Thưa các cha và các thầy yêu quý, tôi sinh ra ở một tỉnh miền bắc xa xôi, thị trấn N, bố là quý tộc, nhưng không phải là người quyền quý, mà chỉ là viên chức thường. Bố tôi mất khi tôi mới chỉ hai tuổi, tôi không nhớ gì về Người. Người để lại cho mẹ tôi một căn nhà gỗ nhỏ và một số vốn không lớn, nhưng đủ cho mấy mẹ con sống không túng thiếu. Chúng tôi có hai anh em: tôi Zinovi và anh tôi, Marken. Anh hơn tôi tám tuổi, nóng tính và hay cáu kỉnh, nhưng tốt bụng, không ưa cợt đùa, ít nói lạ lùng, đặc biệt là ở nhà, với tôi, mẹ và gia nhân. Ở trong, tôi học khá nhưng không hoà hợp với các bạn, này không cãi cọ với ai, ít ra theo mẹ tôi nhớ thì như vậy. Nửa năm trước khi anh tôi mất, khi ấy anh đã mười bảy tuổi, anh thường lui tới với một người sống tách biệt ở thị trấn chúng tôi, hình như là một người tù chính trị bị lưu đày từ Moskva đến thị trấn chúng tôi vi có tư cưỡng tự do. Người bị lưu đầy ấy nguyên là một triết gia uyên bác và nổi tiếng ở trường đại học tổng hợp. Không hiểu vì sao ông yêu Marken và tiếp anh. Anh thường ở nhà ông ta suốt buổi tối cứ như thế cả mùa đông cho đến khi người đi đày được gọi về giữ một chức vụ nhà nước ở Peterburg, theo sự thỉnh cầu của chính ông, vì ông có những người che chở. Bắt đầu tuần chay lớn, Marken không ăn chay, nhiếc móc và nhạo báng việc ăn chay: "Toàn chuyện nhảm nhí, chẳng có Chúa Trời nào hết", - anh làm cho cả mẹ và gia nhân đều kinh hãi, cả tôi cũng hãi vì tôi tuy mới lên chín, nhưng nghe những lời như thế tôi khiếp sợ lắm. Gia nhân nhà tôi toàn là nông nô, bốn người, mua của một địa chủ quen biết. Tôi còn nhớ, trong bốn người ấy mẹ tôi đã bán chị bếp Afimia thọt, đứng tuổi với giá sáu mươi rúp tiền giấy, và thay vào đó bà thuê một đầy tớ gái là người tự do. Sang thần chay thứ sáu, anh tôi bỗng đau yếu hơn, anh vốn hay ốm, yếu phổi, tạng người yếu ớt, dễ lao phổi; tầm vóc nhỏ, thanh mảnh, còm cõi, nhưng khuôn mặt thì rất cao quý. Đâu như anh bị cảm lạnh, bác sĩ đến và nói nhỏ với mẹ tôi rằng đây là lao phổi cấp và không qua được mùa xuân đâu. Mẹ tôi khóc, lựa lời để không làm anh hoảng sợ, bảo anh đi lễ và chịu phép ban các bí tích, bởi vì lúc ấy anh vẫn còn đi lại được. Nghe xong anh nổi giận, chửi rủa nhà thờ nhưng rồi anh nghĩ lại: anh đoán ra ngay là anh mắc bệnh hiểm nghèo, vì thế mẹ bảo anh đi lễ nhà thờ và chịu phép ban thánh thể trong lúc anh còn đủ sức đi. Tuy nhiên anh cũng biết mình ốm từ lâu, từ trước đó một năm, có lần ngồi ở bàn, anh đã nói với mẹ và tôi bằng giọng điềm nhiên. "Số con không sống được với mẹ và em, có lẽ con không sống nổi một năm nữa đâu", dường như anh đã nói lời tiên tri. Ba ngày sau bắt đầu tuần lễ thánh. Từ sáng thứ ba anh đi lễ nhà thờ. "Mẹ ơi, chỉ vì mẹ mà con làm như thế, chỉ cốt cho mẹ vui và yên lòng", - anh nói với mẹ. Mẹ tôi khóc vì vui sướng và đau xót: "Chắc ngày tận số của nó sắp đến rồi thì nó mới thay đổi đột ngột như thế chứ" Nhưng anh đi nhà thờ chẳng được bao lâu, anh ốm liệt giường, vì vậy anh xưng tội và chịu phép ban bí tích ở nhà. Bắt đầu những ngày tươi sáng, ngát hương thơm, cuối kỳ, lễ Phục sinh. Tôi nhớ, suốt đem anh ho, kém ngủ, vậy mà sáng ra bao giờ anh cũng mặc chỉnh tề và thủ ra ngồi ghế bành mềm. Tôi vẫn nhớ hình ảnh anh như thế: anh ngồi đấy, bình lặng, hiền hoà, mỉm cười, anh đang ốm mà vẻ mặt vui tươi, sung sướng.
Anh đổi khác hẳn trong tâm hồn, ở anh đột nhiên có sự thay đổi kỳ diệu như thế đó! Bà vú già vào phòng anh, "cậu ơi, cậu cho phép tôi thắp đèn thờ trước ảnh thánh trong phòng cậu nhé". Trước kia anh không cho thắp, thổi tắt ngay. "Cứ thắp lên, vú thân yêu cứ thắp lên, tôi là con quái vật, vì trước ba tôi đã cấm thắp đèn thờ. Vú cứ tháp lên mà cầu nguyện Chúa, còn tôi sẽ vui sướng cầu nguyện cho vũ. Như vậy chúng ta cùng cầu nguyện một Chúa Trời". Chúng tôi lạ lùng về những lời đó, mẹ tôi lui về phòng riêng, và cứ khóc hoài, chỉ khi trở lại chỗ anh, mẹ tôi mới lau khô nước mắt và làm bộ vui vẻ. "Mẹ ơi, đừng khóc, mẹ thân yêu đôi khi anh nói, - con còn sống lâu, còn vui vầy nhiều với mẹ và em, còn cuộc sống, cuộc sống vui vẻ, sung sướng biết bao!". "Ôi chao, con yêu dấu, con vui làm sao được, ban đêm con sốt nóng hầm hập và ho tưởng rách lồng ngực". - "Mẹ ơi, - anh trả lời, - mẹ đừng khóc, cuộc sống là thiên đàng, và tất cả chúng ta đang ở thiên đàng, vậy mà chúng ta không muốn biết điều đó, chứ nếu ta muốn biết thì ngày mai cả thế gian này sẽ thành thiên đàng". Mọi người đều ngạc nhiên về lời anh nói, anh nói điều đó một cách hết sức kỳ lạ và kiên quyết, ai nấy đều cảm động và khóc. Người quen đến thăm chúng tôi, "Các bạn