uy đã chờ trước cái chết của Cheng, Văn Bình vẫn bàng hoàng khi thấy hắn co quắp trên nền phòng, tay chân cứng đét, mặt trợn ngược, lộ toàn tròng trắng. Dưới ánh đèn nê ông xanh, da mặt hắn tím bầm như vỏ trái bồ quân. Thế là hết. Cheng Ho là điệp viên chuyên nghiệp, bạc nửa đầu trong nghề đi ngang về tắt, quen thuộc nếp sống thận trọng, rốt cuộc vẫn chết oan uổng, chết tức tưởi, chết kỳ cục như kẻ tập sự, non nớt và ẩu tả. Văn Bình trải tấm địa đồ nhỏ bằng bề mặt cuốn vở học trò lên mặt bàn. Đó không phải là địa đồ in mà là địa đồ vẻ bằng tay trên giấy mỏng. Trên địa đồ, những tên thành phố, làng mạc không được ghi. Dọc bờ biển chỉ thấy cái khoanh tròn đỏ hoét bao bọc một hòn đảo nhỏ xíu. Đảo Hồng... Cheng không chia tỷ lệ xích nên chàng không ước lượng được khoảng cách từ thị trấn Tân Gia Ba ra đảo Hồng. Chàng ngậm nghĩ một lát, đoạn bắt đầu lục lọi túi xác chết, với hy vọng tìm thêm chi tiết cụ thể giúp chàng tiến hành điệp vụ thắng lợi. Nhưng chàng vừa mó đến áo vét tông của Cheng Ho đã vội ngừng tay. Vì từ góc phòng vẳng lại tiếng reng reng đều đặn. Tiếng chuông điện thoại. Trời không còn sớm, thế tất khách gọi điện thoại cho Cheng Ho phải là loại khách đặc biệt. Chàng áp ống nghe vào tại song chưa cất tiếng. Đầu dây, người gọi cũng nín khe. Một phúc nặng nề trôi qua, người đối thoại mới đằng hắng rồi hỏi giọng kênh kiệu: - Anh Cheng hả? Văn Bình đáp "phải" một tiếng ngắn. Chàng không dám nói lớn và nói nhiều sợ lộ tẩy, vì chàng có ấn tượng nhiều chuyện sôi sục sắp xảy ra. Vẫn giọng nói kênh kiệu: - Tôi đây. Anh nhận ra tiếng nói của tôi chưa? - Rồi. - Vậy anh còn đợi gì mà chưa cho biết quyết định. "Tiếng nói của tôi" là ai? "Quyết định" vừa được người đối thoại nhắc đến là quyết định gì? Những danh từ tối như đêm ba mươi Tết làm Văn Bình tắc tị, tiến thoái lưỡng nan. Chàng bèn ừ hử: - Xin thư thả... Người đối thoại hét oang oang: - Hừ... tôi không thích những kẻ nuốt lời hứa. Anh đã xin tôi dành thời gian suy nghĩ. Tôi đã chấp thuận. Anh đòi một số tiền lớn, lớn đến nỗi không ai dám tin là thật, tôi cũng đã chấp thuận. Lẽ ra hồi tối anh phải trả lời dứt khoát, anh lại đình hoãn thêm nữa. Nhưng giờ này tôi không thể cho phép anh tiếp tục ỡm ờ. Tôi vừa được tin... Người đối thoại ngưng nói, dường như hắn cảm thấy bị hớ. Văn Bình từng nổi danh khôn ngoan thế mà lúc ấy lại vụng về ngoài sức tưởng tượng. Chàng vội hỏi: - Ông vừa được tin gì? Chết rồi... hắn đã hớ, chàng lại hớ không kém. Chàng nghe hắn lẩm bẩm "lạ quá" rồi hắn đổi giọng nói: - Tin gì kệ xác tôi. Anh đã biết tôi là ai vậy anh nói lên xem đúng không? Chàng giả bộ cười trừ. Cụp một tiếng khô khan. Người lạ cắt điện đàm. Nghĩa là hắn đã biết chàng giả mạo tiếng nói của Cheng Ho. Văn Bình điềm tĩnh ngồi xuống ghế, ngón tay chặn bốn góc tấm địa đồ bằng giấy pơ luya cho nó khỏi cong, đoạn chụp bằng mắt tất cả người đường nét. Chàng khỏi cần nhọc công vận dụng trí nhớ. Đảo Tân Gia Ba từa tựa như hạt hạnh nhân, bất cứ cuốn sách địa lý nào cũng có hình. Chàng chỉ cần ghi nhớ diện tích nằm trong khoanh tròn đỏ. Diện tích này là đảo Hồng. Đảo Hồng với Hsiang-pen Lih. Đảo Hồng với những đầu mối cực kỳ bí mật của điệp vụ thùng thép độc dược Disa... Xong xuôi chàng quẹt diêm, đốt cháy tờ giấy ra than. Ngay cả những mẩu than vụn cũng được chàng chiếu cố đặc biệt. Chàng gói cẩn thận, mang vào phòng tắm, từ từ đồ hết xuống ống cống lavabô. Trước khi tháo lui, chàng lục lọi khắp nhà. Trong căn nhà khá rộng, chỉ thấy mỗi một khung ảnh đàn bà. Tuy ảnh không đề tên, song chàng đã biết là Vân Kiều. Chị của Vân Anh. Hai chị em như đúc cùng một khuôn. Không rõ cô chị hơn cô em mấy tuồi, nhưng nhìn trong ảnh, Vân Kiều có vẻ trẻ măng. Trẻ như thể nàng làm em út cô vợ của Agong. Bức hình to bằng tấm cát pốt tan được lồng trong khung vàng, Văn Bình gỡ cái khung, cất vào ngăn kéo, còn bức hình màu diễm lệ được chàng bỏ luôn vào túi. Thấy trên bàn có chùm chìa khóa xe, chàng bèn thủ luôn. Biết đâu đấy... ngự xe nhà vẫn khoái hơn tắc xi ọc ạch, chạy chậm như rùa. Chàng rảo qua hành lang treo đầy tranh Tàu và đèn lồng. Pho tượng Di Lặc vẫn trầm mặc, bên cạnh pho tượng thần ái tình Shiva cười duyên. Đột nhiên nhởn quang của chàng bắt gặp một bức họa Trung Hoa hơi khác thường. Trên góc trái có giòng chữ nhỏ viết đá thảo, bay bướm và nét sắc như lưỡi gươm "trông người lại gẫm đến ta, kỷ niệm ngày đến thăm của đô đốc Cheng