Chương IV (tt)

3. MAI ĐÌNH NỮ SĨ
Khác với những mối tình âm thầm kín đáo, hoặc dè dặt của Hoàng Hoa, của Mộng Cầm, chị Mai Đình là người yêu thơ cũng như yêu con người phong cùi đó, một cách ồn ào, sôi nổi và tha thiết nhất.
Thơ của chị cảm ứng với hàn Mặc Tử rất nhiều.
Chị Mai Đình làm thơ rất có khiếu và dễ dàng, ý thơ tình nghĩa, súc tích gắn bó với thơ Hàn Mặc Tử gần năm mươi năm nay. Tôi nói gắn bó với thơ anh Trí, vì hiện nay chị đã có gia đình.
Từ thời tiền chiến, và suốt thời kỳ kháng chiến, thơ chị được truyền khẩu hoặc trao tay người này qua người khác, mà toàn là các bạn làng văn.
Có lẽ chị chất phác dễ thân mật. Bất cứ chỗ nào có vài người họp lại để nói về thơ anh Trí là có chị tham gia. Cho nên có rất nhiều bài thơ nghe nói là của chị sáng tác, vẫn còn chờ đợi được minh xác chưa ai dám tự tiện phổ biến.
Tôi cũng có dịp đọc được, thơ hay, tình nghĩa và tự nhiên.
Nhà văn Trần Thanh Mại từng viết về chị trong cuốn Hàn Mạc Tử rằng: “Về người đàn bà này (Mai Đình) ta có thể nói nhiều hơn, kể rõ ràng hơn, mà không ngần ngại phải chạm đến danh giá của một kẻ nào, đến cái mà họ trương lên làm danh giá.
Một người đàn bà không cần dư luận, một người trong hạng người thành thật nhất xã hội. Họ đáng nhịp vào chế độ lễ nghi, mọi thứ do người bày đặt ra để che lấp cái giả dối của người.”
Lời phê bình trên đây thật rộng rãi đủ để không cần phải dè dặt, lịch sự nữa.
Những năm 1938-1939, tôi nghe nói chị đến thăm anh Trí tại nhà, lúc bấy giờ đã dọn về đường Odend’hall vì anh bắt đầu đau nặng, mà mẹ tôi không muốn cho ai biết. Việc chị Mai Đình đến thăm anh Trí như một tin sốt dẻo được loan đi rất nhanh trong những người bạn thân. Vì thế đã làm ồn ào lên một dạo mà mẹ tôi lo sợ tai tiếng cho chị.
Thế nhưng sự dè dặt đó không cần thiết gì đối với chị. Chị Như Lễ nói với tôi: “Chị Mai Đình do ông Tấn giới thiệu cho anh Trí kết bạn thơ.”
Theo chỗ tôi biết qua bạn bè anh Trí, thì chị Mai Đình đã ham mê thơ anh từ lâu, nhưng không ai giới thiệu. Đến khi gặp anh thì lại yêu luôn anh, mặc dầu thấy tận mắt anh đang bệnh.
Thật sự thì bệnh anh cũng không có vẻ gì đáng sợ, nếu nhìn về bên ngoài.
Năm 1939, anh đau nặng nhất, thì cũng chỉ là dấu hiệu khô chết lớp da bên ngoài. Tay anh cầm muỗng ăn hay viết lách, chỉ khó khăn khi kéo mấy ngón tay co lại. Bàn tay như mang một chiếc găng da khô cứng. Da dẻ đen sạm đi không lở lói gì.
Với chị Mai Đình, thì hình như chị cũng không thấy “cái bên ngoài “ đó nữa, mà chỉ cần nghe anh ngâm thơ, chỉ cần ở gần bên anh.
Nhiều người bạn, nói theo thời bấy giờ là chị Mai Đình bị tiếng sét ái tình đánh gục (Coup de foudre). Người đàn bà đã từng phen lưu lạc phong trần mà thơ viết lên nghe như cô gái mới được yêu.
Nghe nói chị vẫn dạy nữ công cho nhiều trường ở Saigon, nhưng thỉnh thoảng lại động lòng bốn phương, tìm bạn bè ngâm thơ vịnh nguyệt. Mai Đình viết cho Hàn Mặc Tử lá thơ nũng nịu đủ thứ khiến anh Trí buồn cười đem xếp lại thành bài thơ dưới đây…
… Thôi em chán quá, em buồn quá
Anh của em giờ cười với ai
Với những gì đâu tức tối lạ
Em hồ nghi mãi giận không thôi…
Nhưng xa xôi quá biết làm sao
Lấy Trí tương tư đo được nào
Em mới vùng vằng em thở dốc
Tình thương trong dạ cứ xôn xao.