thân mến ơi. - anh nói, - tôi có gì đáng được các bạn yêu mến, vì lẽ gì các bạn yêu tôi khi tôi như thế này, làm sao trước kia tôi lại không biết, không quý trọng điều đó nhỉ?". Gia nhân vào, anh nói: "Các bạn yêu quý ơi, vì sao các bạn hầu hạ tôi, tôi có đáng được các bạn hầu hạ không? Nếu Chúa Trời gia ơn cho tôi còn được sống thì tôi sẽ hầu hạ các bạn, vì mọi người phải hầu hạ nhau". Nghe anh nói, mẹ lắc đầu: "Con yêu quý của mẹ, con ốm đau nên mới nói như vậy". - "Mẹ ơi, mẹ là niềm vui sướng của con, - anh nói, - không thể không có chủ và tớ, nhưng nếu vậy thì con sẽ hầu hạ đầy tớ của con như họ vẫn hầu hạ con. Mẹ ạ, con còn xin nói thêm với mẹ rằng mỗi người chúng ta đều có lỗi với tất cả mọi người khác về tất cả mọi việc, còn con thì có lỗi hơn cả". Mẹ tôi mỉm cười, khóc và mỉm cười: "Làm sao con lại có lỗi hơn ai hết trước tất cả mọi người? Có những kẻ giết người, cướp bóc, con đã kịp phạm tội gì như thế đâu mà từ quy tội cho mình hơn ai hết?" - Mẹ ơi, mẹ ruột thịt của con, - anh nói (dạo này anh bắt đầu thốt ra những lời cao nhã, bất ngờ như thế), - mẹ ruột thịt thân thương, vui vẻ của con, mẹ nên biết rằng mỗi người thực sự có lỗi với tất cả mọi người khác về mọi sự. Con không biết giải thích điều đó với mẹ như thế nào, nhưng con đầu lòng cảm thấy như thế. Làm sao có thể sống mà cứ cáu giận, không hề biết gì cả?" Mỗi ngày cứ ngủ dậy anh càng cảm động hơn, vui sướng hơn, lòng tràn ngập tình yêu xao xuyến. Đôi khi bác sĩ đến - ông già Ayzenxmit người Đức: "Thế nào, thưa bác sĩ, tôi còn sống được một ngày nữa trên đời không ạ?" - anh bông đùa với ông ta. "Không phải một ngày, mà anh sẽ sống thêm nhiều ngày nữa, - bác sĩ đáp, - nhiều tháng và nhiều năm nữa". - "Cần gì phải hàng năm, hàng tháng! - anh kêu lên, - mà cần gì phải hàng ngày, chỉ cần một ngày là đủ để con người biết được tất cả hạnh phúc. Hỡi những người yêu mến của tôi, cớ gì chúng ta cãi cọ nhau, khoe khoang nước mặt nhau, oán hận nhau: chúng ta cứ đi thẳng vào vườn, dạo chơi và nô đùa với nhau, yêu mến và khen ngợi lẫn nhau, hôn nhau và cảm tạ cuộc sống của chúng ta". - "Cậu con trai bà không sống được bao lâu nữa đâu. - Bác sĩ nói với mẹ tôi, khi bà tiễn ông ra đến bậc tam cấp. - Bệnh tật làm cho cậu ấy lẫn trí". Cửa sổ buồng anh trông ra vườn, vườn nhà chúng tôi rợp bóng mát, có những cây cổ thụ, cây cối đã nẩy lộc xuân, chim chóc đầu mùa kéo đến, líu lo ríu rít bên cửa sổ buồng anh. Anh ngắm nhìn chim và bỗng xin chúng thứ lỗi cho anh: "Hỡi các chú chim trời sướng vui, xin thứ lỗi cho tôi, vì tôi có lỗi với các chứ". Hồi ấy không ai trong chúng tôi hiểu nổi anh, còn anh khóc vì vui sướng. "Phải rồi, - anh nói, - xung quanh tôi bao nhiêu là vinh hiển của Chúa Trời: chim chóc, cây cối, đồng cỏ, bầu trời, chỉ riêng tôi sống trong ô nhục, chỉ riêng tôi làm ô danh vạn vật, hoàn toàn không biết đến cái đẹp và sự vinh hiển". - "Con tự nhận lấy nhau tội lỗi quá đấy". - đôi khi mẹ tôi khóc. "Mẹ ơi, mẹ là niềm vui sướng của con, con khóc vì vui mừng, chứ không phải vì đau xót đâu. Chính con muốn mình có tội với vạn vật, có điều con không giải thích với mẹ được; bởi vì con không biết phải yêu vạn vật như thế nào. Thì cứ cho là con có tội với vạn vật, và vạn vật tha thứ cho con, thế thì đấy là thiên đàng rồi. Chẳng phải là hiện giờ con đang ở thiên đàng sao?". Còn nhiều chuyện nữa, không thể nhớ và ghi lại hết được. Tôi nhớ, có lần tôi một mình vào buồng anh, chẳng có ai ở đấy cả. Một buổi chiều sáng sủa, mặt trời đã bắt đầu lận, căn buồng tràn ngập ánh sáng chênh chếch. Nhìn thấy tôi, anh vẫy tay tôi lại gần, đặt hai tay lên vai tôi, nhìn vào mắt tôi với vẻ cảm động, trìu mến. Anh không nói gì, chỉ nhìn tôi như thể một lát: "Thôi bây giờ em đi chơi đi, hãy sống thay cho anh!". Thế là, tôi ra ngoài chơi. Sau này nhiều lần trong đời, tôi nhớ lại câu anh bảo tôi sống thay cho anh mà rớt nước mắt! Anh còn nói nhiều lời tuyệt diệu như thế mà hội ấy chúng tôi không hiểu. Anh mất vào tuần thứ ba sau lễ Phục sinh, lúc chết vẫn tỉnh táo, tuy đã không nói được nữa, nhưng cho đến phút chót anh vẫn không thay đổi: vẻ nhìn đầy vui sướng, ánh mắt vui vẻ, anh đưa mắt nhìn chúng tôi mỉm cười với chúng tôi, gọi chúng tôi. Trong thị trấn người ta nói nhiều về cái chết của anh. Bấy giờ tất cả những điều đó khiến tôi bàng hoàng, nhưng không quá lắm, tuy tôi khóc rất nhiều lúc mai táng anh. Hồi ấy tôi còn non trẻ, thậm chí là trẻ con, nhưng tất cả mọi việc in lại dấu vết không phai nhoà trong tim tôi, tình cảm vùi sâu trong đáy lòng. Đến lúc nào đó tất cả hẳn phải trỗi dậy và lên tiếng. Quả đúng như thế.