Ho." Bức tranh này vẽ một cỗ "thuyền rồng" uy nghi đang lướt sóng, đứng chễm chệ ở mũi thuyền là một tướng Tàu mặc nhung phục thủy binh, tay giương cung, trên vạt áo bào có hai chữ Cheng Ho, và bên dưới có con số 1409. Văn Bình ngắm bức tranh mãi không chán. Viên tướng trong tranh cũng mang tên Cheng Ho. Bí mật... hoàn toàn bí mật. Và 1409 là cái gì? Chàng lắc đầu, xua đuổi những thắc mắc đang xoáy tròn trong óc, rồi bước xuống thang. Ra đến sân sau, chàng suýt vấp phải chân bàn ping pong. Khi vào nhà, trời có phần sáng hơn, lại có thằng Sue dẫn đường nên Văn Bình không va chạm đồ vật. Tuy nhiên, trong cái rủi đôi khi có cái may, chàng suýt vấp nên phải đứng thẳng để lấy thăng bằng và lúc ấy chàng mới khám phá ra một chi tiết khác thường. Cách đây nửa giờ, hai cây vợt được đặt chặn lên mấy trái banh tròn trắng xóa. Chàng đã nhìn theo thằng Sue. Nó đi thẳng một mạch, không đụng đến cái bàn ping pong. Vậy mà giờ đây, nhưng trái banh trắng xóa đã lặn tứ tán. Trên bàn, trong tầm tay của chàng, chàng chỉ thấy hai trái. Sự kiện này có nghĩa là trong khi chàng ở trên lầu với Cheng Ho thì có người lạ lẻn vào sân sau. Chắc là người lạ, vì người quen - như thằng Sue chẳng hạn - khó thể vụng về đến đỗi ngã nhào vào đống banh và vợt. Văn Bình có cảm giác như toàn thân chàng bị điện giựt mạnh. Chàng văng mình, ép sát tường. Cũng trong giây đồng hồ căng thẳng này, một tiếng bụp rất nhỏ được cất lên, và một vòng lửa màu da cam lóe tròn cách chàng chưa đầy 2 mét. Bản năng tự vệ của chàng đã cứu chàng khỏi chết kiịp thời. Vì tiếng bụp và vòng lửa màu da cam là viên đạn được khạc ra khỏi nòng súng. Kẻ bắn chàng lảy cò trong khi chàng thay đồi vị trí. Nếu chàng phản ứng chậm một phần trăm tích tắc đồng hồ, chàng đã ăn kẹo chì. Thời giờ quá gấp rút, chàng không được phép tiếp tục né tránh để tìm hiểu căn cước đối phương trước khi phản công. Chàng phải chặn họng hắn bằng không viên đạn thứ nhì sẽ xuyên thủng da thịt chàng. Bắn hụt, kẻ địch có vẻ luống cuống. Bằng chứng là hắn vướng tay trong cái lưới chắn ngang mặt bàn ping pong. Văn Bình tung cao chân trái. Địch lãnh luôn ngọn độc cước vào cằm. Hắn lộn ngược ra sau. Khẩu súng văng rớt trên sàn gạch. Văn Bình quỳ xuống nghe ngóng. Ngoài âm thanh do khối thịt và khẩu súng gây ra trên sàn gạch, không còn tiếng động khả nghi nào nữa. Trong nhà của Cheng Ho, chỉ có một tên địch mai phục. Chàng không nghĩ rằng nạn nhân vừa bị chàng đánh ngã là đàn em của trùm Phản Gián địa phương Lim Koon. Hai nhân viên của Lim Koon mặc âu phục đàng hoàng. Chúng lại béo phục phịch. Nạn nhân này mặc đồ Tàu và gầy nhẳng như cây cau. Vả lại, chàng không tin là đàn em Lim Koon được lệnh hạ thủ chàng bằng súng... Họ là địch. Nhưng địch là ai? Tiếng rên của nạn nhân nhỏ dần, thoạt đầu hắn còn kêu "đau quá, chết mất." Mấy phút sau hắn chỉ còn ư ử. Rồi hắn quẫy mình, bàn tay vỗ bắp đùi đen đét. Rồi hắn câm bặt. Hắn đã chết. Trong đời, Văn Bình từng giết nhiều người bằng một ngón đòn nhẹ. Nhưng dầu sao nó cũng là atêmi đánh trúng huyệt đạo. Đằng này cú đá của chàng chỉ tông xương hàm, tối thiểu là gây bất tỉnh, tối đa là trọng thương. Nạn nhân bị mạng vong là điều chàng không hề nghĩ tới. Thì ra võ công của chàng đã tiến vượt bực mà chàng không hay biết. Trong bóng đêm, chàng lần mò lại gần xác chết. Làn da hắn còn nóng. Nhưng chàng luồn tay vào trong áo thì tim hắn ngừng đập. Chàng lần lượt lục túi, và như chàng tiên đoán, nạn nhân không mang theo giấy tờ. Sự kiện này càng chứng tỏ nạn nhân không phải là đàn em của trùm Phản Gián Lim Koon. Chàng đứng dậy, bỏ ý định ra khỏi nhà bằng ngõ sau. Chàng bước qua căn phòng có cầu thang để ra mặt tiền. Qua một căn phòng nữa mới đến nơi Cheng tiếp khách. Bên ngoài là cửa hàng, cửa phòng được khóa chặt, chàng phải mở bằng sợi thép. Máy điều hòa khí hậu trong phòng vẫn chạy nên căn phòng mát rợi. Không sợ bên ngoài nhìn thấy, vì cửa đóng kín, chàng vặn đèn. Một dãy kệ gỗ chạy dọc theo tường phòng, từ mặt đất lên gần sát trần, trên kệ được trình bày hàng trăm kỷ vật nhập cảng, đủ cỡ, đủ hình thù, đủ loại và màu sắc. Bên cạnh những búp bê phụ nữ mặc áo dài Việt tha thướt và những búp bê kiếm sĩ Nhật còn có những pho tượng lingam và yoni bằng gỗ, bằng đồng được gọt trạm tuyệt khéo giống hệt bộ phân sinh dục nam nữ. Trên mỗi kỷ vật đều treo mẩu giấy cạt tông nhỏ xíu, đề giá tiền. Cheng Ho làm việc có vẻ ngăn nắp, khoa học, và