- Anh thấy trong người ra sao rồi, có khá không? Malcolm nhìn Wandy và buộc lòng phải thú thực đã khoẻ lên nhiều. Cổ họng hầu như đã hết đau, tuy người vẫn còn thấy hơi mệt. Giấc ngủ li bì gần suốt một ngày đêm đã khiến sức lực chàng trai hồi phục hoàn toàn, đến nỗi khó mà nói là trận ốm vẫn còn hay đã dứt hẳn. Sức lực càng khá lên bao nhiêu, nỗi lo âu càng day dứt tâm trí Malcolm bấy nhiêu. Anh biết hôm nay đã là thứ Bảy. Nghĩa là các bạn đồng sự của anh đã bị giết và anh nổ súng bắn vào kẻ đi với Chim Sẻ, tính đến nay, vừa chẵn hai ngày. Hiện giờ các nhóm điều tra chắc chắn là đang lùng sục khắp mọi xó xỉnh của Washington để tìm anh, tìm Malcolm cho bằng được. Trong các tốp đó có ít nhất là một bọn chỉ lăm le hạ sát anh. Các tốp còn lại chắc hẳn cũng chả dành cho anh một tình cảm nào đặc biệt. Trong một ngăn kéo của một chiếc tủ com-mốt ở trước mặt đang có một xấp tiền, mà nếu anh không cuỗm đi, thì chắc chắn cũng sẽ lọt vào một tay nào đó, đột nhập vào căn phòng người bạn đồng sự bị giết chết một cách thê thảm. Thế mà chính anh thì lại nằm khoèo ở đây, ốm đau, không tài nào hình dung nổi tại sao lại xảy ra cái biến cố ghê gớm ấy và chưa biết sẽ làm gì đây. Đã vậy lại còn kè kè bên nách một cô ả ngộ nghỉnh, miệng lúc nào cũng tươi cười, trên người đang mặc độc một chiếc áo may-ô mỏng dính. Malcolm cất giọng khàn khàn: - Em biết đấy, anh thật chẳng làm sao hiểu nổi những gì đang xảy ra nữa, Wandy ạ. Thật thế, chàng trai không tài nào hiểu nổi các sự kiện vừa qua. Suốt mấy tiếng đồng hồ miên man suy nghĩ, anh chỉ có thể đi đến một kết luận: có thể có bốn cách cắt nghĩa ít nhiều hợp lý cho biến cố đó – một kẻ nào đó đã bí mật chui vào hàng ngũ nhân viên ban 17; một kẻ nào đó đã tiến công vào tiểu ban anh; một kẻ nào đó cố mua chuộc Heidegger, dụ dỗ anh ta làm “tay sai” cho hắn, đã để lại một đống tiền trong phòng anh ta; và một kẻ nào đó đang lăm le khử anh, là Malcolm. - Thế bây giờ anh định làm gì? – Wandy hỏi. - Anh chịu đấy, vẫn chưa biết tính liệu sao đây, - Malcolm đáp, giọng vừa tuyệt vọng, vừa hồ nghi. – Chắc chiều nay anh sẽ thử gọi dây nói một lần nữa cho phòng “Báo động” xem sao, nếu em chở giúp anh tới một chòi điện thoại công cộng nào đó, xa khu vực này một chút. Wandy chồm hẳn người về phía chàng trai, đặt nhẹ lên trán anh một chiếc hôn. - Anh muốn đi đâu, em sẽ đưa anh đến đó, - cô gái mỉm cười đáp và lại ôm chầm lấy Malcolm, hôn anh lần nữa. Khi Wandy trở gót quay ra, Malcolm vào ngay nhà tắm. Tắm xong, anh lắp chiếc mắt kính tiếp xúc vào, rồi lại lên giường nằm. Wandy lại lên phòng ngủ, ăn mặc như sắp đi dạo phố. Cô ném lên giường bốn tập sách mỏng, rồi giải thích: - Không rõ anh thích đọc gì. Nhưng âu cũng là để anh khỏi nóng ruột trong lúc em đi vắng. - Em đi đâu? – Malcolm phải nghỉ giữa chừng câu nói, để hớp một hớp không khí, vì cổ họng anh vẫn đau. – Em định đi đâu thế? Wandy cười: - Anh gàn thật. Em phải đi chợ một lát. Thức ăn thức uống ở nhà hết cả rồi.ngoài ra, em phải mua cho anh một món gì. Anh mà ngoan – kể ra anh cũng khá ngoan rồi đấy, - em sẽ làm cho anh lác mắt một chuyến. – Cô đi ra cửa, nhưng nửa đường lại dừng lại, quay về phía người bạn trai: - Có ai gọi cửa, anh đừng trả lời nhé. Nhưng nếu nghe hai tiếng chuông ngắn, rồi một tiếng dài, là em gọi đấy. Nói của đáng tội, không biết em có đủ tài để nhanh chóng học được những ngón nghề của một nhân viên tình báo giỏi không đây? Khách khứa nhà em ít lắm. Cho nên cứ ở yên trên gác, thì chẳng ai biết trong nhà đang có người đâu. – Rồi cô gái thêm, nhưng giọng nghiêm túc hơn: - Dẫu sao, anh cũng đừng lo. Đồng ý chứ? Sống trong nhà em, anh sẽ được tuyệt đối an toàn mà. – Nói xong, Wandy quay lại xuống nhà dưới. Malcolm vừa