b. Kinh Thánh trong đời Cha Zoxima
Thế là chỉ còn lại hai mẹ con tôi. Ít lâu sau, những người quen tốt bụng khuyên mẹ tôi đại khái là: bà chỉ còn độc một cậu con trai, nhà không nghèo, có vốn tiếng, tại sao bà không làm như những người khác, gửi con đi Peterburg học, giữ cậu ấy ở nhà là chẹn lấy con đường công danh của cậu ấy. Họ mách nước cho mẹ gửi tôi vào trường võ bị Peterburg để sau này gia nhập quân cận vệ của hoàng đế. Mẹ tôi lưỡng lự mọi: xa đứa con trai cuối cùng sao cho đành, nhưng rồi bà quyết định xây đắp hạnh phúc cho tôi tuy không phải là không đổ nhiều nước mắt. Bà đưa tôi về Peterburg và thu xếp mọi việc cho tôi, từ đó tôi không gặp mẹ nữa, vì ba năm sau bà tạ thế, suốt ba năm bà buồn rầu lo nghĩ về cả hai chúng tôi. Nhà mẹ cha chỉ để lại trong lòng tôi nhưng kỷ niệm quý giá nhất, bởi vì con người không có kỷ niệm nào quý giá hơn kỷ niệm về thời thơ dại của mình trong nhà mẹ cha, hầu như bao giờ cũng thế, nếu như trong gia đình có chút ít tình yêu và sự gắn bó. Hơn nữa, ngay cả gia đình xấu xa nhất cũng có thể để lại những ly niệm quý giá, miễn là tâm hồn người ta có khả năng tìm kiếm cái quý giá. Trong số những kỷ niệm gia đình, tôi phải kể đến kỷ niệm về truyện thánh, ở nhà tôi rất ham nghe truyện thánh, mặc dù tôi còn nhỏ lắm. Hồi ấy tôi có cuốn truyện thánh, tranh rất đẹp, nhan đề là "Một trăm bốn mươi truyện thánh của Cựu Ước và Tân Uớc", tôi học đọc theo cuốn sách ấy. Bây giờ nó vẫn ở trên giá sách của tôi, tôi giữ lại như một kỷ niệm quý giá. Nhưng ngay từ trước khỉ biết đọc, tôi vẫn nhớ, có, lần một cảm tưởng thấm thía đầu tiên đã đến với tôi, năm tôi mới tám tuổi. Vào ngày thứ hai thần lễ thánh, mẹ đưa tôi đi nhà thờ dự lễ, chỉ có một mình tôi thôi (anh tôi hôm ấy đi đâu, tôi không nhớ). Một ngày sáng sủa, và bây giờ tôi nhớ lại, dường như tôi lại nhìn thấy khói từ bình hương nhè nhẹ cuốn lên cao, và trên nóc vòm, tia nắng chiếu qua ô cửa sổ hẹp rọi xuống chúng tôi, khói hương cuộn sóng bốc lên tan ra trong ánh nắng. Tôi cảm động nhìn cảnh tượng ấy và lần đầu tiên trong đời, tâm hồn tôi tiếp nhận một cách có ý thức hạt giống đầu tiên của Lời Chúa. Một thiếu niên ra giữa nhà thờ, hai tay cầm cuốn sách rất lớn, lớn đến nỗi lúc ấy tôi có cảm giác trong thậm chí cậu ta phải khó nhọc mới cầm nổi, cậu ta để sách lên giá; mở ra đọc, và khi ấy bỗng nhiên lần đầu tiên tôi hiểu được điều gì, lần đầu tiên trong đời tôi hiểu người ta đọc gì trong nhà thờ. Ở đất Utx có một người công chính và kính tín, ông ta giàu lắm, có cơ man nào là lạc đà, cừu và lừa, con cái ông ta vui chơi giải trí, ông ta rất yêu chúng, cầu Chúa Trời cho chúng: chúng có thể phạm lỗi do chơi bời. Một hôm quỷ lên hầu Chúa Trời cùng với các con Chúa Trời và nói với Chúa rằng nó đã đi khắp mặt đất và dưới đất "Thế người có thấy kẻ tôi tớ của ta là Iov không?" - Chúa Trời hỏi nó. Chúa Trời trỏ kẻ tôi tớ vĩ đại thánh thiện của mình, khoe với quủ. Quỷ mỉm cười khi nghe những lời đó của Chúa: "Xin hãy trao hắn cho tôi, rồi Ngài sẽ thấy kẻ tôi tớ của Ngài oán trách và nguyện rủa danh Ngài". Thế là Chúa Trời trao cho quý con người công chính mà Ngải rất mực yêu quý, quỷ sát hại con cái ông ta, gia súc của ông ta, làm tiêu tan hết tài sản giàu có của ông ta, mọi cái phút chốc tiêu tan hết như bị sét danh. Iov xé quần áo gieo mình xuống đất và la gào: "Tôi trần trụi lọt khỏi lòng mẹ, tôi sẽ lại trần trụi trở về đất bụi. Chúa cho, Chúa lại lấy đi. Tôi ngợi khen danh Chúa từ nay cho đến trọn đời!". Thưa các cha và các thầy, xin miễn thứ cho những giọt nước mắt lúc này của tôi, bởi vì cả thời thơ ấu của tôi dường như lại hiện lên trước mắt tôi, lúc này tôi lại như hồi lên tám, lại như hồi ấy tôi cảm thấy ngạc nhiên, bối rối và vui sướng. Hồi ấy trí tưởng tượng của tôi xúc động ghê gớm: nhưng con lạc đà, quỷ Sa tàng nói năng với Chúa Trời như thế, Chúa Trời để mặc cho kẻ tôi tớ của mình chịu khốn khổ, và kẻ tôi lớ của Ngài kêu lên: "Tôi ngợi khen danh Chúa, thì Chúa hành tội tôi", - rồi cả tiếng hát kinh êm nhẹ, ngọt ngào trong nhà thờ: "Mong sao lời cầu nguyện của con được chấp nhận", và khói lại bốc lên từ bình hương của linh mục và những con chiên quỳ gối cầu nguyện! Từ đó, - thậm chí hôm qua tôi còn lấy cuốn sách ấy ra, - tôi không thể đọc thiên truyện thánh ấy mà không rơi lệ. Vĩ đại xiết bao, bí ẩn biết chừng nào, không thể tưởng tượng nổi! Sau này tôi đã từng nghe những kẻ giễu cợt và phỉ báng nói những lời ngạo mạn: làm sao Chúa Trời có thể giao phó một người thánh thiện được Ngài yêu mến cho quỷ hành hạ, làm sao có thể cướp đi tất cả con cái của ông ta, khiến ông ta mắc bệnh và phá ung nhọt đến nỗi dùng mảnh sành cạo mủ vết thương của mình, mà đấy là Chúa chỉ cốt để khoe với quỷ Sa tăng: "Mi xem đấy, vị thánh của ta có thể vì ta mà chịu đựng đến như vậy". Tuy nhiên, sự tích ấy vĩ đại bởi lẽ đấy là một bí nhiệm: cái biểu hiện trần thế chóng tàn và chân lý vĩnh cửu tiếp xúc với nhau. Sự thật trần thể chứng kiến sự thật vĩnh cửu thành tựu trước mắt. Vẫn như những ngày đầu sáng tạo. Đấng Sáng thế kết thúc mỗi ngày bằng lời ngợi khen: "Tốt đẹp thay những gì ta đã làm ra!". - Ngài nhìn Iov và lại hãnh diện về tác phẩm của mình. Còn Iov ngợi ca Chúa Trời, chẳng những ông phụng sự Chúa Trời mà ông phụng sự tất cả sự sáng tạo của Ngài từ thế hệ này sang thế hệ khác, đời đời kiếp kiếp, và đấy là định mệnh. Lạy trời, cuốn sách tuyệt diệu làm sao và những bài học sâu nhiệm làm sao! Thánh kinh ban cho con người phép lạ và sức mạnh mãnh liệt dường bao! Đấy là bức tượng miêu tả thế giới, con người và tính cách con người, tất cả đều được gọi tên và chỉ rõ cho vạn thế. Biết bao nhiêu bí nhiệm đã được giải đáp và phơi mở Chúa