dường như tiệm bán kỷ vật này đã mang lại cho hắn một nguồn lợi tức dồi dào, khỏi cần lãnh lương C.I.A., hắn vẫn có thể sinh sống sung túc. Cái bàn giấy bằng sắt sơn xanh, có ghế xoay kiểu Mỹ được kê gần góc. Văn Bình lưu ý đến cái máy điện thoại màu đỏ. Nó không phải là máy điện thoại thông thường. Nó được nối liền với cái hộp sắt, trông hao hao như máy thu thanh xách tay, bên trên gắn nhiều nút song song. Cái hộp sắt này là máy scrambler, bộ phận điện tử đảm bảo an toàn, người ngoài nghe lén không thể hiểu rõ nội dung câu chuyện. Máy scrambler của Cheng Ho mang nhãn hiệu chế tạo ở Tây Đức, gần 5.000 đô la một bộ. Phải là kẻ có tiền rừng bạc biển mới sắm nổi. Nếu do C.I.A. trang bị thì Cheng phải là nhân viên được tín nhiệm và khá quan trọng. Chàng đang thử nút scrambler thì chuông điện thoại reo. Lạ lùng... hồi nảy, chuộng điện đã reo trên lầu, người đối thoại tự ý gác máy sau khi nói những câu khó hiểu và khám phá ra chàng là Cheng giả Mao. Giờ đây, người lạ gọi lại chăng? Chàng không tin. Chờ chuông reo hồi lâu, chàng mới nhấc lên. Chàng mỉm cười khi nhận ra giọng nói quen thuộc của Agong. Và Agong chỉ nghe một tiếng alô độc nhất của chàng là nói luôn một hơi: - Tôi đây, Agong đây. Anh nhận ra tôi chưa? Văn Bình đáp: - Rồi. - Anh cứ trò chuyện tự nhiên. Vì điện thoại của tôi cũng như của Cheng đều được gắn scramble lọc tiếng. - Lim Koon nghe được không? - Không. Cheng cũng dặn anh đề phòng Lim Koon hả? Chẳng sao đâu. Lim Koon như cái thùng rỗng, kêu thật to nhưng giá trị của hắn chỉ là con số dê rô to tướng. Cheng đâu? Hắn bớt chưa? - Không bớt. - Nghĩa là? - Chết. - Trời ơi. Chết vì Disa? - Phải. Tôi không rõ bị nhiễm độc bằng cách nào. Khi tôi đến thì hắn đã hấp hối. - Hắn có kịp trối trăng gì không? - Không có gì quan trọng. Ngoại trừ bản địa đồ, ghi nơi tiếp xúc với Hsiang-pen Lih và cũng có thể là nơi cất giấu các thùng sắt chứa chất Disa. - Ở đâu? - Ngoài khơi. Gọi là đảo Hồng. - Xác Cheng còn ở trong nhà? - Còn. Tôi toan ra bằng cửa hậu thì bị bắn lén. May thay tôi không trúng đạn. Cheng còn nằm trên lầu. Nếu anh có phương tiện... - Hiểu rồi. Anh muốn tôi mang thi thể của Cheng đi? - Phải. Tôi sang đảo ngay. Nội đêm nay, tôi sẽ chở xác của Cheng ra biển. - Không nên. Quăng xác xuống biển có thể làm nước nhiễm độc. Đề nghị anh đào huyệt chôn ngay trong nhà. Hoặc tốt hơn là... - Hiểu rồi. Tôi sẽ thủ tiêu bằng acit. Anh mặc tôi lo liệu. Còn về phần anh, cẩn thận, kẻo lây thì khốn. - Anh yên tâm. - Lát nữa anh về đâu? - Về khách sạn anh đã biết. - Nếu không có gì trở ngại tôi sẽ tới gặp anh. À, tôi vừa nhận được công điện hỏa tốc, nhờ chuyển lại cho anh. - Mật mã? - Phải. Mật mã, song là mật mã của C.I.A., không phải mật mã của sở Mật Vụ mặc dầu người gởi là ông Hoàng. Có lẽ ông Hoàng đã đồng ý với C.I.A.. Nội dung của công điện là yêu cầu anh hành động chớp nhoáng, ráng giải quyết nội vụ trong vòng 24 giờ đồng hồ, vì cơ quan an ninh địa phương có thể xía vào, đòi quyền làm chủ. - Lim Koon đòi chỉ huy điệp vụ Disa? - Không những muốn làm xếp nhất, hắn còn muốn tống xuất anh lên chuyến bay sớm nhất trở về Sàigòn. Nhưng hắn chi dám tống xuất anh trong trường hợp anh làm tổn thương cục tự ái lớn bằng trái ba lông trong đầu hắn. Hồi chiều tôi sơ ý quên nói một điều quan trọng. Sự hiện diện của anh trên đảo đã được thông báo cho Lim Koon, và hắn sẽ sai nhân viên bám sát anh từng bước. Nhân viên của hắn ngu như bò, chủ nào tớ ấy mà anh, anh đừng thèm tức giận, chúng rượt theo ông già run lẩy bẩy còn bị ăn bụi thì chúng mất hút anh là cái chắc... Anh đụng đầu bọn nhân viên xuẩn ngốc của Lim Koon chưa? - Chưa. - Lát nữa, ra đường sẽ gặp nó. Thôi, chúc anh may mắn. Agong cười ha hả rồi cúp. Văn Bình ngơ ngẩn giây lâu, với cái ống nghe kêu vu vu. Bạn đồng nghiệp, anh em cột chèo, cố tri từ thuở thanh niên, bị chết một cách tức tưởi mà Agong cười ha hả kể cũng lạ thật. Có lẽ một phần tư thế kỷ sống trong sự căng thẳng, ngày đêm cận kề Tử Thần trong thị trấn Tân Gia Ba ăn bom đạn thường trực của Nhật cũng như nghề điệp báo hành động, đã làm Agong chai đá lì lợm. Văn Bình mở ngăn kéo bàn giấy ra lục lọi. Bên trong toàn là giấy tờ thương mãi thuần túy. Tuy nhiên, khi chàng lật tấm bì đầy mực trải trên buya rô, chàng cảm thấy nhột nhạt, một sự nhột nhạt khó thể giải thích. Vì bên dưới tấm bìa là một bức tranh. Đúng hơn, một bức phóng họa bằng chì than, nét vẽ hao