Năm 1939, tôi về thăm nhà, nghe chị có ghé lại ở chơi mấy ngày.
Trong nhà, hình như ai cũng yêu mến chị, vì chị đơn sơ thành thật, không nề hà khách sáo, có lẽ cuộc đời “phiếm thủy đào hoa” của chị nhiều trôi nổi quá, nên sống cách nào cũng được, không thấy khó khăn gì, nên ai cũng thương.
Anh Trí cho tôi xem bài thơ tặng chị mà lời lẽ trong thơ có vẻ chán chường. Tôi trách anh đã xem nhẹ tình chị. Những câu như: “Đây Mai Đình, tiên nữ của vu sơn” đã làm cho người đọc chữ vu sơn khó chịu rồi lại còn”
“Nàng là mật của muôn tuần trăng mật”
(Thì thật là chán chường quá).
Toàn bài thơ không xứng đáng tặng chị, một người đang sống với mối tình cao đẹp nhất chưa bao giờ được sống như thế.
Anh Trí hối hận, chắc là anh nghe dư luận về chị không còn gì đáng ca tụng nữa.
Bài thơ ý không tao nhã lắm:
Đây Mai Đình, tiên nữ của vu sơn
Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt
Nàng, ôm Nàng hai tay ta ghì chặt
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay
Ta là người uống muôn hận sầu cay
Nàng là mật của muôn tuần trăng mật
…….
May thay, tình yêu làm chị mù quáng, nên không nhận thấy. Hoặc như Trần Thanh Mại viết:
“Người đàn bà đó không có gì tự ái cả.”
Về sau anh Trí viết lại bài Đánh lừa
Tôi thương em không cần phải so đo
Vì trinh tiết há hằng hương vạn đại
…….
Son phấn cũ thơm bằng son phấn mới.
Tuy nhiên tôi áy náy tội nghiệp cho chị, nên có làm lại bài thơ đánh loãng bớt nghiệp chướng của chị (không biết ở nhà có trao lại chị không).
Mai Đình tiên nữ chốn vu sơn
Vướng nghiệp văn chương trở xuống trần
Oan trái tào khang vừa tháo gỡ
Nợ nần xướng họa lại đa mang
Giang hồ ánh bướm không lo mỏi
Mưa gió đời hoa chẳng ngại tàn
Còn chút duyên thừa dâng trọn thuở
Cho tình sống mãi với thi văn.
Khoảng cuối năm 1941, tôi ở Lào về nhiệm sở cũ ở Đà Lạt ghé lại Qui Nhơn thăm nhà.
Vừa bước xuống xe, một người đàn bà còn trẻ, nước da ngâm đen, mau mắn bước ra chào: “Kìa! Chú Tín về đấy à! Được điện tín hôm qua cả nhà trông chú lắm.” Tôi ngỡ ngàng một giây, nhưng đoán được là chị Mai Đình rồi.
Chị Như Nghĩa cũng ra theo, cả nhà tíu tít. Tôi để ý một người đàn bà trẻ, sang trọng cũng đứng lên chào tôi, chị Mai Đình vội vã giới thiệu: “Đây là cô Lan (hay Liên gì đó) bạn tôi ở Saigon ra chơi!’. Chị lại chỉ về tôi: “Chú Tín đây em anh Trí làm việc ở phòng kiến trúc Đà Lạt bị động viên qua Lào vừa mới trở về”.
Trông chị, tôi bật cười, tuồng như chị đóng vai chính trong gia đình tôi.
Trong câu chuyện trao đổi, chị không e dè hay sợ mất lòng ai hết. Thái độ đối với người bạn gái, chị cũng không úp mở, chị oang oang nói:
“Tuy chưa biết chú, nhưng nghe nói chú lo lắng cho anh Trí mấy năm nay, làm cho tôi cảm phục quá”, rồi tiếp tục phân bua, không rào đón: “Không chịu lấy vợ ở như vậy để lo cho gia đình. Chú thật quân tử quý hóa quá”.