Trời lại gây dựng cho Iov, ban tài sản cho ông ta, nhiều năm trôi qua, ông ta lại có con và yêu quý chúng - trời ơi: "Làm sao ông ta có thể yêu những đứa con sau này, khi những đứa trước không còn nữa? Mỗi lần nhớ đến những đứa đã mất, lẽ nào ông còn được hạnh phúc trọn vẹn với những đứa con sau này, thì đối với ông, họ đáng yêu đến đâu đi nữa?". Nhưng có thể lắm chứ: nỗi đau xót lâu năm dần dần chuyển thành niềm vui sướng êm đềm, cảm động - đó là một bí nhiệm vĩ đại của đời người: bầu máu nóng của tuổi trẻ nhường chỗ cho tuổi già sáng sủa, hiền hoà: tôi cảm tạ mặt trời mọc hàng ngày, trái tim tôi vẫn hát ca mừng mặt trời như trước, nhưng tôi yêu ánh tích dương hơn, tôi yêu những tia nắng dài chênh chếch buổi chiều tà gợi nên những kỷ niệm êm dịu, cảm động những hình ảnh đáng yêu trong cả cuộc đời dài lâu được Chúa ban phước - và bao trùm lên tất cả là sự thật của Chúa làm cảm động lòng người, hoà giải hận thù và tha thứ tất thầy! Đời tôi sắp hết, tôi biết là tôi cảm thấy như thế, nhưng trong mỗi ngày còn lại của tôi, tôi cũng cảm thầy cuộc đời trần thế của tôi đã kiếp liến với một cái gì mới mẻ, bất tận, chưa từng biết, nhưng gần gũi của cuộc đời mai sau, và mối linh cảm ấy làm cho tâm hồn tôi hân hoan rung động, trí óc tôi ngời sáng, tim tôi khóc vì vui sướng… Thưa các bạn và các thầy tôi đã nhiều lần nghe nói, và thời gian gần đây tôi càng nghe nói nhiều hơn rằng các giáo sĩ của chúng ta, nhất là các giáo sĩ nông thôn, kêu than thảm thiết ở khắp mọi nơi về thu nhập ít ỏi, về địa vị thấp kém của họ, và nói thẳng, thậm chí cả trên báo chí - hôm nay chính tôi đã đọc thấy, - rằng bây giờ dường như họ không thể giảng kinh Thánh cho dân chúng được, bởi vì thu nhập của họ quá ít, và nếu các giáo sĩ Lute và những kẻ dị giáo đến tranh đoạt bầy chiên thì họ cũng đành chịu, vì họ thu nhập chẳng được bao. Trời ơi! Tôi nghĩ, cầu trời cho họ thu nhập khá hơn, đây là điều quý đối với họ (sự than phiền của họ là chính đáng), nhưng tôi nói thật: chính chúng ta có lỗi một phần. Bởi vì cho dù thiếu thời gian, cho dù vị giáo sĩ nói có lý rằng ông ta luôn luôn bận công chuyện và việc làm lễ cho giáo dân, nhưng dùsao không phải lúc nào cũng bận, ít nhất mỗi tuần ông ta cũng có được một giờ để nhớ đến Chúa chứ! Mà đâu phải là công việc bận rộn quanh năm! Ông ta hãy tụ tập mọi người ở nhà mình một thần một lần, vào buổi tối, thoạt đầu chỉ riêng trẻ em thôi, rồi các cha đạo sẽ nghe đồn và sẽ đến. Không cần xây cung điện dùng cho việc đó, cứ việc mời về túp nhà của mình thôi, mà chỉ độ một giờ đồng hồ. Mở sách thánh ra và đọc cho họ nghe, không có những lời thông thái, không phách lối, không kiêu ngạo với họ, mà cảm động và hiền từ, chính mình vui sướng vì được đọc cho họ nghe, còn họ nghe và hiểu mình, bản thân mình cũng yêu mến những lời đó, chỉ thỉnh thoảng dừng lại và giảng cho người bình dân hiểu một từ khó, dừng ngại, họ sẽ hiểu hết, trái tim chính giáo sẽ hiểu hết! Hãy đọc cho họ nghe về Abram và Xara, về Ixaac và Rebecca, về việc Iacov đến nhà Laban và vật lộn với Đức Chúa Trời trong chiêm bao và nói: "Chốn này đáng sợ thay"(1) - như vậy sẽ làm xúc động óc sùng tín của người bình dân. Hãy đọc cho họ nghe, đặc biệt là trẻ em, câu chuyện về chàng trẻ tuổi Iozef đáng yêu, người đoán mộng và nhà tiên tri vĩ đại sau này, đã bị các anh ruột đem bán làm nô lệ rồi họ đưa cho bố bộ quần áo đẫm máu của chàng và nói rằng chàng đã bị thú dữ xé xác. Đọc cả chuyện sau đó người anh của chàng sang Edifto mua lúa mì, còn Iozef lúc này đã là quan tể tướng (họ không nhận ra em) hành hạ họ, kết tội họ, giữ Benjamin lại không cho đi, tuy vẫn yêu anh mình: "Ta yêu các anh ta, ta yêu nhưng vẫn hành hạ các anh ta". Bởi vì suốt đời chàng vẫn luôn luôn nhớ các anh đã đem bán chàng cho các thương gia ở một nơi trên sa mạc nóng bỏng, bên cái giếng, và chàng đã vặn vẹo hai tay, khóc lóc van xin các anh đừng bán chàng làm nô lệ sang nơi dẩt khách quê người, và bây giờ, nhìn thấy các anh sau bấy nhiêu năm, chàng lại yêu các anh vô hạn, nhưng yêu mà vẫn đay đoạ, hành hạ họ. Cuối cùng, không chịu nổi sự giày vò trong lòng, chàng ltù về phòng riêng, gieo mình lên giường và khóc; rồi chàng lau mặt, hớn hở tươi vui ra nói với họ: "Các anh ơi, em là Jozef, em của các anh đây!". Tiếp đến chuyện ông già Iakov vui sướng hay tin đứa con trai đáng yêu của ông vẫn còn sống, ông rời bỏ quê hương sang Edifto, ông chết nơi đất khách quê người, di chúc lại cho muôn đời sau một lời vĩ đại suốt đời vẫn giữ kín trong trái tim hiền lành nhút nhát của ông, ấy là: dòng giống Juđa của ông sẽ sản sinh ra ước vọng vĩ đại của thế giới, đấng dẹp loạn và cứu thế! Thưa các cha và các thầy, xin thứ lỗi cho tôi và đừng giận vì tôi như một đứa con nít, đi kể lể với các vị những điều mà các vị đã biết từ lâu và có thể dạy cho tôi một cách khéo léo và cao đẹp hơn gấp trăm lần. Chỉ vì hào hứng quá mà tôi nói ra, vì tôi yêu cuốn sách ấy. Nếu người giáo sĩ khóc, ông ta sẽ thấy trái tim những người nghe run rẩy đáp lại tình cảm của ông. Chỉ cần một hạt giống nhỏ xíu, gieo vào tâm hồn người bình dân, hạt giống ấy sẽ không chết, sẽ sống trong tâm hồn người đó suốt đời, ẩn náu trong con người giữa bóng tối, giữa vũng bùn tội lỗi hôi hám của người, như một điểm sáng, như sự gợi nhớ vĩ đại, và không cần giảng giải và răn dạy nhiều, con người sẽ hiểu hết một cách giản dị. Liệu các vị có nghĩ rằng người bình dân sẽ không hiểu không? Hãy thử đọc cho người đó nghe câu chuyện cảm động, đáng mủi lòng về Exte kiều diễm và Vaxti kiêu ngạo(2); hay câu chuyện thần kỳ về nhà tiên tri Jora trong bụng cả voi(3). Cũng đừng quên những chuyện ngụ ngôn của Chúa, chủ yếu là lấy trong Phúc âm theo