mới cầm một quyển sách lên đã nghe thấy giọng cô bạn ở ngay trước cửa phòng ngủ: - Em mới chợt nghĩ ra ý này. Nếu cổ họng em cũng đau không khéo phải xem viêm họng là bệnh truyền nhiểm chứ, anh nhỉ? Malcolm ném nhanh quyển sách vào cô bạn, nhưng trượt mất. Khi Wandy mở cửa, đi ra lấy xe hơi, cô không hề nhận thấy gã tài xế ngồi trên chiếc xe tải có mui, đỗ trước nhà, giật mình, như vừa choàng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Vẻ ngoài của hắn hết sức bình thường. Chỉ có hơi lạ là sáng nay, mặt trời tiết xuân đang rực rỡ ở trên cao thế kia mà gã vẫn cứ tùm hụp trong chiếc áo mưa rộng thùng thình, dường như sợ sẽ bị tiết trời chơi khăm cho một vố vậy. Gã háu háu đôi mắt nhìn Wandy, cho xe ra khỏi bãi đỗ và lao vút đi. Đoạn gã liếc mắt xem đồng hồ đeo tay. Gã quyết định chờ thêm ba phút nữa… Thứ Bảy, lệ thường, vốn là ngày nghỉ của hầu hết các viên chức trong chính phủ. ấy thế nhưng thứ Bảy hôm đó, nhiều viên chức của các công sở này nọ mặt mày lại hết sức ủ dột, vì công việc vẫn bù đầu bù óc. Một người trong số đó chính là viên nhóm trưởng nhóm điều tra đặc biệt Kevin Powell. Ông đã cùng các nhân viên dưới quyền đi dò hỏi 216 bác sĩ, y tá, thầy thuốc trẻ mới ra trường và nhân viên các cơ quan y tế, nghĩa là hơn một nửa tổng số các bác sĩ nội khoa và chuyên gia tai-mũi-họng hành nghề tại thủ đô Washington này. Đồng hồ đã chỉ 11 giờ. Toàn bộ những gì Powell có thể báo cáo lại với “ông già hiền hậu”, đang ngồi sau chiếc bàn gỗ hồng sắc, chỉ vẻn vẹn có thế này: không kết quả. Tuy nhiên, nét mặt ông “già” không hề thay đổi vì cái tin ngán ngẫm đó. - Chả sao đâu, anh bạn ơi. Cứ tiếp tục tìm nữa đi. Đây, lúc này tôi chỉ có thể nói với anh có vậy thôi. Cứ tiếp tục tìm. Nếu để gọi là an ủi, tôi sẽ nói với anh thế này, Kevin ạ: ta đang đi đúng hướng hơn bất kỳ ai khác. Ta với họ chỉ có mỗi một điểm khác nhau – họ đã dùng hết mọi khả năng của họ rồi, và bây giờ không còn biết làm gì khác hơn là ngồi đợi. Hơn nữa, lại thêm một sự kiện bất ngờ nữa xảy ra: Wazerby đã chết. Powell sửng sốt: - Hình như ngài có cho tôi biết là sức khoẻ của lão đã khá lên nhiều rồi kia mà. “Ông già hiền hậu” nhún vai, dang rộng hai tay: - Quả có thế thực. Thậm chí họ đã định hỏi cung lão ta đêm hôm qua hoặc sáng sớm nay. Nhưng vào lúc hơn một giờ khuya, nhóm điều tra kéo đến bệnh viện để lấy cung, thì lão đã chết thẳng cẳng. - Vì lẽ gì thế ạ? Giọng Powell đầy vẻ ngờ vực, thậm chí không chỉ đơn thuần có vậy. - Vì lẽ gì ư? Tên gác cửa thề sống thề chết là ngoài nhân viên bệnh viện ra, không hề thấy một ai khác vào phòng cả. Vì Wazerby đang điều trị tại cơ sở y tế riêng, đặt ngay tại Langley, nên tôi tin chắc là họ phải cho thi hành mọi biện pháp để đảm bảo an ninh cho lão. Căn cứ vào tình trạng lão bị choáng tại chỗ và bị mất máu nhiều, các bác sĩ cho rằng lão chết chắc chỉ vì vết thương, mặc dù trước đó, họ đã khẳng định lão có đầy đủ mọi cơ hội để sống sót. Người ta hiện đang cho điều tra để làm rõ lý do. - Kỳ lạ thật, kỳ lạ hết chỗ nói. - Đúng, kỳ lạ hết sức. Và chính vì thế nên lại càng khả nghi hơn. Nói chung, toàn bộ câu chuyện này thật bí ẩn. Suốt từ đầu chí cuối. Nhưng chuyện đó, ta đã nói với nhau hôm nọ rồi. Bây giờ, tôi sẽ giao thêm một nhiệm vụ nữa cho anh đây. Powell chồm người lên mặt bàn, lắng nghe. Lúc này, ông ta càng thấy người rã rời vì mệt nhọc. Người cao tuổi nói tiếp: - Như tôi đã nói với anh là cách điều tra của CIA, lẫn FBI, đều khiến tôi không hài lòng. Bây giờ, nói chung, họ đã lâm vào bế tắc. Nguyên nhân, theo tôi là họ đã tiếp cận vấn đề không đúng. Họ truy lùng Malcolm hệt như một thợ săn tìm mồi. Dù là những thợ săn lão luyện đi nữa, họ vẫn bỏ qua một số nhân tố. Tôi muốn nói là anh hãy đi tìm