hao nét vẽ mực tàu trong bức tranh viên tướng mặc nhung phục thủy binh ở hành lang trên lầu. Họa sĩ của hai bức chỉ là một mặc dầu lối vẽ thay đồi. Điều làm Văn Bình nhột nhạt là bức họa ở đây cũng có viên tướng quen thuộc mang tên Cheng Ho trên vạt áo bào. Và có một hàng chữ khác thường: "Dầu sao mình cũng phải sống. Cheng Ho đã lập được thành tích rạng rỡ trong thế kỷ thứ 15. Mình phải bắt chước đô đốc Cheng. Mình không được quyền chán đời..." Không cần suy tính, Văn Bình rút bức phóng họa khỏi tấm bìa dầy, gấp làm tư, rồi làm tám. Chàng có linh tính là viên tướng Tàu trong tranh có liên hệ đến đời tư của Cheng Ho. Chàng quyết định khám phá bí mật. Chàng tắt đèn phòng giấy, mò mẫm ra ngoài cửa hàng. Chàng hé cửa, quan sát mặt đường và hàng cây um tùm. Chàng không thấy ai. Dầu thấy nhân viên của Lim Koon chàng cũng bất chấp. Thời gian 24 giờ đồng hồ quá ngắn ngủi, chàng không thể giữ kẻ thêm nữa. Muốn thành công đúng kỳ hạn ông Hoàng ấn định, chàng phải đốt cháy giai đoạn. Chàng nghênh ngang hút thuốc Salem, nện gót giày trên đường Nam Kiều vắng vẻ. Qua khỏi ngã ba, chàng vớ được một chú tắc xi vừa đổ khách. Tân Gia Ba là một thành phố thanh bình, ăn chơi suốt đêm, người Tàu lại siêng năng một cây nên giờ nào cũng có tắc xi. Giá biểu ở đây khá rẽ, cây số đầu tiên chỉ mất 60 xu (1) và giống như Sàigòn, nạn tắc xi không bẻ khóa, không tính tiền theo đồng hồ và nạn tắc xi lậu ngày một bành trướng mạnh mẽ. Bởi vậy Văn Bình không ngạc nhiên khi thấy xe tắc xi không có đồng hồ, bên trong lại khá sạch sẽ. Gương mặt gã tài xế tròn xoe như mặt nguyệt, cổ gã đầy mỡ, gã lạch bạch xuống xe, mở cửa mời chàng. Diện mạo của gã hơi ngây ngô, miệng gã lại cười toe toét như cái ống phóng nên Văn Bình cảm thấy an tâm. Chàng cho một địa chủ hú họa ở phía Bắc thành phố rồi lục túi lấy Salem ra hút. Nhưng sau khi gõ đầu điếu thuốc chàng lại nhét vào bao, không hút. Một chi tiết quan trọng vừa đập vào trí nhận xét của chàng. Tắc xi mới vượt được một quảng đường ngắn. Theo luật giao thông trên đảo, xe phải chạy bên trái, song tài xế lại men theo lề mặt. Nghĩa là gã Tàu có bộ mặt phúc hậu này chỉ là tài xế đội lốt. Không những thế, hắn còn là người ngoại quốc vừa chân ướt chân ráo đến đảo. Nếu đã sống lâu trên đảo, hắn không thể không am hiểu luật giao thông đã có từ ngày người Anh cai trị. Văn Bình nhếch mép cười thương hại. Chàng thương hại gã tài xế giả mạo kiêm nhân viên hành động sắp sửa bị chàng làm thịt. Chàng thương hại luôn cả sợ điệp báo nào đó sắp sửa mất một cộng sự viên... ngu như bò. Chàng bèn đập nhẹ trên vai hắn. Hắn thắng ngay lại: - Chưa đến nơi mà... Dường như hắn vừa nhớ đến luật giao thông bên trái thì Văn Bình ra lệnh cho hắn đậu xe. Hắn ngoảnh cổ nhìn chàng. Chàng nhún vai: - Anh mới đến Tân Gia Ba hả? Mặt hắn hơi biến sắc. Hắn nuốt nước miếng: - Vâng. Mới đến. - Thảo nào. May đường vắng, nếu có xe chạy ngược chiều thì anh đã vào thăm bệnh viện. - Ông tha lỗi. Tôi mới gia nhập nghề tắc xi nên còn bỡ ngỡ. Phải nuôi hàng đống con lại cả... - Thôi, đừng lẽo mép nữa. Anh nói tiếng Quảng Đông sai be bét. Hừ, anh chờ tôi trên đường Nam Kiều từ khi nào? Gã tài xế không còn vẻ bối rối sợ sệt như trước đó một phút nữa. Có lẽ hắn thấy bị lộ tẩy nên đánh bài liều. Hắn trợn mắt: - Phải, tôi nói tiếng Tàu sai be bét vì tôi không phải là người Tàu. Tôi không phải là tài xế tắc xi. Tôi được lệnh đậu xe chờ anh trước cửa hàng của Cheng Ho. Anh cần biết thêm điều gì nữa? - Tạm đủ. Cám ơn anh. Giờ đây, mời anh mở cửa xe, lên phía trước lái dùm tôi. Thú thật với anh, tôi có tính lơ đãng, cứ chạy theo lề mặt... Anh chỉ lái hết đường Nam Kiều là có người đón. - Nếu tôi không chịu lái dùm... - Không nên. Đây là phố Tàu, người Tàu vốn không ưa dính đến chuyện riêng của thiên hạ. Tôi sẽ cho anh ăn đòn bò lê bò càng, giá cảnh sát đi qua họ cũng mặc kệ. - Mời anh biểu diễn quyền thuật. - Đừng dại. Chẳng nói giấu anh, tôi là người Nhật chính cống. Tôi mang giòng máu nhu đạo trong người. Trông bộ vó của anh, tôi biết anh có võ. Nhưng anh ơi, tôi là đai huyền đen đệ nhị. Người Nhật đai huyền đen đệ nhị thường đánh ngã đai huyền đen đệ tam ngoại quốc dễ dàng. Gã tài xế Nhật nói đúng. Song chưa đúng hẳn. Đành rằng môn nhu đạo là môn võ thuật thuần túy Nhật, đến sau đại chiến thứ hai, khi quân đội chiếm đóng Mỹ cho phép dạy nhu đạo trong các trường thì nhu đạo mới lan tràn ra hải ngoại, nhưng