thánh Luca (tôi cũng đã làm như thế), rồi sự trở lại đạo của Xaulơ trong Công vụ các sứ đồ (nhất định phải đọc truyện này, nhất thiết phải có), cuối cùng là trích đọc Treti Minei, ít ra là sự tích Alecxei người của Chúa và sự tích của mẹ Maria Edifto, người vĩ đại nhất trong những người chịu thống khổ mà vẫn vui sướng, người nhìn thấy thần linh và hoài thai Chúa Kito, - hãy làm rung động trái tim người bình dân bằng những câu chuyện giản dị như thế, mà chỉ mỗi tuần một giờ, mặc dù thu nhập ít ỏi của mình, vẻn vẹn có một giờ. Người giáo sĩ sẽ thấy dân ta nhân từ và biết ơn hậu tạ lại gấp trăm lần. Nhớ đến lòng nhiệt thành và những lời cảm động của giáo sĩ, dân chúng sẽ tự nguyện đến làm giúp giáo sĩ trên đồng ruộng, giúp đỡ việc nhà, sẽ tôn kính giáo sĩ hơn trước nhiều, và thu nhập của giáo sĩ sẽ tăng lên. Đấy là một việc rất đỗi đơn giản, đến nỗi đôi khi ta ngại không dám nói ra, e người ta cười cho, nhưng mà quả đúng như vậy đấy! kẻ nào không tin Chúa thì cũng không tin con dân của Chúa. Người nào tin ở con dân của Chúa thì cũng sẽ thấy thánh điện của Chúa, tuy trước đó y hoàn toàn không tin có thánh điện. Chỉ có nhân dân và sức mạnh tinh thần sau này của nhân dân mới làm cho những người vô thần đã mất gốc trở lại đạo. Lời Chúa Kito mà không có ví dụ thì còn là cái gì? Không có lời Chúa thì dân chúng diệt vong, bởi vì tâm hồn nhân dân khao khát lời Chúa và mọi ý tưởng cao đẹp. Thời trai trẻ, đã lâu lắm rồi, bốn mươi năm trước tôi cùng Cha Afim đi khắp nước Nga quyên tiền cho tu viện, có lần chúng tôi nghĩ đêm cùng với đám dân chài trên bờ một con sông lớn, tàu bè qua lại được, đến ngồi bên chúng tôi có một chàng trai dáng vẻ cao quý, một nông dân, chừng mười tám tuổi anh ta vội đến địa điểm của mình để sáng mai kéo một chiếc thuyền buồm. Tôi thấy anh ta nhìn về phía trước bằng ánh mát cảm động và trong sáng. Trời đêm sáng sủa, yên tĩnh, ấm áp, một đêm tháng bảy, sông rộng mênh mang, hơi nước bốc lên mát rượi, cả quẫy nhè nhẹ, chim chóc im tiếng, tất cả đều im ắng, đẹp huyền ảo, vạn vật cầu Chúa. Không chỉ riêng hai chúng tôi mà cả chàng trai ấy cũng không ngủ, chúng tôi bàn về vẻ đẹp của cõi thế này do Chúa tạo dựng nên, về bí nhiệm vĩ đại của thế gian. Mỗi cọng cỏ, mỗi con sâu, cái kiến, con ong vàng đều biết rõ đến kỳ lạ con đường của chúng, tuy không có trí tuệ mà đều chứng thực sự bí nhiệm của Chúa, đều không ngừng thực hiện bí nhiệm ấy, và tôi thấy trái tim chàng trai ấy bốc lửa. Anh ta nói với tôi rằng anh ta yêu rừng, yêu chim rừng; anh ta là người bẫy chim, anh ta hiểu từng tiếng huýt của chim, biết cách nhử bất cứ con chim nào; anh ta bảo không có gì thú vị hơn đời sống trong rừng chim mặc dù tất cả đều tốt đẹp "Đúng vậy, - tôi trả lời anh ta, - mọi cái đều tốt đẹp và tuyệt chịu, vì tất cả đều thực. Anh hãy nhìn con ngựa xem, - tôi nói với anh ta, - một con vật cao quý gần gụi với người, hay hãy nhìn con bò kia, nó nuôi sống người, làm việc cho người, con vật ủ rũ và tư lự, hãy nhìn mặt nó mà xem: hiền lành biết bao, quyến luyến với người biết bao, tuy người thường đánh đập nó tàn nhẫn, mắt nó hiền lành quá chừng, cả tin quá chừng, đẹp xiết bao. Thật cảm động khi còn biết thêm rằng nó không vướng chút tội lỗi, bởi vì tất cả mọi vật, tất cả trừ con người, đều không có tội lỗi, và Chúa Kito ở cùng vạn vật trước khi ở với chúng ta. "Lẽ nào đấng Kito ở cùng chúng ư? - chàng trai hỏi". - "Làm sao có thể khác được, -
tôi nói với anh ta, - bởi vì Lời là chung cho tất cả muôn loài, cho đến từng phiến đá, đều hướng về Lời, đều ngợi ca Chúa Trời, khóc với Chúa Kito mà không tự biết, đấy là bí nhiệm của đời sống không tội loi. Ở nơi nọ, - tôi nói với anh ta, - có một con gấu đáng sợ đi lang thang trong rừng, con gấu ghê gớm, dữ tợn, nhưng đấy hoàn toàn không phải lỗi của nó". Và tôi kể cho anh ta nghe: một lần con gấu đến chỗ một vị chân cao cả tu ở một trai phòng nhỏ trong rừng, vị thánh cao cả động lòng thương con vật gan dạ ra cho nó một miếng bánh mì: "Con đi đi, Chúa Kito ở cùng con", và con thú dữ tợn ngoan ngoãn, hiền lành đi nơi khác, không làm hại ông. Chàng trai cảm động về việc con gấu bỏ đi, không làm hại người tu hành, và Chúa Kito ở cùng nó. Anh ta nói: "Chao ôi, thật là tốt đẹp, tất cả những gì do Chúa tạo ra đều tốt đẹp và huyền nhiệm!". Anh ta ngồi suy nghĩ, trầm lặng và khoan khoái. Tôi thấy anh ta đã hiểu. Anh ta thiếp đi bên tôi trong giấc ngủ nhẹ nhàng, trong trắng. Cầu Chúa ban phước cho tuổi trẻ! Tôi đã cầu Chúa cho anh ta trước khi đi ngủ. Lạy trời ban sự bằng an và ánh sáng cho con dân của Ngài!
Chú thích:
(1) Đây là những chuyện trong "Sáng thế kỷ". quyển đầu trong năm quyển sách của Meixe, Cựu ước (N.D).
(2) Exte trong "Các sách về lịch sử": Hoàng hậu Vaxti bị giáng, Exle được phong làm hoàng hậu (N.D).
(3) "Jora", một cuốn trong "Các sách tiên tri": Jora trốn tránh Đức Chúa Trời. Chúa Trời khiến Jora bị quẳng xuống biển, bị nuốt vào bụng cá voi. Trong bụng cá, Jora cầu nguyện. Chúa Trời khiến cá voi nhả Jora ra (N.D)
c. Trưởng lão Zoxima hồi tưởng lại thời thanh xuân còn đang sống đời tràn tục. Trận đấu súng.
Tôi ở Peterburg một thời gian dài, trong trường võ bị, ngót tám năm, nền giáo dục mới đè nghẹt trong tôi nhiều ấn tượng tuổi thơ, tuy tôi chẳng quên gì hết: Thay vào đó tôi đã nhiễm nhiều thói quen mới, thậm chí cả những ý kiến mới, đến nỗi tôi biến thành một kẻ gần như man rợ, tàn bạo và phi lý. Cùng với tiếng Pháp, tôi có được cái bề ngoài lễ độ và thanh lịch hào hoa, ở trường võ bị tất cả chúng tôi đều coi lính tráng phục dịch ở đây như súc vật cả tôi cũng thế. Có lẽ tôi còn tệ hại hơn, bởi vì tôi là người dễ nhiễm ảnh hưởng hơn tất cả các bạn đồng đội.