anh ta như kiểu chính anh là con mồi ấy. Anh đã đọc toàn bộ hồ sơ về anh ta, mà chúng ta đã thu thập được trong tay. Anh đã đến tận nhà của anh ta để quan sát. Bây giờ, anh phải “cảm nhận” anh ta như một con người, như một nhân cách, mới được. Anh hãy tự đặt mình vào địa vị anh ta, rồi xem việc đó sẽ dẫn tới đâu. Có thế mới hy vọng thành công. Tôi nêu cho anh một vài gợi ý bổ ích đây. Ta thừa biết là anh ta nhất định phải dùng một phương tiện di chuyển nào đó mới đến được cái nơi anh ta hiện đang ẩn náu, đúng không nào? Không cần thông thái gì lắm, anh cũng phải đồng ý với tôi rằng đi bộ nhởn nhơ ngoài đường cố nhiên là dễ bị để ý và dễ lộ hơn gấp bội. Bên FBI thì họ tin chắc rằng gần như một trăm phần trăm là anh ta không dùng tắc-xi. Tôi không thấy có lý do gì để hoài nghi lập luận hoặc cách hành động của họ. Đã thế, vị tất anh đã dám trèo lên xe buýt, nhất là khi bên nách lại kè kè một bọc quần áo cùng hành trang, vừa mới tậu được ở cửa hàng bán quân trang. Đã bao giờ anh gặp trên xe buýt một người bị truy lùng như thế chưa?... - Bởi vậy, nhiệm vụ của anh tựu trung là như thế này: chọn lấy một vài cậu, dễ tâm đầu ý hợp và thật chịu khó, rồi bắt đầu truy lùng từ nơi người ta đã gặp Malcolm lần chót. Rồi anh cứ tưởng tượng là mình đang chạy trốn, hệt như chính anh ta đang làm. Trước khi từ biệt, Powell ngước nhìn gương mặt tươi cười của người cao tuổi và nói khẽ: - Còn một chi tiết kỳ lại nữa trong toàn bộ câu chuyện này, thưa ngài. Đó là Malcolm chưa bao giờ được đào tạo để làm một điệp viên hoạt động bí mật. Anh ta chỉ là một nhân viên nghiên cứu và phân tích đơn thuần. Thế mà, ngài xem, anh ta hành động tuyệt vời biết bao! - Đúng, kỳ lạ thật, - người cao tuổi đáp, rồi mỉm cười, nói thêm: - Anh thế nào không biết, chứ riêng tôi, tôi ao ước được gặp mặt Thần Ưng của chúng ta quá đi mất! Cố tìm anh ta đi, Kevin ơi, tìm chóng lên, cho tôi được nhờ với… … Malcolm thấy thèm một tách cà phê không sao chịu được. Cà phê nóng sẽ sưởi ấm cho cái cổ họng đang đau và giúp đầu óc thêm tỉnh táo. Nghĩ thế, anh lần xuống bếp. Nhưng chỉ mới kịp đặt ấm pha cà phê lên bếp, anh đã nghe thấy tiếng chuông réo trước cửa. Anh dừng phắt lại. Khẩu súng ngắn đang còn nằm trên mặt chiếc bàn con, kê cạnh đầu giường. Anh rón rén nhón gót lần ra cửa. Một hồi chuông nữa lại réo vang. Malcolm thở phào nhẹ nhỏm, khi anh nhìn thấy qua chiếc kính lúp, lắp trên cửa, một người đưa thư khoác áo mưa, vai đeo cái túi thư nặng trịch, trên tay cầm một gói bưu kiện nhỏ, vẻ mặt uể oải, như ngái ngủ. “Bực thật, - anh nghĩ bụng, - nếu không mở cửa lúc này, lát nữa ông lại đến quấy Wandy, vì cái gói giấy cầm trên tay kia”. Anh ngắm mình: chỉ mặc độc một cái quần thể thao với chiếc may ô cộc tay. “Thây kệ, - anh quyết định, - ông đưa thư, chứ phải ai đâu, mà sợ mất thể diện”. Thế là anh mở cửa. - Chào ngài, hôm nay ngài thấy trong người đã dễ chịu hơn rồi chứ ạ? Lời hỏi thăm của người đưa thư chân tình đến mức khiến Malcolm chỉ còn cách mỉm cười để đáp lễ và cất giọng khàn khàn: - Tôi chỉ cảm qua quít thôi ấy mà. Có thể giúp bác gì đây? - Có gói bưu kiện gửi cho cô… - người đưa thư chợt ấp úng và tỏ ra bối rối, cười với Malcolm như thể xin lỗi, - à, cho cô Wandy Ross ạ. Đây là loại bưu kiện phát riêng, phải mang tận nhà, để người nhận ký vào biên nhận mà. - Cô ấy đi vắng mất rồi. Lát nữa bác ghé lại, được không? Người đưa thư gãi gáy, vẻ phân vân. - Dĩ nhiên là được ạ. Nhưng giá ngài ký giúp một chữ, thì đỡ lích kích cho tôi hơn. Của đáng tội, ông sếp của tôi ở nhà được cái không câu nệ. Ai ký cũng gật, miễn có chữ ký trên biên nhận. - Được, thế tôi ký cho, - Malcolm nói. – Bác có bút đấy chứ? Người đưa thư vỗ hết túi trên lại túi dưới, nhưng