từ bấy đến nay, hàng chục ngàn võ sĩ Tây Phương đã đến Nhật thụ giáo nên nhu đạo không còn là môn võ độc quyền của Nhật Nữa. Ngôi vị bá chủ này đã bị lung lay tận gốc rễ từ ngày võ sĩ Hòa Lan Geesink chiếm giải vô địch thế giới về nhu đạo. Vả lại, gã tài xế không biết rằng người ngoại quốc trước mặt hắn là z.28. Chàng thắt đai đen đệ tứ đẳng song giới đệ tử Phù Tang chính cống đều bị chàng hạ đo ván trong nháy mắt. Nghe hắn khoe khoang, chàng mỉm cười: - Anh thua là cái chắc. Tôi sẵn sàng nhường anh ra đòn trước. - Xạo. Nói xạo chết oan uổng. - Anh muốn thi thố tài nghệ trong xe hay xuống đường? - Hừ... Anh thèm ăn đòn, tôi đành chiều ý anh vậy. Đường này vắng, có cây to tướng bên trái... Anh xuống đi... Coi chừng... Nếu anh chơi xấu rút súng tôi sẽ không tha. Tuy trời đã khuya, khách bộ hành vẫn còn đi lại. Xe hơi vùn vụt chạy qua. Hai người kéo nhau đến cây cồ thụ sừng sững trên vỉa hè lồi lõm. Trước khi lâm trận, hắn đã nắm vững thắng lợi trong tay. Hắn nghiêng mình chào rồi đấm dứ tay trái trong khi tay phải móc từ dưới lên trên bằng một thế atêmi tuyệt diệu. Văn Bình đứng yên, chờ đòn đến gần mới gạt. Chàng không dùng sức mà đối phựơng vẫn ngã bắn vào gốc cây. Hắn chồm dậy, vung tiếp atêmi vào yết hầu. Hắn không nương tay nữa. Hắn đã bắt đầu đánh đòn chết. Điều hắn không ngờ là Văn Bình không thèm né tránh cũng như không thèm đỡ gạt. Mặc dầu đó là đòn chết. Chàng chỉ hơi nghếch cổ để lãnh trọn cú atêmi kinh khủng. Một tiếng "bưng" nổi lên, như thể sống bàn tay của gã tài xế chạm lò so. Đòn atêmi của hắn bị dội bật. Văn Bình khèo nhẹ, nạn nhân dộng đầu luôn xuống cống. Giờ đây Văn Bình mới hút thuốc. Chàng ung dung thở khói bạc hà, chờ một lát gã tài xế hoàn hồn, lóp ngóp bò dậy, mình mẩy ướt sũng vì nước cống. Nước cống ở khu Hoa kiều thời gian phá kỷ lục hôi hám nên hắn nhăn nhó, miệng mếu sệch như muốn khóc. Hắn là người Nhật có khác; khi chiếm thượng phong thì coi Trời bằng vung, khi bị sa cơ thì nhũn như con chi chi. Chàng vứt mù soa cho hắn lau mặt rồi hỏi: - Chịu thua chưa? Hắn nín thinh. Chàng gõ ngón tay vào xương vai hắn: - Giờ đây anh đã thấy rõ sự thật. Theo lề thói nghề nghiệp, tôi không thể tha anh. Nghĩa là tôi phải hạ thủ anh để bảo toàn bí mật. Nhưng tôi, tôi lại sẵn sàng cho anh về với vợ con. Thôi, trèo lên xe, và lái về hướng Vườn Cây. Gã tài xế lùi lũi chui vào băng trước. Hắn nhìn chàng, đợi chàng gật đầu cho phép mới dám mở máy. Thái độ ngoan ngoãn của hắn không làm chàng kinh ngạc. Hàng triệu người Nhật khác đều có thái độ như hắn sau khi nước Nhật đầu hàng đồng minh. Tuy nhiên, Nhật lại là dân tộc trọng danh dự. Thà chết, họ không chịu để danh dự bị chà đạp. Vì vậy Văn Bình không hề có cử chỉ kênh kệu nhằm hạ nhục gã tài xế. Chàng ngồi yên, thả khói Salem qua cửa xe gíó lùa. Lát sau tắc xi đến đầu đại lộ Vườn Cây. Gã tài xế rụt rè: - Thưa ông... Chàng ngắt lời: - Cứ chạy nữa. Dừng ở số 585. Khách sạn Liên Lục Địa (2). Hắn cho Tắc xi chạy từ từ. Dường như hắn muốn nói gì với Văn Bình song lại ngại ngùng. Chàng điềm nhiên xuống xe. Gã tài xế Nhật nhìn chàng bằng đôi mắt một mí không chớp. Chàng giơ tay chào hắn, giọng thân mật: - Phiền anh về trình với xếp là đại tá z.28 lấy phòng trong lữ quán Liên Lục Địa. - Thưa đại tá, vâng. Tôi xin báo cáo đầy đủ lên thiếu tướng Tôkita. Dưới ánh đèn nê ông nhiều mầu rực rỡ, không ai có thể nhận ra sự biến đồi đột ngột trên da mặt của Văn Bình. Bình tĩnh có hạng như chàng mà tiếng "Tôkita" gã tài xế Nhật vừa nói cũng làm chàng xanh tái... Thì ra tên tài xế giả hiệu này là đàn em của một tên thiếu tướng Nhật, tên Tôkita... Đến Tân Gia Ba, chàng đinh ninh chỉ gặp Agong, rồi gặo Cheng Ho, rồi đấm đá, bắn súng loạn xạ một hồi trước khi đoạt lại các thùng thép Disa, vù một mạch về Sàigòn. Chàng không dè điệp vụ Disa là bát trận đồ, tới nơi chưa có thời giờ ngả lưng, ngắm nghía những giai nhân ngực nở eo nhỏ, thì những cái tên thắt họng đã hiện ra... Lim Koon, trùm Phản Gián, thằng Sue oắt tì mà khôn hơn người lớn lõi đời, Hsiang-pen Lih với bí mật đảo Hồng, thiếu tướng Tôkita... Là dân trong nghề, dầu sinh sau đẻ muộn, Văn Bình không thể không biết tới thiếu tướng Tôkita. Thật ra, ông ta chưa được thăng cấp tướng, đại chiến thứ hai chấm dứt, ông đeo lon trung tá hoặc đại tá gì đó, nhưng dư luận và đàn em của ông tôn trọng tôn ông lên làm tướng. Hồi đó, ông chưa đến 30. Giờ đây ông đã xấp xỉ lục