Khi đã trở thành sĩ quan, chúng tôi sẵn sàng đổ máu đề bảo vệ danh dự trung đoàn, tuy hầu như không người nào trong chúng tôi biết thế nào là danh dự thực sự, chứ nếu hiểu ra thì hẳn chính chúng tôi sẽ chế nhạo nó trước tiên. Chúng tôi gần như tự hào về thói rượu chè, phá phách và ngổ ngáo. Tôi không nói rằng bọn chúng tôi là những kẻ đốn mạt; bọn chúng tôi đều là những thanh niên tốt, những xử sự đốn mạt, mà tệ hại nhất là tôi. Cái chính là tôi có tiền, vì vậy tôi buông mình sống hưởng lạc, với tất cả ham muốn của tuổi trẻ, vô chừng mực, căng buồm lướt sóng. Nhưng có điều kỳ lạ: hồi ấy tôi đã rất ham đọc sách. Tôi có một cuốn Kinh Thánh, hầu như không bao giờ tôi mở ra, nhưng không bao giờ rời nó, đi đâu cũng mang theo, quả thật là tôi giữ gìn cuốn sách ấy "cho một ngày và một giờ, cho một tháng và một năm" mà tôi không hề biết. Sau bốn năm tại ngũ, cuối cùng tôi đến thành phố K, trung đoàn tôi đóng tại đó. Giới xã giao thành phố gồm nhiều loại, đông đảo, vui vẻ, mến khách và giàu có ở đâu tôi cũng được đón tiếp tử tế, bởi vì tôi vốn vui anh, thêm nữa tôi có tiếng là sẵn tiền, mà trong giới thượng lưu thì điều đó có nghĩa là không nhỏ. Thế rồi đã xảy ra một chuyện mở đầu cho mọi chuyện về sau. Tôi có cảm tình với một cô gái trẻ kiều diễm, thông minh và đoan trang, tính tình cao thượng, quý phái, cha mẹ là những người đáng kính. Cha mẹ cô có địa vị, giàu có, có thể lực, họ tỏ ra trìu mến, niềm nở đối với tôi. Tôi có cảm giác rằng cô gái cũng có tình ý với tôi, tim tôi bừng bừng ngọn lứa ước mơ. Sau này chính tôi hiểu ra, đoán ra rằng có lẽ hoàn toàn không phải là tôi yêu nàng mãnh liệt đến thế đau, mà chỉ là tôi kính trọng trí thông minh và tính tình cao thượng của nàng. Không thể khác thế được. Tuy nhiên, anh tự do khiến tôi không cầu hôn lúc bấy giờ: thật đau lòng và đáng sợ nếu phải giã từ những cám dỗ của cuộc sống độc ulall phóng đãng giữa thời trai trẻ như thế, mà lại sẵn tiền nữa chứ. Tuy nhiên tôi đã nói xa nói gần để ngỏ ý. Dùsao, tôi tạm hoãn bất cứ bước quyết định nào. Rồi bỗng nhiên tôi có việc đi công cán hai tháng sang một vùng khác. Hai tháng sau trở về, tôi bỗng hay tin nàng đã lấy chồng, chồng nàng là một điền chủ giàu có ở ngoại thành, tuy hơn tuổi tôi nhưng vẫn còn trẻ, anh ta có nàng mối quen biết ở thủ đô và trong giới giao tế cao sang nhất, điều mà tôi không có, anh ta rất nhã nhặn và có học vấn, mà học vấn thì tôi thiếu hẳn. Tôi hết sức sửng sốt vì sự thể bất ngờ như vậy, thậm chí đầu óc tôi mụ mị đi. Điều quan trọng nhất là bấy giờ tôi mới biết người điền chủ trẻ tuổi kia đã đính hôn với nàng từ lâu và tôi đã gặp anh ta nhiều lần trong thành phố của họ mà không hay biết gì cả, do quáng loà về những ưu điểm của mình. Nhưng đấy chính là điều làm tôi bực tức hơn cả: sao hầu hết mọi người biết, chỉ mình tôi không hay biết gì cả? Tôi bỗng cảm thấy căm tức không thể chịu nổi. Tôi đỏ mặt nhớ lại đã nhiều lần tôi gần như tỏ tình với nàng, mà nàng không hề ngăn tôi lại, cũng không nói cho tôi biết, như vậy tôi kết luận là nàng giễu cợt tôi. Về sau cố nhiên tôi đã nghĩ lại và nhớ rằng nàng không hề cười, trái lại nàng dùng lời bông đùa cắt đứt những cuộc chuyện trò như vậy và lảng sang chuyện khác, nhưng bấy giờ tôi không thể hiểu ra điều đó và lòng bừng bừng ý định trả thù. Bây giờ tôi ngạc nhiên nhớ lại rằng ngay hồi ấy tôi đã gớm ghét ý định trả thù và sự tức giận của tôi, vì tôi vốn dễ tính, không thể giận ai lâu được, vì thế dường như tôi tự kích mình một cách giả tạo và rốt cuộc đã trở nên quái gở, lố bịch. Tôi đã chộp được cơ hội, và một lần trong cuộc họp mặt đông người, đột nhiên tôi đã xúc phạm được "ké tình địch" của tôi, vì một lý do tưởng như nghĩ ra, tôi chế nhạo một ý kiến của anh ta về một biến cố quan trọng thời bấy giờ, - ấy là vào năm hai mươi sáu - và theo người ta nói thì chế nhạo như thế là sắc sảo và khéo léo. Rồi tôi buộc anh ta phải nói chuyện với tôi để làm sáng tỏ vấn đề và khi gặp nói chuyện, tôi đã xử sự thô lỗ đến nỗi anh ta buộc phải nhận đấu súng, tuy giữa chúng tôi có sự khác biệt lớn, vì tôi ít tuổi hơn, địa vị xoàng xĩnh cấp bậc thấp. Sau này tôi được biết chắc chắn rằng anh ta nhận lời thách đấu của tôi cũng vì ghen với tôi: anh ta ghen với tôi từ trước kia, chút ít thôi, ghen về vợ anh ta, hồi ấy mới là vợ chưa cưới; bây giờ anh ta nghĩ rằng nếu nàng biết anh ta chịu đựng sự xúc phạm của tôi, không dám nhận đấu súng thì e rằng nàng sẽ khinh thường anh ta và tình yêu của nàng sẽ lung lay. Tôi tìm ngay được người làm chứng, một trung uý của trung đoàn chúng tôi. Hồi ấy việc đấu súng bị trừng trị rất nặng, nhưng đối với các quân nhân, nó dường như vẫn là một cái mốt: đôi khi những thành kiến mọi rợ vẫn cứ gia tăng và cắm rễ vững chắc như thế đấy. Bấy giờ đã sắp hết tháng sáu, cuộc gặp mặt của chúng tôi vào hôm sau, ở ngoài thành phố, lúc bảy giờ sáng, và quả thực với tôi đã xảy ra một việc nàng như là định mệnh.