chẳng tìm ra bút. - Thế thì bác vào trong này, chờ một lát, - Malcolm mời. – Tôi đi lấy bút đã. Người đưa thư cảm ơn, rồi bước vào phòng, với tay khép ngay cửa lại. - Ngài giúp tôi nhiều thế này, thật là quý hoá, - người đưa thư nói một câu nhiều ngụ ý. Malcolm nhún vai. - Có gì đâu. Chuyện vặt ấy, nào đáng gì. – Rồi anh quay lại bước xuống bếp, tìm bút. Lúc đã đi khuất, tâm trí anh bất giác sinh nghi, khi thấy người đưa thư đặt gói bưu kiện xuống, mở cái túi đựng thư ra. Người đưa thư rất lấy làm mừng rỡ vì tình thế đã xoay chuyển theo hướng thế này. Lão chỉ nhận được lệnh dò xét xem Malcolm có thật đang nương náu trong căn nhà này không, và bí mật theo dõi căn phòng. Lão chỉ được phép ra tay, khi đã nắm chắc phần thắng. Lão thừa biết là nếu thanh toán được Malcolm thật gọn nhẹ, thì nhất định lão sẽ hưởng công hậu hĩnh. Với con bé nọ, lão sẽ tính sau… Nghĩ thế, lão rút khẩu tiểu liên có lắp bộ phận giảm thanh trong chiếc túi đựng thư ra… Malcolm vừa vòng qua góc nhà để xuống bếp, thì một tiếng “rắc” khẽ vang lên – lão “đưa thư” lắp băng đạn vào súng. Anh không tìm thấy bút, nên chỉ mang cái ấm cà phê và chiếc tách không lên nhà, định bụng sẽ mời bác “đưa thư” dễ mến một tách cà phê nóng và chắc chắn “bác ta” sẽ rất vui lòng ra về, để lát nữa quay lại. Lần này, chàng trai sở dĩ thoát chết chẳng qua chỉ vì vừa mới vòng qua góc nhà, để vào phòng, thì anh bỗng thấy lù lù cái họng súng tiểu liên đen ngòm chĩa thẳng vào ngực, và không hề ngẫm nghĩ lấy một giây chuyện gì sẽ xảy ra sau đó anh vừa đi vừa ném mạnh cái ấm pha cà phê đang sôi cùng chiếc tách trên tay vào lão “đưa thư”. Lão “đưa thư” không nghe thấy tiếng bước chân của Malcolm từ dưới bếp đi vào. Vì thế, phản ứng đầu tiên của lão, khi nom thấy những đồ vật đó bay thẳng về phía mình là vội vã giơ cao tay lên, đưa khẩu súng ra che đầu. Cái ấm cà phê rơi xuống báng súng, bật nắp ra, và toàn bộ chỗ cà phê nóng trong đó xối xả trút thẳng lên tay, lên mặt lão. Lão hét lên một tiếng như phải bỏng, vất vội khẩu súng đi, tránh sang một bên. Khẩu tiểu liên lăn long lóc trên sàn nhà một quãng khá xa, rồi chui tọt vào dưới gầm chiếc bàn con mà Wandy đặt chiếc máy quay đĩa và bộ loa stereo. Malcolm tuyệt vọng lao tới, định nhặt khẩu súng nhưng bị gã “đưa thư” ngáng chân, nên ngã dụi. Nhưng nhờ kịp chống hai tay, nên anh nhỏm ngay dậy: Gã “đưa thư” tung người, bay ngang qua Malcolm. Giá cú đá của gã trúng đích, thì chắc chắn chàng trai đã vỡ sọ! Tuy suốt sáu tháng nay không ghé đến các bãi tập lần nào, nhưng lão “đưa thư” vẫn khéo léo thu gọn người trên không và hạ hai chân xuống sàn nhà đẹp. Ác thay, chiếc thảm trải hành lang của bà ngoại Wandy tặng cô dạo sinh nhật, lại rất trơn. Bởi thế, lúc gượng đứng lên thì hắn mất thăng bằng, loạng choạng suýt ngã. Dẫu sao hắn vẫn đứng dậy nhanh hơn Malcolm. Lúc này, hai địch thủ đã đứng đối diện nhau, mắt gườm gườm như muốn ăn tươi nuốt sống nhau ngay. Malcolm chỉ cần bước thêm ba mét nữa là có thể đến được bên khẩu tiểu liên, đang nằm chơ chỏng dưới gầm bàn ở bên tay phải anh. Rất có thể là anh sẽ lấy được khẩu súng trước gã. Nhưng anh tin chắc mười mươi rằng lúc anh lấy khẩu súng, hắn đã kịp cho anh một cú đá nữa vào lưng. Ngoài ra, anh cũng ở gần bên cửa ra vào hơn. Có điều cửa lại khoá trái mất rồi. Anh hiểu ngay là mình lại phải phí mất đi mấy giây quý giá để mở cửa. Thế thì nguy mất! Lão “đưa thư” lặng thinh nhìn Malcolm. Toét miệng cười. Gã di di mũi giày trên mặt sàn, như muốn thử xem có tin cậy được cái của nợ ấy không. “Trơn quá”, - hắn nghĩ bụng. Bằng một động tác nhanh nhẹn và khéo léo lạ thường, hắn tuột giày ra khỏi chân, để chỉ còn đi bít-tất không. Tiếp đó, gã bỏ luôn cả tất. Bây giờ, đôi chân trần của gã