. Nhưng cuối cùng nó ngồi dậy được, duỗi chân ra rồi bất động. Người ta có thể ngỡ nó ngủ. Những bộ máy đang đo lường phạm vi của những tổn hại. Chúng có thể thông báo cho nhau và kết hợp với nhau để chạy chữa cho con vật. Ông ta bước vào trong chuồng và đặt tay lên đầu con chó. Nhiệt độ của nó bắt đầu tăng, cái đó là những vi phân tử đã sản sinh ra nhiệt. Máu con Vador không còn chảy nữa, hãy cho camera lại gần đây, tôi muốn người ta nhìn thấy cận cảnh. Jeremy tuân theo. Kennessy im lặng, bởi những hình ảnh tự nó đã nói. Một chấn thương đã định vị như trường hợp này sẽ dễ dàng chăm sóc hơn một chứng bệnh len lỏi khắp nơi như ung thư. Những bộ máy tí hon sẽ tự lập trình với chức năng A.D.N của con chó ấy và sẽ sửa chữa những chỗ cần thiết. Trong một thời gian không lâu, công việc ấy sẽ được kết thúc. Nhưng để chữa một bệnh nhân bị ung thư mang những khối u ở nhiều nơi, cần phải hàng tháng. Với con Vador thì ngược lại… Ông tránh ra một bên để camera có thể thấy nó. … Nó sẽ lại bắt đầu săn đuổi những con mèo ở trong vườn ngay từ sáng mai! Jeremy hình như vẫn còn khiếp hãi. Hắn lắp bắp: David! Nếu người ta biết… chúng ta sẽ mất hết! Tôi không nghĩ thế. David cười lớn. Tôi sẵn sàng cá với anh một hộp bích qui cho con Vador, rằng sự việc sẽ ngược lại. Một giờ sau, conVador đã ngồi chồm hỗm, tươi tỉnh và sảng khoái. Nõ rũ lông rồi sủa. Kennessy mở cửa chuồng và con vật vẫy đuôi mừng rỡ như thể không có chuyện gì xảy ra. Hết phim. Adam đờ người ra. Công việc được thực hiện bởi ê kíp của DyMar, nguy hiểm nhiều hơn hắn tưởng! Nếu một khám phá như thế mà không giữ bí mật hoặc đem hủy đi, thì hậu quả sẽ khó lường! Hắn đứng dậy và lấy cuộn băng ra khỏi máy. Cần phải thủ tiêu tất cả những chứng cứ. Bây giờ hắn mới hiểu cấp trên của hắn đã có lý. Băng video và những tài liệu khác để trong két sắt vẫn còn nguyên sau vụ cháy. May mắn thay, các thuộc hạ của hắn đã lấy được hết. Adam gãi cằm: câu chuyện của con chó đã giải thích tất cả. Vì vậy người ta hiểu tại sao Kennessy lại hốt hoảng điện thoại về nhà, trong lúc DyMar bị tấn công – dĩ nhiên tất cả những đường dây của DyMar đều bị nghe lén. Nhà bác học không để cho vợ nói nửa lời. Đằng sau ông, người ta nghe thấy những tiếng nổ, tiếng kêu. Ông hét vào máy: Patricia, hãy đưa Jody và Vador đi ngay lập tức. Đừng chậm một giây. Những cơn ác mộng ghê gớm của chúng ta đang trở thành hiện thực. Phải trốn đi. Anh dang bị bao vây ở DyMar. Em đừng để cho họ bắt. Trốn đi ngay cùng với con trai của chúng ta và con Vador! Sự liên lạc bị ngừng trước khi Patricia kịp trả lời. Nhưng bà đã vâng theo lời chồng. Khi người của đội đặc nhiệm tới nhà riêng của Kennessy, họ chẳng thấy ai, kể cả con chó mà người ta nhìn thấy trên video. Adam không hài lòng cho lắm. Lúc đầu, hắn phái thuộc hạ đến nhà bà Kennessy, bởi vì hắn nghĩ rằng bà có trong tay những cuốn sổ ghi chép công việc của chồng bà. Sai lầm lớn. Nhân vật đáng quan tâm nhất và nguy hiểm nhất trong gia đình Kennessy không ai khác ngoài con Labrador. Làm sao có thể đoán ra được chuyện đó? Adam thở dài để lấy lại sự bình tĩnh, và định nhấc máy điện thoại. Nhưng hắn nghĩ lại: không, lỗi này nặng quá, không thể tha thứ được. Không nên để cho cấp trên biết. Chính hắn phải tự sửa sai. Sẽ không còn một tí gì về DyMar nữa. Không còn một tài liệu, không còn một chứng cứ nào nữa! Nhưng Adam chưa kết thúc sứ mạng của mình. Hắn hãy còn phải tìm ra một người đàn bà, một cậu bé và, nhất là con Labrador đen.