Buổi chiều, khi trở về nhà, tức tối hung dữ, tôi cáu với gã lính hầu Afanaxi của mình và thẳng tay tống hai quả vào mặt gã, đến nỗi mặt gà tóe máu. Gã đến hầu hạ tôi chưa lâu, trước đó cũng có lần tôi đánh gã, nhưng chưa bao giờ tàn ác đến thế. Và thưa các vị các vị có tin được không, đã bốn chục năm qua mà bây giờ nhớ lại, tôi vẫn hổ thẹn và đau lòng. Tôi đi ngủ, thiếp đi khoáng ba tiếng anh dậy thì đã rạng ngày. Tôi trở dậy ngay, không muốn ngủ nữa, đến gần cửa sổ, mở cửa - cửa sổ phòng tôi tuyệt đẹp chim chóc líu lo. Thế là thế nào, tôi nghĩ, sao tôi lại cảm thấy tâm hồn mình có một cái gì nhơ nhuốc và hèn kém? Phải chăng vì tôi sắp gây đổ máu? Không, tôi nghĩ, hình như không phải thế. Phải chăng tôi sợ chết, sợ bị giết? Không, không phải, hoàn toàn không phải thế… Bỗng nhiên tôi lập tức đoán ra duyên do tại đâu: là vì hôm qua tôi đã đánh Afanaxi! Bõng nhiên tôi lại hình dung thấy tất cả, như thế mọi chuyện lại diễn ra trước mắt: gã lính hầu đứng trước mặt tôi, tôi thẳng cánh giáng vào mặt gã, còn gã vẫn đứng nghiêm, đầu cất thẳng, mắt trợn ngược, run lên chịu đựng mỗi cú đánh, thậm chí không dám giơ tay đỡ, thân phận con người sao mà đến nông nỗi ấy, và đây là người đánh người! Tội lỗi biết bao! Như có mũi kim nhọn xuyên suốt tâm hồn tôi. Tôi đứng ngây ra như mê mụ, vang mặt trời vẫn chiếu sáng lá cây vui sướng, lấp lánh, còn chim chóc ngợi ca Chúa Trời… Tôi đưa hai tay bưng mặt, nằm vật xuống giường và khóc nức nở. Tôi chợt nhớ đến anh Marken và lời anh nói với gia nhân trước khi chết: "Các bạn yêu quý ơi, vì sao các bạn hầu hạ tôi, vì sao các bạn yêu tôi, tôi có đáng được các bạn hầu hạ không?". "Phải, ta có đáng không?" - ý nghĩ chợt nảy ra trong óc tôi. Thực vậy, tôi có gì đáng để một người khác cũng như tôi, là hình ảnh của Chúa và giống như Chúa, hầu hạ tôi? Lần đầu đến trong đời, câu hỏi ấy xuyên vào trí óc tôi. "Mẹ ơi, mẹ ruột thịt của con ơi, đúng là mỗi người đều có lỗi với tất cả mọi người và về mọi người, có điều người ta không biết điều đó nếu như người ta hiểu ra thì trần gian tức khắc sẽ là thiên đàng!" "Trời ơi, chẳng lẽ đấy không phải là sự thật sao, - tôi khóc và nghĩ, - có lẽ quả thật là ta chịu trách nhiệm về mọi người ta tội lỗi hơn hết thảy, ta là kẻ tồi tệ nhất trần đời!". Và tôi bỗng hình dung thấy tất cả sự thật với đầy đủ ý nghĩa của nó: tôi sắp làm gì đây? Tôi sắp đi giết một con người nhân hậu, thông minh, cao quý, không có lỗi gọi với tôi, như vậy tôi sẽ làm cho vợ anh ta suốt đời bất hạnh, đau khổ đến chết mất! Tôi nằm úp sấp trên giường, vùi mặt xuống gồi và không để ý gì đến thời gian.
Ông nhiên trung uý đồng đội bước vào, mang theo mấy khẩu súng ngắn: "A, - anh ta nói, - tốt lắm, anh đã dậy, đến giờ rồi, ta đi thôi!". Tôi luống cuống, hoàn toàn rối trí, nhưng chúng tôi cùng ra xe. "Anh chờ tôi một lát, - tôi bảo anh ta, - tôi sẽ ra ngay, tôi bỏ quên ví tiền". Tôi một mình chạy vào nhà, đến thắng buồng Afanaxi: "Afanaxi, - tôi nói, - hôm qua tôi đánh anh hai cái vào mặt, tha lỗi cho tôi". Gã giật nãy người, dường như sợ hãi, trân mắt nhìn, tôi thấy là nói thế chưa đủ, chưa đủ, thế là đột nhiên vẫn quân phục đủ lệ bộ, tôi rập trán xuống đất dưới chân gã: "Tha thứ cho tôi!" - tôi nói. Đến đây gã hoàn toàn sững sờ: "Thưa ngài, thưa ngài thiếu uý, sao ngài lại… Con đâu có đáng…" - và gã bật khóc như tôi ban nãy, hai tay bưng mặt quay về phía cửa sổ, mặt chan hoà lệ và run lên, còn tôi chạy ra với người đồng đội, nhảy lên xe và gào: "Đi!". Anh thấy đấy, - tôi gào lên với anh ta, - người thắng cuộc đang ở trước mặt anh đây!" Tôi hoan hỉ quá đỗi, tôi cười, suốt dọc đường tôi nói luôn miệng chàng nhớ là mình nói gì. Anh ta nhìn tôi: "Này ông anh ơi anh là tay cừ khôi, tôi thấy là anh sẽ bảo vệ được danh dự của bộ quân phục". Đến địa điểm thì thấy họ đã đang chờ chúng tôi. Tôi và đối thủ dừng cách nhau mười hai bước, anh ta bắn trước, tôi đứng trước mặt anh ta, vui vẻ, mặt đối mặt, tôi nhìn anh ta không chớp mắt, tôi biết tôi sẽ làm gì. Anh ta bắn, đạn chỉ làm xước má tí chút và sượt qua vành tai. "Ơn Chúa. - Tôi la lên, - anh đã không giết người", - tôi chộp lấy khấu súng của tôi, quay mình về phía sau, ném súng vào rừng thét lên: "Đấy là con đường của mày". Rồi tôi quay về phía đối thủ: "Thưa ông, - tôi nói, - xin ông tha lỗi cho tôi, một gã trẻ tuổi ngu ngốc đã lầm lỡ xúc phạm đến ông, khiến cho ông phải bắn vào hắn. Tôi thấp kém hơn ông đến mười lần, mà có lẽ còn kém nhiều lần hơn nữa. Xin ông hãy nói lại điều này với người phụ nữ mà ông kính trọng nhất trên đời!". Tôi vừa nói xong thì cả ba người đều kêu lên. "Xin hỏi, - đối thủ của tôi nói, thậm chí anh ta tức giận, - nếu ông không muốn đấu thì ông quấy rầy chúng tôi làm gì?" - 'Hôm qua. - tôi nói với anh, - tôi còn ngu ngốc, hôm nay tôi khôn rồi" - tôi vui vẻ trả lời. "Về chuyện hôm qua thì tôi tin, còn nói về hôm nay thì khó lòng mà kết luận được như ý kiến của ông" "Hoan hô, - tôi reo lên với anh ta, - về điểm này tôi cũng dông ý với ông, đáng kiếp cho tôi!" - "Thưa tôn ông, ông có bắn hay không?" - "Không, - tôi nói, - còn nếu muốn, ông cứ bắn lần nữa đi, nhưng không bắn thì hơn". Cả những người làm chứng la hét, đặc biệt người làm chứng của tôi: "Thật là nhục cho trung đoàn biết bao, đứng ở vạch đấu súng mà xin lỗi; tôi mà biết thế này…". Tôi đến đứng trước mọi người và không cười nữa: "Thưa các vị, tôi nói, - chẳng lẽ đối với thời đại chúng ta lại là chuyện lạ lùng khi gặp một người hối hận về sự ngu ngốc của mình và công khai thú nhận lỗi lần hay sao?" - "Nhưng không phải khi đã đứng ở vạch đấu súng" - người làm chứng của tôi lại hét lên. "Thì thế mới nên chuyện, - tôi trả lời họ, - đấy chính là điều đáng ngạc nhiên, bởi vì lẽ ra tôi nên xin lỗi ngay khi mới đến đây trước khi ông ấy bắn, không đẩy ông ấy tới một tội lỗi cực trọng, tội giết người, khốn nhưng chính chúng ta đã tự tạo nên cho mình một những kiến quái gở đến nỗi hầu như không thể làm như thế được, bởi vì chỉ sau khi tôi chịu đựng cho ông ấy bắn ở khoảng cách mười hai bước thì lời nói của tôi mới có thể có chút giá trị đối với ông ấy, còn nếu làm thế trước khi bắn, ngay khi chúng tôi đến đây thì ông ấy sẽ nói thằng hèn, trông thấy súng là sợ, lời nói của nó không đáng để vào tai. Thưa các vị tôi bỗng kêu lên với tất cả tấm lòng, - các vị hãy nhìn những ân huệ Chúa ban cho ở khắp xung quanh: bầu trời sáng sủa, không khí trong lành, cỏ tươi mởn, chim chóc hót ca, thiên nhiên mĩ lệ và trong trắng, chỉ có chúng ta, những kẻ báng bổ và ngu ngốc là không hiểu rằng cuộc sống là thiên đàng, bởi vì chỉ cần chúng ta muốn hiểu là lập tức thiên đàng sẽ hiện đến với tất cả vẻ đẹp huy hoàng, chúng ta sẽ ôm nhau oà khóc…". Tôi còn muốn nói nữa, nhưng không nói được nên lời, hơi thở tắc nghẽn, một cảm giác ngọt ngào, trẻ trung tràn ngập tâm hồn, trái tim chứa chan niềm hạnh phúc mà cả đời tôi chưa từng cảm thấy bao giờ. "Tất cả những điều ông nói đến chí lý và đầy lòng kính Chúa, - đối thủ nói với tôi, - nhưng dùsao ông vẫn là người độc đáo" - "Ông cứ cười đi, - tôi nói với anh ta, - rồi ông sẽ khen ngợi tôi". "Tôi sẵn lòng khen ông ngay bây giờ, - anh ta nói, - cho phép tôi bắt tay ông, bởi vì tôi cảm thấy ông quả là người thành thực". - "Không, - tôi nói, - bây giờ thì không nên, để sau này, khi tôi đã khá hơn và xứng đáng được ông tôn trọng thì ông hãy chìa tay cho tôi, như vậy ông sẽ làm được một điều hay!"