đứng vững trên mặt sàn đánh xi bóng nhẫy. Malcolm nhìn địch thủ đang mỉm cười. Anh bắt đầu hiểu sự thất bại không thể nào tránh khỏi của chính mình. Và như thế chỉ còn có nước chờ chết. Dĩ nhiên, anh không thể biết địch thủ là một võ sĩ “đai nâu”, đã từng đoạt khá nhiều giải trong các cuộc thi tài về võ karate trước đây. Nhưng anh hiểu rõ rằng mình chẳng có cơ hội nào để thắng cuộc trong lần đọ sức này. Những tri thức thực tiễn của anh về các thủ thuật võ tay không là một con số không tròn trĩnh. Trước đây, anh đã đọc được hàng trăm đoạn miêu tả những cuộc ẩu đả, tỉ thí và thi tài bằng tay không trong các tập truyện trinh thám. Chuyện đó, anh cũng đã được xem trên màn ảnh nữa. Nhưng đánh đấm, thì cả đời, anh mới chỉ dự trận có hai lần. Hơn nữa, lại từ hồi còn bé. Trong hai lần ấy, anh chỉ thắng có mỗi một bận. Hồi còn học ở trường cao đẳng, anh từng được nghe người giáo viên thể dục lên lớp cho suốt ba tiếng đồng hồ về những thủ thuật khôn ngoan của karate, mà ông học được hồi còn tòng ngũ trong thuỷ quân lục chiến. Giữa lúc nguy cấp này, Malcolm đã cố huy động trí nhớ, bắt chước những gì thầy giáo đã làm trước đây: hai chân hơi khuỵ…, hai bàn tay nắm lại…, tay trái che trước ngực, nắm tay hướng lên trên…, tay phải xuôi theo thân người, nắm tay để ngang thắt lưng… Gã “đưa thư” nhích dần về phía trước, rút ngắn cái khoảng cách bốn thước rưỡi giữa hắn và nạn nhân. Đến lượt mình, Malcolm bắt đầu lùi theo đường vòng cung, để nhích dần sang phải. Anh tự lấy làm lạ: sao địch thủ lại dây dưa thế này? Khi khoảng cách giữa họ chỉ còn đúng hai thước, gã “đưa thư” bắt đầu tấn công. Hắn thét to lên một tiếng, nhứ cánh tay trái sang phải, làm ra vẻ như định tát trái cho Malcolm một cái. Quả nhiên, Malcolm vội vàng né sang trái. Đúng như hắn mong đợi. Thế là hắn thu nhanh tay trái về, đồng thời rụt vai trái lại và lấy gót chân trái làm trụ, xoay hẳn người về bên phải. Xoay được đúng một vòng, chân phải hắn đột ngột “búng” mạnh về phía trước, nhằm thẳng vào đầu Malcolm. Nhưng suốt sáu tháng ròng không tập tành gì là một thời gian quá dài để có thể trông đợi vào những kết quả khả quan, ngay cả khi phải đương đầu với một đối thủ nghiệp dư rất lơ mơ về võ nghệ. Cú đá đã không trúng đích – không đúng vào đầu Malcolm, mà chệch vai, và hất bật chàng trai về phía vách tường. Lúc bị dội ra, Malcolm đã hơi chúi người tới trước. Nhờ thế, anh thoát được cú đấm thôi sơn của cánh tay bên phải của gã “đưa thư”. Gã võ sĩ “đai nâu” cáu tiết lắm. Đây là lần thứ hai hắn đánh trượt. Địch thủ của hắn, tuy có bị mấy cú đá nên thân, nhưng chưa phải đã là những miếng đòn sấm sét chết người. Hắn tự nhủ thầm: phải gấp gấp luyện tập trở lại, chờ đến ngày gặp một đối thủ xứng đáng hơn, biết rõ là phải làm gì và làm ra sao trong lúc tỷ thí. Một thầy dạy võ có kinh nghiệm bao giờ cũng lưu ý với bạn rằng: trong môn karate, ngón đòn tâm lý vốn chiếm đến ba phần tư kết quả của cuộc đấu. Hiểu rõ mười mươi chuyện đó, gã “đưa thư” liền cố tập trung toàn bộ ý chí về việc nhanh chóng thanh toán đối thủ. Toàn bộ tâm trí hắn đều dồn hết cho việc giải quyết nhiệm vụ này, đến nỗi hắn không nghe tiếng Wandy mở cửa bước vào – cô cố làm thật khẽ, để Malcolm khỏi thức giấc. Cô gái quay về bất thần, vì bỏ quên mất tập ngân phiếu ở nhà. Wandy có cảm giác như mình đang nằm mơ. Chứ trong đời thực làm gì có cảnh này: ngay giữa phòng cô, hai người đàn ông đang đứng đối diện nhau trong một tư thế khó lòng hình dung nổi. Một trong hai người là Malcolm của cô, tay trái đang gồng lên, sẵn sàng hàng động. Còn người kia là một kẻ lạ mặt, cô chưa từng gặp bao giờ, đang quay lưng về phía cô. Rồi bất thần cô bỗng nghe kẻ lạ mặt nói khẽ, giọng đầy vẻ doạ dẫm: “Thôi, đủ rồi đấy, mày đã gây nên không biết bao nhiêu trò rắc rối, khó chịu!...”