Tôi lịch sự: “Chị mới thật là người đàn bà đáng quý trọng. Tôi chưa hề biết có ai dám đem cuộc đời tốt đẹp của mình đánh đổi một mối tình đầy bất trắc tai tiếng như chị với anh Trí. Chị thật là siêu nữ nhân”. Chị cười thích chí lắm.
Tôi ngẫm nghĩ, thương chị, thì ra chị biết hết việc nhà tôi. Chị lại thông cảm cả cuộc sống của tôi ở Đà Lạt. Khi chị hạ giọng bảo tôi: “Chú ở Đà Lạt lạnh lẽo quá, mà tiền lương gởi về cả làm sao đủ sống? Chú đừng ngại, nếu cần hàng nỉ may đồ lạnh, chú cứ bảo tôi. Để tôi lo cho” – Trời! bà chị ở đây rơi xuống đây, thật là vượt xa các chị ruột tôi hết. Dù sao, tôi cũng được người chia sẻ nỗi khó khăn, và cũng cảm thấy được an ủi.
Về sau chị Nghĩa cho biết Mai Đình muốn làm mối cho tôi, bạn gái của chị, một quả phụ hai mươi ba tuổi đó là một nữ chủ nhân tiệm hàng vải cỡ lớn ở Saigon.
Tôi rất buồn cười nhưng cũng quý chị lắm. Chị Mai Đình như thế đó, ở trong gia đình tôi. Lạ chưa!
Mùa thu năm 1942, chị Mai Đình lên Đà Lạt, nhắn tôi xuống nhà ga xe lửa gặp chị.
Tối hôm đó, ngồi ở bàn cà phê, chị nói với tôi rất nhiều về chuyện in thơ Hàn Mặc Tử. Chị hỏi tôi: “Chú có biết thơ anh Trí được bao nhiêu bài?”
Tôi nói: “Từ năm 1935 anh Trí ở Saigon về ở chung với tôi một phòng, không có sáng nào không thấy thơ anh vứt bừa bãi, trên bàn, trên giường, dưới nền nhà. Tôi phải dùng hai “kết” dựng bia để xếp vào.
Những khi đi vắng, tôi vẫn dặn người nhà nhặt hết tất cả giấy tờ gì trong phòng anh đều bỏ vào đó”.
“Cuối năm 1937, tôi đổi lên Đà Lạt, rồi ở luôn 7 năm. Tôi nghĩ thơ anh nhiều lắm. Thỉnh thoảng anh giở ra xem rồi chép lại, mang đi đánh máy, tặng bạn bè, mà tôi biết anh đã gởi cho Trần Thanh Địch và Trần Tài Phúng nhiều hơn hết. Coi như gần đủ bộ thơ anh. Bút tích vẫn để lại trong hai thùng gỗ đó.”
“Tôi chỉ thuộc một số, chú Hiếu thuộc nhiều vì ngâm thơ hay, nên bạn bè thường đến nghe chú ngâm.”
Khi tôi ở Lào về, thì chú Hiếu đã chuyển giao bút tích văn thơ tất cả cho anh Tấn. Chú sợ lây nên không sao chép, không kiểm nhận. Vì thế không biết đích thực là nhiều hay ít.
Tôi rất bực mình về việc đó, nhưng mẹ tôi ngăn tôi không cho hỏi lại vì sợ mất lòng anh Tấn.
“Bây giờ, chị Mai Đình muốn biết phải hỏi lại anh Tấn.”
Chị trầm ngâm hồi lâu rồi nói: “Chú biết không? Thơ anh Trí khó mà xuất bản được. Tôi đến nhắc anh Tấn mấy lần, cả chị Như Lễ cũng viết thơ nhắc lại lời hứa xuất bản thơ Hàn Mặc Tử Mặc Tử, anh đều không trả lời.” (Tôi nghĩ, anh Tấn hẳn phải có lý do chính đáng nào đó nên anh chưa in được).
“Tôi (chị Mai Đình nói) có đưa một người bạn quen chủ nhà in và xuất bản ở Hà Nội vào để thương lượng với anh tấn (hình như ông Doãn hay gì đó). Nhưng anh Tấn đưa ra nhiều điều kiện khó nghe, chưa bao giờ có.