tuần. Nếu nước Đức có "ông tướng không mặt" (3) luôn luôn mai danh ẩn tích, xuất quỷ nhập thần thì trong hàng con cháu Thái Dương thần nữ cũng có "ông tướng không hình bóng Tôkita." Tôkita là sĩ quan tình báo trong bộ tham mưu của đạo quân chiếm đóng Tân Gia Ba. Binh sĩ đồng minh bị bặt giữ làm tù binh được di chuyển lên miền Bắc, đàn ông khỏe mạnh bị xung vào công cuộc thiết lập con đường sắt nối liền Vọng Các với Ngưỡng Quang. Lực lượng dân công này được chia làm 2 đội, đội F và đội H. Đại tá Tôkita cải trang làm hạ sĩ quan gác tù, sự đối xử nhân đạo của ông từng tranh thủ được cảm tình của nhiều binh sĩ đồng minh, và do đó, ông đã khai thác được một số tin tức. Tuy nhiên, Tôkita còn có nhiều nhiệm vụ tình báo quan trọng khác trong vùng. Người ta không rõ nội dung vì trước ngày Thiên hoàng chấp nhận đầu hàng vô điều kiện, Tôkita đã trốn biệt. Hồ sơ Mật của C.I.A. và MI-6 ghi nhận Tôkita là thủ lãnh điệp báo tài giỏi. Gần đây có tin nói Tôkita xuất hiện ở Châu Âu. Văn Bình không ngờ Tôkita lại có mặt trên đảo. Chàng mừng rơn. May gã tài xế không bắt gặp phản ứng sửng sốt của chàng. Chàng muốn hỏi hắn "Có phải thiếu tướng Tôkită anh vừa nhắc tên là thiếu tương chân gỗ không song chàng không dám, vì câu hỏi này có thể khiến hắn chột dạ và ngậm miệng. Trong những ngày sống ở trại Wampo (4). Tôkita bị rắn độc cắn ở bắp đùi trái. Tủ thuốc của trại không đủ khử độc nên ống chân sưng vù và tấy mủ. Nếu không điều trị kịp thời, chất độc sẽ lan đến các bộ phận khác. Tôkita bèn rút phăng trường kiếm treo trên vách ra, chặt đứt chân trái đến gần bẹn. Từ đó, ông ta mang hỗn danh là "tướng một chân" hoặc "anh hùng chân gổ." Chàng bèn lựa lời hỏi gã tài xế: - Dạo này "anh hùng chân gỗ" còn ham thức khuya múa kiếm như ngày xưa ở Wampo không? Gã tài xế buột miệng: - Thưa còn. Đêm nào thiếu tướng cũng thức đến hai ba giờ sáng múa kiếm một mình cho khuây khỏa, về cái chân bị cắt, thiếu tướng... Gã tài xế đột nhiên câm họng. Trong một giây đồng hồ thiếu cẩn tắc hắn đã khờ dại tiết lộ bí mật. Hắn là võ sĩ Nhật, chàng có thể cứa cổ, mổ bụng hắn, hắn cũng sẽ không nói thêm nữa. Trừ phi chàng áp dụng chiến thuật ngoại giao khôn ngoan... Chàng chép miệng: - Thôi, tôi đi. Anh đừng ngại, tôi không thuật lại với ai những lời anh vừa nói đâu. Tôi nghe nói thiếu tướng còn đau chân nên hỏi thăm đấy thôi. Gã tài xế đáp ngay: - Không. Thiếu tướng đã khỏi hẳn. Cái chân ni lông của thiếu tướng cử động nhanh nhẹ như chân thật. Gặp thiếu tướng đi bộ ngài đường, không ai biết thiếu tướng xài chân giả. - Hiện thiếu tướng ở đâu? - Xin anh tha lỗi. Nếu tôi biết chỗ ở của thiếu tướng, tôi cũng có bổn phận giữ kín. Nhưng thú thật với anh, tôi không biết, mặc dù tôi là đàn em thân tín từng theo hầu mấy chục năm nay. Và không riêng tôi, ngay cả cô Disa cũng không biết... Hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác... Gã tài xế quả là kho tin tức vô cùng quý giá. Hắn vừa giúp chàng giải tỏa những bí mật dày đặc. Trước phút vĩnh biệt cõi đời, Cheng Ho nhắc đến Disa, giai nhân Disa. Thì ra Disa là cộng sự viên của tướng Nhật Tôkita... Chàng vẫy chào gã tài xế lần nữa. Nếu hắn cho phép, chàng đã ôm hôn để biểu lộ lòng biết ơn. Nhưng hắn lại tiệp tục ngồi yên như phỗng đá trước vô lăng. Sau khi chàng đi khuất sau những xe bán thức ăn la liệt trên vĩa hè, hắn mới nổ máy. Tản bộ trên đườn Vườn Cây về khách sạn, không hiểu sao Văn Bình lại nhớ đến ông Hoàng. Lý do khơi động tâm thần chàng là một tiệm ăn Ý Đại Lợi tọa lạc cùng đường với khách sạn. Tiệm ăn Sorentô. Trong số cộng sự viên gần cận, Văn Bình có thể tự hào là người hiểu rõ nhất đời tư của ông tổng giám đốc. Ông mê món ăn Ý, tuy nó chẳng có gì đặc sắc, còn thua món ăn Pháp hoặc Tàu một vực một trời. Món ruột của nước này là mì, đủ thứ mì khác nhau, hoặc món pizza, một loại bánh đút lò với cà chua trát dầu ô liu, và hỡi ơi, với thịt cá đối trộn củ hẹ... ông Hoàng đã nếm đủ món ngon trên thế giới, ấy thế ông lại có cảm tình đặc biệt với mì và bánh cá đối củ hẹ. Chẳng qua là nước Y là nơi có Sorentô, và Sorentô là nơi có người đẹp Maria của ông... Bà Maria chết thảm trong một tai nạn nghề nghiệp, ông Hoàng ở vậy, không tục huyền. Biết tính ông, Nguyên Hương thường còm măn ở một tiệm Ý các món ăn Ý cho ông. Chàng hồi tưởng lại tối hôm ấy, chàng vào văn phòng ông tổng giám đốc để nhận chỉ thị về điệp vụ Disa. ông đang ngồi bâng khuâng với