. Khi hắn ta từ từ nhích từng bước ngắn về phía Malcolm, cô gái rón rén chạy ngay xuống bếp, xách lên một con dao phay rõ dài, treo trên một hàng đinh, móc la liệt những dụng cụ làm bếp sáng loáng ánh thép khác. Rồi cô quay ngay lên nhà, thận trọng tiến lại chỗ người lạ mặt đang đứng, từ phía sau tới… Gã “đưa thư” nhận ra ngay tiếng gót giày nện rất khẽ trên sàn gỗ. Hắn lẹ làng làm một động tác giả, doạ Malcolm, rồi đường đột quay về phía địch thủ mới. Nhưng khi nhìn thấy đó chỉ là một cô gái mặt mày tái xanh tái xám vì sợ hãi, vụng về cầm một con dao thái thịt bên tay phải, thì nỗi lo lắng vừa mới xâm chiếm tâm trí hắn một giây trước đấy, đã lập tức tiêu tan. Hắn vừa tiến nhanh về phía cô gái, vừa khéo léo làm mấy động tác giả sơ đẳng trong karate. Cô nữ địch thủ tức thì lùi lại, người run bắn lên vì sợ hãi và căng thẳng. Hắn chỉ để cô gái lùi đến bên mép chiếc đi văng, thì lập tức xông tới. Cánh tay trái của hắn “búng” nhanh ra trước theo hình vòng cung. Con dao phay tức thì văng ra khỏi bàn tay đờ đẫn của Wandy, khi hắn chém nhanh cạnh bàn tay của mình vào cánh tay cô gái. Tiếp theo, hắn tát trái một cái thật mạnh, đến nỗi gò má bên phải cô gái tức thì đỏ tía lên. Choáng vàng vì cú đòn bất ngờ, Wandy ngã dụi xuống đi văng gần như ngất lịm đi tức khắc. Nhưng gã “đưa thư” đã quên mất điều răn thứ nhất của môn karate, mà bất kỳ võ sĩ nào cũng phải tuân thủ khi đương đầu với nhiều địch thủ cùng một lúc: hễ bị hai hoặc nhiều người tấn cong, bạn phải di chuyển; đồng thời, lần lượt nhanh chóng đánh trả từng đối thủ một. Nếu giữa lúc tỷ thí mà bạn quên không để ý đến dù chỉ một địch thủ thôi thì dẫu có làm vô hiệu những đối thủ còn lại, bạn vẫn có nguy cơ chuốc lấy thất bại. Sau miếng võ quật ngã được Wandy rồi, đáng lẽ gã “đưa thư” phải lập tức quay lại với Malcolm ngay, tấn công anh tiếp. Nhưng hắn đã không làm thế, mà vẫn muốn trừ khử hẳn đối thủ dễ xơi này. Lúc Wandy bị hắn ta quật ngã, Malcolm có đủ thì giờ để nhặt khẩu tiểu liên lên. Anh chỉ bắn bằng tay trái. Tuy vậy, anh vẫn chỉa súng vào gã “đưa thư”, ngắm cẩn thận, đúng lúc hắn giơ cao tay trái lên, chuẩn bị giáng cho cô bạn một cú đấm chết người vào mạng mỡ. - Dẹp cái trò hung hăng ấy đi! – Malcolm thét to. Gã “đưa thư” quay ngoắt về phía đối thủ chính. Đúng lúc ấy anh bóp cò. Khẩu tiểu liên giảm thanh chỉ im tiếng khi ngực gã đưa thư đầm đìa máu đỏ, từ cả một đám vết đạn lỗ chỗ trào ra. Loạt đạn đã hất cái xác của hắn ra đi-văng và ném thẳng xuống sàn nhà đánh “bịch” một cái. Malcolm cầm lấy hai tay Wandy kéo mạnh, mắt phải cô gái sưng húp. Một dòng máu đỏ vẫn rỉ ra từ một vệt xước nhỏ trên má. Cô gái vừa nức nở không thành tiếng, vừa nhắc đi nhắc lại luôn mồm mấy tiếng vô nghĩa: - Ôi, trời ơi! Ôi, trời ơi!... Malcolm phải mất gần năm phút mới trấn tỉnh được cô bạn. Rồi anh mở hẳn cửa chớp ra, thận trọng nhìn xuống đường. Tất cả đều im ắng, không một bóng người. Trên chiếc xe tải có mui, đỗ ở bên kia đường, hình như vẫn chẳng có ai. Malcolm trao lại cho cô bạn khẩu tiểu liên, rồi lên gác. Anh dặn cô hãy bắn nát sọ bất cứ ai định xông vào phòng. Anh hối hả mặc áo quần, nhét hết tiền bạc, quần áo và tất cả những gì Wandy đã mua cho mình vào một chiếc vali để không của cô bạn. Lúc anh xuống nhà, thì cơn choáng của cô đã qua hẳn. Anh bảo cô lên gác thu xếp đồ đạc ngay. Trong khi chờ cô bạn, anh lục soát cái xác chết trên sàn nhưng chẳng thấy gì. Mười phút sau, Wandy đã trở lại, với chiếc vali trong tay, mặt đã rửa ráy sạch sẽ. Malcolm hít một hơi thật dài, rồi mở cửa. Anh khoác chiếc vét-tông trên cánh tay đang cầm khẩu súng ngắn. Anh không thể bắt mình xách theo khẩu tiểu liên, vì đoán