Anh Tấn còn nói là thơ anh Trí không phải bài nào cũng hay cả đâu, mà cần phải sửa lại mới in được. Vả lại những bài hay in được, thì ông Mại đã trích lấy hết rồi. Còn lại không bao nhiêu…”
Những lời chị Mai Đình nói với tôi tại ga xe lửa Đà Lạt nay đã 45 năm rồi, mà tôi còn nhớ rõ, vì liên quan đến một câu chuyện đã xảy ra lúc tôi còn ở Lào:
“Bấy giờ vào khoảng lễ Giáng sinh 1940, tôi đang ở lại Paksé đợi chuyến xe “công voa” đi Mường Cầu (Attopeu) Lào. Tôi ở trọ lại nhà ông Tú Vọng, một cụ tú tài thất chí quê ở Quảng Bình. Sáng hôm ấy, chờ xe, rảnh rỗi giở bản tử vi của anh Trí (mà cậu Bá tôi đã chấm) ra nghiên cứu đỡ buồn. Cụ Tú đi ngang trông thấy, ghé mắt nhìn hỏi tôi: “Lá số của ai đó Thầy?” – Tôi thưa của Anh tôi. Cụ nhìn tôi rồi nhìn cái băng đen mang bên cánh tay. Cụ nói: “A! ra Thầy để tang cho ông này a”. Biết gặp tay “thượng thừa”, tôi mời Cụ ngồi xuống lấy mục kỉnh xem lại, Cụ bảo: “Chà! Đại hạn xấu quá, năm Thìn gặp Trúc la, mà mạng Mộc thì tuyệt địa rồi.”
Tôi cũng nói theo: “Có phải hạn Liêm sát mà gặp hung tinh là “lộ thượng mai thi” không” (chết chôn bên đường). Cụ cười: “Vậy ra Thầy biết rồi. Tôi sợ mất lòng không dám nói. Thầy nầy chết không gặp thân nhân đúng là lộ thượng mai thi – Tai nạn xe cộ à? – Thưa, đau bệnh.
Cụ xem một hồi nữa rồi nói: “Thầy này không có vợ con gì. Mà cũng lạ Lưu niên lại ở Tứ Tức.” Ông Cụ tiếp: “Có con rơi con rớt chi không? Vậy thì ông ta lưu cái chi lại cho dòng họ.” Tôi đáp: “Anh tôi là thi sĩ”. Ông cụ vỗ đùi: “À, phải rồi. Vậy thì thơ hay đó. Nhưng bị mất mát ngăn chận gì đó mà phải trên 50 năm mới tìm lại được. Vì Văn tinh bị Tuần triệt chận hết.” Cụ lại bảo: “Con cái là tác phẩm mà thơ văn cũng là tác phẩm”.
Câu chuyện trên đây thật kỳ lạ, vì thơ anh Trí bị thưa kiện (Triệt) rồi mất mát, thất lạc (Tuần).
Và bây giờ đúng 50 năm.
Tôi không bao giờ quên được con người kỳ lạ đó.
Hai chị em ngồi đến khuy, chị buồn buồn ngâm lại bài Lưu Luyến:
Chưa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn Anh theo dõi bóng em đi…
Rồi chị sụt sùi mãi. Tôi im lặng tôn trọng mối thương lòng chị. Hồi lâu, chị đọc bốn câu:
Lòng ta, sầu thảm hơn mùa lạnh
Hơn cả u buồn của nước mây
Của những tình duyên thương lỡ dở
Của lời rên xiết gió heo may.
Chị lại hỏi: “Bài sầu vạn cổ anh Trí tặng ai chú biết không?” Tôi nói: “Lòng anh Trí mênh mông, tình anh cũng rất mênh mông. Trong đó chắc có chị rồi. Nhưng… ở đây lại có gió heo may… “ Chị nhìn tôi: “Chú nói đúng. Anh Trí yêu nhiều, nhưng mùa Thu nhắc nhớ Anh hơn.”
(Chị muốn nói, chị chưa được yêu sâu đậm bằng Hoàng Hoa).
Lúc ấy hình như có ai gọi.
Đứng dậy, chị nói: “Không biết còn gặp lại không”. Rồi chị từ biệt ra đi. Bóng chị đi hơi lụp chụp, thất thểu qua màn sương đêm khi mờ khi tỏ.
Tôi nhìn theo thương hại, người đàn bà nặng kiếp, “Khước tác phiêu bồng” này đang trôi dạt về đâu?
Sau ngày giải phóng miền Nam, nghe nói chị có mặt ở Saigon, nhưng mã đến 83-84 gì đó mới gặp chị.