điếu xì hà Ha Van khói um, và đống hồ sơ cao ngất trên bàn. Phía sau buya rô là giẫy chậu sứ nhỏ xinh, trồng những giò phong lan nhỏ xíu, hoa nở đủ mầu. Chàng đã đối diện ông gần 5 phút đồng hồ mà ông không để ý. Ông thở khói xì gà, rút cặp mục kỉnh ra lau, đeo lại vào mắt, rồi cúi xuống bàn, lấy ra một xấp giấy tờ sặc sỡ in hình mầu. Đó là tờ giấy quảng cáo danh lam thắng cảnh Tân Gia Ba. Nhân viên ngoại giao ở các sứ quán được lệnh thu thập mọi giấy tờ quảng cáo, hình ảnh liên quan đến khách sạn, tiệm ăn, vũ trường, rạp hát... rồi tập trung gởi về sở Mật Vụ. Những tài liệu này sẽ giúp một phần quan trọng cho điệp viên hoạt động ở xứ ngựời khỏi bỡ ngỡ. Trong đống ảnh mầu trên bàn, Văn Bình thấy tấm ảnh của tiệm ăn Sorentô.Ông tổng giám đốc cầm lên ngắm nghía một hồi, mắt ông đột nhiên buồn lạ lùng... Đột nhiên Văn Bình buồn lạ lùng. Chàng có cảm tưởng Tân Gia Ba là bãi vắng heo hút, lạnh cóng da thịt, chàng phải tìm đàn bà để sưởi ấm. Định mạng trớ trêu đã khiến chàng gặp một thiếu phụ có dáng đi uốn éo như rắn khi chàng đặt chân lên hành lang, sắp sửa về phòng. Nàng mặc sườn sám Trung Hoa bằng lụa Thái, may ngắn và sát. Lụa bằng tơ tằm Thái có đặc điểm đáng yêu là dính liền thân thể như làn da nên nàng mặc y phục đàng hoàng mà như trần truồng. Văn Bình chỉ được chiêm ngưỡng cái cổ trắng ngần, cái lưng tròn thuôn và cái mông nẩy nở. Nhưng chỉ một trong ba bộ phận phụ tùng này đã đủ mang lại phần thưởng hoa hậu sắc đẹp cho nàng, khỏi cần nàng trình diện eo ngực và diện mạo. Chàng bật lên tiếng huýt sáo. Thiếu phụ cách chàng một quãng, tuy vậy nàng vẫn nghe được tiếng huýt sáo biểu lộ sự tán thưởng của chàng. Nàng quay mặt lại. Tiếng huýt sáo rụt rè của Văn Bình lớn lên thành tiếng "ồ." Chàng quên đói. Chàng quên cả khát. Chàng quên luôn sự mệt nhọc. Thân thể nàng là một kiệt phẩm của hóa công hoàn my. Nàng cao to như phụ nữ phương Tây, song vẻ đẹp của nàng lại không mang tính chất phũ phàng. Nàng chống nạnh, khoe đôi môi trái tim và cặp mắt nhung ươn ướt: - Anh cần gì ạ? Nàng đặt một câu hỏi quá thừa. Vô lý nữa là khác. Chàng cần gì, nàng đã biết. Nụ cười và nhỡn tuyến mời mọc của nàng đã làm Văn Bình yên tâm. Chàng chắc lưỡi, ra dáng tiếc nuối: - Cần được mời cô uống rượu. - Anh táo gan thật. Chưa quen mà dám rủ em uống rượu. Vâng, em không từ chối... Nhưng em chỉ thích uống sâm banh thôi. - Tưởng gì chứ sâm banh thì cô uống cả két cũng có. Nào, mời cô... - Vâng, anh chờ em một phút. Em cất gói đồ này trong phòng rồi xin xuống nhà. Nàng giơ gói đồ gói giấy trắng cho chàng thấy. Đúng phép nịnh đầm trong sách vở, chàng phải đỡ giùm cái gói trên tay nàng. Thế ma từ nãy đến giờ... chàng cứ đứng trơ như Thổ Địa, chẳng biết lịch sự gì ráo. Nàng không tẩy chay chàng là may lắm. Chàng bước tới song nàng đã chối đây đẩy: - Cám ơn anh, cái này nhẹ tâng, em cầm được rồi. Nói đoạn nàng quày quả lui gót. Chàng vội cản lại: - Không... không uống rượu dưới nhà. Giờ này họ đã đóng cửa. Nếu cô không nề hà, xin mời vào... phòng tôi... Nàng nheo mắt, rí rỏm: - Đàn bà Triều Tiên chúng em không được lễ giáo cho phép nửa đêm vào phòng đàn ông lạ. Em biết anh là người thượng lưu đúng đắn, song lễ giáo nước em khắc nghiệt lắm, xin anh cảm phiền... Giai nhân đang đòn phép với chàng. Nàng là con gái xứ cụ sâm có khác, da dẻ nàng phây phây toát ra một sức khỏe vô tận. Đứng trước mặt nàng tự dưng bản lãnh bách chiến bách thắng của z.28 trở nên yếu đuối, chàng muốn nói "em ơi anh rất ghét đàn bà nói dối" song lưỡi chàng bị líu lại. Thật ra Cao Ly đối với chàng chẳng có gì xa lạ, chàng đã mòn vẹt gót giầy trên vỉa hè Hán Thành, lưỡi đã quá quen với dưa kim chi cay rộp, quá quen với làn môi của những cô gái kisaeng (5). Cao Ly có đạo Phật và đạo Khổng lại từng bị Tàu cai trị (6) nên lễ giáo cũng chỉ có thể khắc nghiệt đến như quê hương của chàng là cùng... Người đẹp Giao Chỉ đã biết ăn diện mini, mặc đồ tốp lét hở ngực thì lẽ nào đàn bà Tiều Tiên của em lại chưa biết vào phòng anh uống rượu! Nói xong nàng cười tình với chàng một cái có thể làm tòa bin đinh nguy nga của đại lữ quán Liên Lục Địa đồ sụp. Rồi nàng ngoe nguẩy cái mông tròn sửa soạn tháo lui. Chàng hối hả đề nghị: - Cô cho phép bồi mang rượu đến phòng cô nhé? Nàng ngẫm nghĩ một phút. Một phút khi ấy sao dài thế. So sánh với con đường đầy bụi và đầy nắng xiên khoai từ Bắc bán đảo Mã Lai xuống Tân Gia Ba trên chuyến xe đò cá mòi