biết bọn kia đã dùng nó vào việc gì. Chẳng ai nổ súng vào anh… Anh tiến lại bên chiếc xe tải. Vẫn không thấy ai bắn, và bốn phía không hề có một bóng người… Anh gật đầu ra hiệu cho Wandy. Cô nhanh chóng chạy đến bên anh, hai tay xách hai chiếc vali khá nặng. Họ lên xe và anh thận trọng cho xe rời chỗ đó… … Powell mệt lả người. Ông đã cùng hai thám tử Washington lùng sục không thiếu một đường ngang ngõ tắt nào trong khu vực mà người ta nhìn thấy Malcolm lần chót. Họ cũng đã ghé vào từng nhà để dò hỏi. Ngán ngẫm, Powell tựa lưng vào một cột đèn, nghỉ lấy hơi, cố vắt óc tìm một ý mới, một cách điều tra mới, thì chợt nhìn thấy một thám tử đi cùng hớt hơ hớt hải chạy lại. Viên thám tử ấy là Andrew Walsh, làm việc ở ban bài trừ tệ trộm cướp. Vừa đến nơi, anh ta đã phải vịn vào tay Powell, để giữ thăng bằng. - Tôi nghĩ là tôi đã tìm được một đầu mối, ngài Powell ạ. – Walsh nói một hơi, rồi ngừng lời để thở. – Ngài ra lệnh đi dò hỏi xem có ai đó đã hỏi han gì về vấn đề ta đang bận tâm không. Thế là tôi tìm được một ông giữ xe, ở một bãi giữ xe hơi gần đây. Ông ta cho hay là có một viên cảnh sát đã gặn hỏi ông ta đủ điều hệt như là muốn lập hồ sơ về chuyện đó. - Lại trò quỷ quái gì thế nữa? – Powell cảm thấy mệt mỏi đến mức chẳng buồn gỡ tay ra. - Ông ta nhận diện được Malcolm trên bức vẽ, mà viên cảnh sát nọ chìa ra. Hơn nữa, ông ta còn cho biết đã thấy Malcolm lên xe hơi của một cô gái. Tên và địa chỉ cô ấy đây, thưa ngài. - Chuyện này xảy ra lâu mau rồi? – Powell cảm thấy như sắp bị ốm nặng. - Hôm qua, chiều hôm qua. - Nào, thế thì nhanh chân lên! – Powell lao ngay lại chỗ chiếc xe ông đang đậu. Mặt đầm đìa mồ hôi, viên thám tử vừa thở hổn hển, vừa hối hả theo sau. Họ mới qua được ba khúc phố, thì chiếc máy điện đàm trên xe chợt réo vàng. Powell nhấc máy lên: - Tôi đây, Powell đây. - Thưa ngài, nhóm kia vừa mới thông báo là đã tìm được bác sĩ, tên là Robert Knudsen, nhận diện được Thần Ưng. Ông ta tuyên bố: hôm qua, có đến chữa cho Thần Ưng đang bị viêm họng, tại nhà một cô gái, tên là Wandy Ross. Tôi đánh vần từng chữ đây ạ: E-rơ-ô-es-es… Powell ngắc lời người đang nói: - Chúng tôi đang trên đường đến căn nhà ấy đây. Tôi yêu cầu tất cả các nhóm hãy tiếp cận ngay căn nhà. Nhưng đừng đến gần quá, trước lúc tôi có mặt tại đó. Hãy chỉ thị cho họ phải khẩn trương lên, nhưng chú ý phải tuyệt đối giữ im lặng và hết sức khẩn trương. Bây giờ, chuyển máy cho tôi nói chuyện với sếp đi. Mãi một phút sau, Powell mới nghe thấy giọng nói quen thuộc của sếp khẽ vang lên trong máy. - Kevin đấy à? Có chuyện gì vậy? - Chúng tôi đang trên đường tiến đến căn nhà Malcolm nương náu đây ạ. Cả hai nhóm – cả chúng tôi lẫn nhóm kia nữa – đã cùng một lúc phát hiện được căn nhà ấy. Mọi chi tiết, tôi sẽ trình bày tỉ mỉ sau. Tôi chỉ lo một điều: đã có ai đó dùng giấy tờ cảnh sát, để dò tìm Malcolm, mà không trình báo kết quả phát hiện của anh ta, đúng theo điều lệnh quy định. Người có tuổi, mãi một lúc sau, mới lên tiếng: - Điều đó có nhiều ý nghĩa lắm đấy, anh bạn ạ. Nhiều lắm. Nhớ là phải thật thận trọng nhé. Hy vọng là anh sẽ đến được kịp thời. Sếp ngừng liên lạc, Powell gác máy. Ông cố tìm mọi cách để làm quen với ý nghĩ: chắc chắn là mình đã chậm chân mất rồi. Mười phút sau, Powell và ba thám tử nữa bấm chuông nhà Wandy. Họ chờ gần một phút mà vẫn không thấy tiếng trả lời. Người to béo nhất trong bọn liền đạp mạnh cửa. Năm phút sau, Powell đã báo lên cho sếp những gì vừa phát hiện được trong phòng: - Kẻ lạ mặt, chúng tôi không nhận diện được. Ăn mặc theo kiểu nhân viên đưa thư. Nhưng rõ ràng là hắn giả danh. Trên sàn, vẫn còn nằm khẩu tiểu liên giảm thanh. Chắc bọn chúng đã dùng nó hôm tiến công “Hội Văn-Sử”. Xem xét hiện trường, có