Chị vẫn thế, dáng đi vẫn chồm chồm như luôn luôn vội vã, hay lo lắng suy tư gì.
Tôi nghe nói chị sống hạnh phúc với chồng con và có nhiều công lao cách mạng.
Đọc lại tập hồi ký này, chắc chị vui lắm.
Mong như thế.
4. THƯƠNG THƯƠNG
Anh Trí vốn mơ ước một mối tình nguyên hương trinh bạch, mà cho đến bây giờ anh cũng không gặp được. Anh đã đi tìm và đã thất bại trong mối tình đầu bị ngăn cách chỉ vì mây và gió không cùng bay theo một chiều.
Những khi vô vọng, với ác bệnh hoành hành, anh vẫn còn bám vào sức tưởng tượng để tìm cho kỳ được.
Bằng tâm tư, bằng thần phách, anh đùa với Trăng, ngủ với Trăng, chu du trong quỹ đạo thần tiên.
Nhưng Trăng cũng tan vỡ:
Gió rít tầng cao, trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành mảnh đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
Có khi Trăng chỉ còn một nửa:
Hôm nay có một nửa Trăng thôi
Một nửa Trăng ai cắn vỡ rồi
Thất vọng, anh quay về với Hồn, đi chơi với Hồn, tìm ở nơi Hồn một hình ảnh ước mơ. Nhưng Hồn chỉ thể hiện được người Anh, cũng đau đớn sượng sần, cũng thổn thức như Anh:
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Tôi dìm Hồn xuống một vũng Trăng êm
Cho Trăng ngập Trăng dồn lên đến ngực
Hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức
…….
Hồn là ai, là ai tôi không hay
Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay
Hồn mệt lả còn tôi thì chết giấc
Thế là cả Trăng và Hồn không mang lại ước mơ đích thực. Anh bơ vơ, càng bơ vơ hơn trôi giạt vào bến bờ mộng và thực.
Và Anh cố giảng giải mối tình say mê đó:
« Tôi đang say tình, say Trăng, say người thục nữ
“Tình còn tiết ra ở đầu mày cuối mắt, trên môi
“Tình thoát ra ở điệu nhạc, mênh mang, trong bờ bến chiêm bao, yếu đuối run rẩy trước làn gió ngọt ngào.”
“Tình tiết ra theo tiếng hát của chim non, phối hiệp với sóng điện không gian…
“Khi ngòi bút tôi đã thấm nhuần ý nghĩ cao cường, truyền sang ởi điện tinh truyền của trí tuệ, tôi phơi lên mảnh giấy thanh sạch này, tình cảm nóng ran, tràn trề và thầm lặng.
“Hỡi quý nhân, người có nghe thấy đến gì mới lạ, tinh khôi, reo lên, hiện lên và sử linh tư tưởng của người…
“Người thấy gì trong ánh sáng? Một chất cao quý thanh khiết, trăng hơn hàm răng của người đẹp.”
Thôi!
ĐỪNG CHO LÒNG BAY XA
Thượng thanh khí, tiết ra nguồn tinh khí
Xa xôi dời trăng mọc nước huyền vi
Đây miên trường, đây vĩnh cửu đề phi
Cao cao vượt vời hai hàng bóng vía
Trời nhật nguyệt cầu vồng bất tứ phía
Ôi! Hoàng Hoa, hồn phách đến nơi đây.
…….
Sang chơi thôi, sang chơi thôi, mà ai?
Thu đây rồi bước lên cầu ô thước
Sao? Vàng sao, rơi đầy trên sông nước
Đừng ngửa tay mà hứng máu trời sa
Thôi! Kẻo về đừng cho lòng bay xa.
…….
Tiếng huyền địch gò theo tia yến nguyệt
Đẩy đưa dài, hơi ngào ngát trâm anh
Thân không tan như bào ảnh hư vô.
“Như cô ma lực vô song đưa tôi đến bờ huyền diệu
“Đêm nay là đêm hào hoa, nên mùa trăng bát ngát
“Giờ bốn phương thôi cầu nguyện mà lòng tôi rạo rực lên cảm hứng.
“Hễ là hơi khói càng nhẹ, hơi trăng càng trong, thì hơi thở của tôi càng thơm tho không khác gì một mùi hương.