đóng hộp, lẽ ra nó còn dài hơn trăm lần. Trống ngực Văn Bình đập lớn như phèng la ngày hội, giai nhân lắc đầu thì khổ. Nàng không lắc đầu, song mặt nàng thoáng vẻ lo lắng, nghiêm trang: - Vâng, em đồng ý. Nhưng... Nàng ngước nhìn chàng, cặp mắt của nàng chứa chan hẹn hò nóng bỏng. Nàng vừa tỏ tình bằng mắt với chàng. Tại sao còn nói "nhưng"? - Nhưng... em là gái có chồng. Anh chỉ nên vào thăm em một lát. Chàng bước song song với nàng. Nếu nàng giới hạn thời gian là một phút đồng hồ chàng cũng ký luôn bốn tay, huống hồ nàng gia ân cho những "một lát." Tùy theo tài ba của chàng, một lát có thể trở thành một phút, hoặc một giờ, hoặc trọn đêm nay, và cả những đêm kế tiếp, hầu khỏa lấp thời gian quạnh quẻ trên đảo Phong Lan... Té ra phòng nàng ở kế phòng chàng... Rõ là "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ", chàng thầm cảm tạ ông Hoàng đã dặn thuê phòng ở đây. Đã là phòng khách sạn thì phòng nào cũng gồm những đồ đạc bày biện như nhau, không khí trong phòng cũng giống nhau, ấy thế mà phòng nàng lại có bầu không khí khác hẳn. Dường như nàng rắc nước hoa hồng đầy buồng tắm. Mùi nước cốt hoa hồng này thích hợp với đàn bà có nước da trắng va thân hình nẩy nở nên Văn Bình cảm thấy đê mê. Cái nệm dầy trả khăn giường trắng toát nằm thưỡn trước mắt chàng, quyến rũ và kích động. Nàng khép cửa lại, chàng quên bấm chuông kêu bồi lấy rượu. Chàng quên hỏi nàng chừng nào ông xã của nàng về. Nàng đẹp như thế này, chắc ông xã của nàng phải là quan lớn trong guồng máy Nhà Nước và nếu là thương gia thì phải là chủ nhà băng, chủ các giếng dầu ngoài khơi. Chồng già, bụng phưỡn chân run, người đẹp một thể khong tìm kiếm món lạ.. Và chàng đã xuất hiện đúng lúc... Không chần chừ thêm nữa, Văn Bình nắm bàn tay nõn nà của nàng. Chàng kéo đại nàng vào ngực chàng để hôn. Tình yêu cần được sửa soạn đầy đủ cứ a la sô như hồ đói là mất cả chì lẫn chài. Nhưng người đẹp củ sâm lại đẩy chàng ra. Nàng chúm chiếm cười rồi nói: - Anh làm em sợ hết hồn. Chàng kéo nàng lại lần nữa, và lần nàỵ nàng đã gỡ khỏi tay chàng gọn gàng và lanh lẹ. Cử chỉ thần tốc của nàng làm chàng chột dạ. Kẻ sợ hết hồn khi ấy không phải là nàng. Mà là Văn Bình. Song Văn Bình lại mang một chứng bệnh bất trị. Đôi khi chữa khỏi, nhưng rồi mắc lại như trước. Đó là bệnh mù, bệnh điếc trong tình yêu... Cho nên khi ấy chàng chỉ mang máng cảm thấy nàng giỏi nhu đạo. Thứ nhu đạo chân truyền phát xuất từ lò luyện võ Kôđôkan Nhật Bản. Và cách né tránh của nàng cũng là ngón chân truyền, tương tự phương pháp của võ sư đệ lục đẳng Sônê (7)... Nhưng óc chàng chỉ chịu làm việc qua quít. Những tế bào trong thần kinh hệ đã bị tê liệt bởi nhiệt lượng từ thân thể nàng tiết ra. Nàng ưỡn ẹo hỏi chàng: - Thong thả, anh ơi. Chúng mình chưa biết tên nhau là gì... Anh ơi, anh cho em biết tên đi. - Tưởng gì chứ chỉ cần biết tên thì chàng thỏa mãn nàng ngay. Trên nguyên tắc - một nguyên tắc thiết cốt, có thể định đoạt sự sống và sự chết của nhân viên hành động ở hại ngoại - chàng phải dùng tên giả. Thông hành giả, chứng minh thư giả, danh thiếp giả, chàng thiếu gì giấy tờ giả trong mình. Chẳng hiểu sao chàng lại vui vẻ "lạy em, anh ở bụi này": - Tên anh là Văn Bình. Người đẹp cười ròn tan: - Anh là Văn Bình, tức đại tá z.28? Chàng bắt đầu thức tỉnh. Song người đẹp Triều Tiên đã lùi ra xa, nàng vẫn cười ròn tan, song gương mặt lại đầy vẻ giết chóc tàn nhẫn: - Ồ, anh đã nói thật thì em cũng chẳng giấu nữa, anh là đại tá Văn Bình thì thưa anh, em là Disa. Disa... Chú thích: 1. 60 xu cây số đầu, 20 xu từ cây số sau, từ 1 giờ đêm đến 6 giờ sáng tăng gấp rưỡi, giá biểu này khá rẽ đối với Sàigòn trước ngày đô la Mỹ thay đồi hối xuất. 2. Tức là khách sạn Singapura Intercontinental gồm 193 phòng, hoàn toàn điều hòa khí hậu và có hồ tắm, tiệm làm đẹp và tiệm hớt tóc... 3. Tức tướng Đức Gehlen, sau thế chiến làm cho Mỹ, giờ đây làm cho Tây Đức. 4. Trại tù binh này ở Xiêm, gồm chừng 1.500 tù binh. 5. Kim chi là món bắp cải, củ cải muối của Đại Hàn thì ai cũng biết, còn kisaeng có lẽ ít ai biết, đó là một hình thức ả đào giống như Geisha ở Nhật, nhưng đắt tiền hơn. 6. Triều Tiên bị Nhật đô hộ trong 36 năm, mãi đến hết đại chiến thứ hai mới dành được độc lập và chia đôi. 7. Võ sư Sônê, vô địch Nhật Bản, có kỷ thuật tránh né tuyệt đẹp, song đáng tiếc là đã bị một đệ ngũ đẳng người Hòa Lan là Geesinck đánh bại, và mất luôn ngôi vị vô địch thế giới.