Chúng tôi trở về nhà, người làm chứng của tôi la mắng suốt dọc đường, còn tôi hôn anh ta. Đồng đội nghe biết chuyện, ngay hôm ấy họ họp nhau phán xét tôi: "Anh ta bôi nhọ danh dự quân nhân, làm đơn xin giải ngũ đi thôi!". Cũng có những người bênh vực: "Dùsao anh ấy đã đứng ra cho anh ta bắn" - "Phải, nhưng anh ta sợ những phát súng khác, và đứng tại vạch đấu súng mà xin lỗi" - "Nếu anh ấy sợ, - những người bênh vực phản đối, - thì đến lượt mình anh ấy cứ bắn đi đã rồi mới xin lỗi, đằng này anh ấy ném khẩu súng đã nạp đạn vào rừng, không, đây còn có cái gì khác, độc đáo". Tôi nghe, vui vẻ nhìn họ. "Các bạn và đồng đội quý hoá của tôi ơi, - tôi nói, - đừng bận tâm về chuyện tôi phải xin giải ngũ, vì tôi đã làm rồi, sáng nay tôi đã nộp đơn ở văn phòng, hễ được chấp thuận là tôi sẽ lập tức vào tu viện, tôi xin giải chính là để như thế". Tôi vừa nói xong là tất cả mọi người, không trừ một ai, đều phá lên cười: "Đáng lẽ anh nên cho biết ngay từ đầu, bây giờ thì rõ cả rồi, không thể xét xử một người tu hành" - họ cười mãi không thôi, nhưng không phải là giễu cợt, mà cười một cách trìu mến, vui vẻ, bỗng nhiên tất cả mọi người đều yêu tôi, ngay cả những người buộc tội hăng nhất, rồi suốt tháng đó, trong thời gian tôi vẫn còn tại ngũ, người ta đúng là nâng niu chiều chuộng tôi: "A, ông thầy tu!". Người nào cũng nói với tôi một lời trìu mến, khuyên can tôi, thậm chí còn thương tôi: "Sao anh lại tự hành thân như vậy?" - "Không, - người ta nói - anh ấy là người dũng cảm, anh ấy đã đứng cho đối phương bắn, anh ấy được quyền bắn phát súng của mình, nhưng đêm hôm trước anh ấy đã chiêm bao thấy mình phải đi tu, duyên do là thế đấy". Trong giới xã giao thành phố, sự thể diễn ra cũng gần như thế Trước đây người ta chẳng để ý đến tôi nhiều lắm, mà chỉ tiếp đón niềm nở, còn bây giờ người ta tranh nhau hỏi về tôi và mời mọc tôi: họ cười tôi mà lại yêu mến tôi. Xin nói thêm rằng mặc dù mọi người đều công khai nói đến cuộc đấu súng cửa chúng tôi, nhưng cấp trên ỉm vụ ấy đi, vì đối phương của tôi là bà con họ gần với vị tướng quân của chúng tôi, với lại không xảy ra đổ máu, mà như một trò đùa, hơn nữa rốt cuộc tôi đã xin giải ngũ, cho nên người ta đã biết chuyện ấy mà không sợ gì cả, mặc dù họ cười tôi, vì dùsao đấy không phải là cái cười độc ác, mà là tiếng cười đôn hậu. Chuyện ấy còn được bàn tán nhiều hơn trong đám các bà họp mặt vào buổi tối, phụ nữ càng thích nghe tôi kể và bắt các ông phải mới tôi. "Sao lại có chuyện tôi chịu lỗi vì tất cả mọi người, - người nào cũng cười vào mặt tôi, - chẳng hạn, lẽ nào tôi phải chịu lỗi về ông?" - "Các vị không hiểu nổi điều đó đâu, - tôi trả lời họ, - vì đã từ lâu thế gian đi sang con đường khác, chúng ta coi sự dối trá là sự thật và đòi hỏi người khác cũng phải dối trá như thế". Lần này trong đời, tôi bỗng quyết định hành động thành thật, ấy vậy mà đối với tất cả các vị, tôi dường như trở thành kẻ điên gàn: tuy các vị yêu mến tôi nhưng vẫn chế nhạo tôi", - "Ông là người như thế mà không yêu ông sao được?" - bà chủ nhà cười to, hôm ấy nhà bà ta rất đông khách. Bỗng nhiên tôi lấy trong đám các bà, một phụ nữ trẻ tuổi nhất đứng lên, chính nàng là người đã khiến tôi gây ra cuộc đấu súng, người mà mới gần đây thôi tôi còn toan hỏi làm vợ và tôi không để ý rằng tối nay nàng cũng đến. Nàng đến gần tôi chìa tay ra, nói: "Cho phép tôi bày tỏ với ông rằng tôi là người trước lên không cười ông, mà trái lại, rớt nước mắt cảm ơn ông và tôi xin nói lên lòng tôn kính của tôi đối với ông về hành động của ông lúc ấy". Chồng nàng cũng đến, tiếp đó mọi người đều đổ xô đến, gần như ôm hôn tôi. Tôi vui sướng trong lòng, nhưng lúc ấy bỗng nhiên tôi để ý nhiều nhất đến một người đàn ông đã đứng tuổi cũng đến gần tôi, tuy tôi biết tên ông ta từ trước, nhưng không hề quen ông ta, thậm chí cho đến tối hôm ấy chưa hề nói với ông ta một lời.