thể giả định là hắn và ai đó, - có lẽ là Malcolm thôi, đã quần nhau tay không. Malcolm đã nhanh tay hơn, chộp được khẩu súng. Tôi đoán chắc khẩu súng là của tên kia, vì trong chiếc túi đựng “thư” có may hẳn một ngăn riêng, để cất cái của nợ đó. Theo tôi hình dung thì số Malcolm vẫn đỏ. Chúng tôi cũng tìm được cả ảnh cô chủ nhà. Ngoài ra, cũng phát hiện được cả số xe hơi của cô ta. Ngài có chỉ thị gì không ạ? - Thông báo qua cảnh sát toàn bộ kết quả cuộc điều tra tại hiện trường, cứ cho là một vụ… án mạng bình thường cũng được. Tin đó sẽ phần nào giảm nhẹ bớt nỗi lo lắng của “anh” nào đó đang chăm chú theo dõi những hoạt động của cánh ta và sử dụng những tài liệu chính thức của ta. Bây giờ, tôi chỉ muốn biết kẻ lạ mặt bị giết kia là ai, và muốn biết thật sớm. Anh hãy gởi ảnh và dấu tay của hắn cho tất cả các cơ quan điều tra, yêu cầu họ tìm hiểu gốc gác hắn và thông báo ngay cho ta kết quả. Nhớ đừng để lộ một tin nào khác, ngoài những gì phát hiện được tại hiện trường. Còn các nhóm của anh, thì anh hãy tung ngay họ đi mọi nơi, để tìm Malcolm và cô bạn anh ta. Trước mắt, chắc ta phải chờ kết quả thẩm xét về lại lịch gã “đưa thư” kia thôi. Khi Powell và các cộng sự của ông rời văn phòng Wandy, ra ô tô, thì một chiếc Sedan thẫm màu từ từ chạy ngang qua mặt họ. Ngồi sau tay lái là một gã cao lênh khênh và gầy quắt queo. Bên cạnh hắn là người có vẻ ngoài rất dễ gây ấn tượng, giấu cặp mắt tinh tường sau chiếc kính râm to tướng. Hắn ra hiệu cho gã lái xe chạy tiếp, đừng dừng lại khi thấy nhóm Powell đi qua. Không một ai để ý đến hai người ngồi trên xe, kể cả Kevin Powell từng trải… … Malcolm loanh quanh một hồi trong khu Alexandrie, cho đến lúc gặp một cửa hiệu bán xe hơi cũ, có một bãi đỗ lộ thiên. Anh dừng lại cách đó hai quãng phố, rồi bảo Wandy đi tậu một chiếc ô tô khác. Mười phút sau, Wandy đã lái từ bãi đỗ lộ thiên về một chiếc Dodge đã dùng rồi nhưng còn tốt, sau khi đoan chắc với ông chủ tiệm họ tên mình đích thực là cô Agerton, để ông ta ghi vào phiếu bán xe, và trả thêm cho cửa hiệu một trăm đô-la tiền mặt. Malcolm cho xe bám sát theo sau xe cô bạn. Họ đến một công viên vắng vẻ. Hai người cặm cụi đổi số xe cho nhau. Xong xuôi, họ chất hết hành trang lên chiếc Dodge mới tậu, rồi ung dung lên đường. Malcolm ngồi sau tay lái suốt năm tiếng liền. Dọc đường, Wandy không hề thốt ra lấy một lời. Rồi họ dừng xe lại trước Ô-ten Parisburg ở bang Virginia. Malcolm khai tên họ là ông bà Evans, để thuê một phòng trọ. Anh cho xe đỗ khuất sau lưng Ô-ten “để chiếc Dodge khỏi bắt bụi của xe cộ nườm nượp chạy qua đây” như lời anh cắt nghĩa. Nghe ông khách trẻ nói vậy, bà chủ Ô-ten, một mệnh phụ đã già, chỉ nhún vai, rồi quay ngay lại với chiếc máy thu hình của bà. Trước đây, bà đã từng gặp không ít khách thuê phòng căn cơ chẳng kém. Wandy ngả lưng ngay trên giường, nằm im, không hề nhúc nhích. Malcolm từ tốn thay áo quần. Anh uống thuốc, lấy chiếc mắt kính cận ra, rồi ngồi xuống bên cô bạn. - Sao em không thay quần áo đi, rồi ngủ một lát, Wandy? Cô gái quay đầu lại, từ từ ngước cặp mắt đờ đẫn nhìn Malcolm: - Tất cả những chuyện ấy phải chăng là chuyện thực? – cô gái nói khẽ, giọng không còn một mảy may cảm xúc. – Tất cả những chuyện ấy quả thực đã xảy ra ư? …. Và anh đã giết hắn ta?... Anh đã giết người đó ngay tại phòng em?... - Vấn đề rất giản dị - hoặc là hắn, hoặc là chúng mình. Chuyện đó em thừa biết. Vả lại, chính em cũng đã vác dao xông vào đấy thôi. Wandy quay mặt đi. - Vâng em biết. Wandy ngồi dậy, chậm rãi thay áo quần. Rồi cô tắt đèn, lên giường nằm. Lần này, cô không ôm ghì lấy chàng trai, mà cuộn tròn người lại bên mép giường. Một tiếng sau, Malcolm thiếp đi. Nhưng cô bạn vẫn không sao nhắm mắt được…