“Chiêm bao rã rời trong khi ánh sáng sự thực dọi tới như:
TÌNH HOA
Tứ rung rung cho quá trí dật dờ
Rồi bay từ diệu vợi đến xanh mơ
Từ bên ngọc dời sang châu Dủ Lý
Từ Minh Triết lần lần theo ý chí
“Bây giờ ngoại cảnh và nội tâm đều hòa rung lên như nhịp Tiêu thiều, thanh bai”
Và thơ Anh dâng lên trong:
VẦNG TRĂNG
Hãy nâng lên, nâng lên chút nữa
Sáng thơm tho như ánh ngọc hừng đông
Nhưng cao quá và càng lên dữ quá
…….
Bao nhiêu tơ chuyển được tiếng thơ bay
Êm êm hơn, đừng cho xanh lờn lợt
E so le ý nguyện giữa đêm nay.
Rồi anh viết về chiêm bao:
“Từ sự thực đó đi tới bào ảnh, từ bào ảnh đi tới huyền diệu, và từ huyền diệu tới chiêm bao. Mông lung trùm lên sự vật, và cõi thực bị ánh sáng chiêm bao vây riết.
“Tôi gặp nhiều người lạ, cũng như tôi chưa từng thưởng thức những mùi hương quý trọng. Ở chỗ này không biết là chỗ nào…
“Có khi thần phách của tôi đến rã rời đê mê, vì đột nhiên có đôi môi người đàn bà nào cọ vào môi tôi.
“Tôi cảm thấy khoái lạc vô biên…” và Anh kể lại trong:
DUYÊN KỲ NGỘ
Mải vui tìm cánh hoa trên cánh bướm
Ai đưa ta lạc đến nước non này
Mùi cỏ lạ thơm như mùi nhụy chớm
Cùng tiếng tiêu đồng hợp sức nồng say
Đến đây rồi ta mơ niềm hận cũ
Đã bao năm, nào thấy bóng giai nhân
Hoa lá bỗng xôn xao tìm lấy thú
Trong khi này lừng lẫy nhạc tường vân…
Trong bối cảnh lạ lùng này thì Thương Thương xuất hiện mơ hồ trong mộng và thực của anh Trí, như một nàng tiên.
(Thương Thương nàng chỉ là một cái tên mà Trần Thanh Địch, bạn anh bắt gặp đâu đó giữa mây trời để giới thiệu với Anh).
Mối tình kỳ diệu với Thương Thương đã làm cho thơ Anh trong tập Duyên kỳ ngộ trở thành bất hủ.
...
Một mối tình huyền hoặc mà anh đã sống hoàn toàn như thực trong cõi mộng bao la, với sức tưởng tượng phong phú lạ lùng chỉ dựa vào các bức thơ ngụy tạo, nhưng tình tứ say sưa để rồi anh nghe được cả suối reo, chim hót, cả gió núi thông ngàn, dìu dặt như tiêu thiền phảng phất hoàn nhập vào thơ anh, thành bản nhạc tuyệt vời rung cảm …
Ôi chao! Mê toàn thân như khoái cẩm
Như đêm xuân uống phải rượu Quỳnh tương
Không đâu mà có điều chi vừa chạm
Đến tâm linh để báo hiệu phi thường…
Và hình như có mội đàn bà nào vừa lướt qua môi anh… rồi tiếng ai từ xa đưa lại…
Mây bay theo với mây bay
Mình sao ra nước non này mà chơi
Sáo ơi, dìu dât chơi vơi
Buông mau âm điệu để rời nhân gian
Nắng cao, ý muốn tràn lan
Ở đây vắng vẻ cây ngàn suối reo…
Và tiếng gió rì rào:
Chim ơi, hót khúc tương giao
Có người thục nữ lần vào thiên thai
Không gặp ai, chửa gặp ai
Duyên còn ngậm kín tình hoài miên man
Tiêu dao đến nỗi bẽ bàng
Đi trong hiu quạnh gặp toàn bơ vơ
Suối reo lên:
Ồ sự lạ, đã muôn đời thế kỷ
Đất Linh Sơn in dấu vết phàm nhân
Ta reo lên với đàn thông rủ rỉ
Cho lay bay tình tứ ở xa xăm
Suối lại reo khi bóng dáng nàng tiên xuất hiện:
Hay a! Người lụa sông Tầm
Ai dan, ai dủi đến gần gần tiên
Ở đây có suối Đoàn viên
Có cây phối hợp, có duyên ngọc vàng
Nước ta trong trắng ơi Nàng
Đọ xem trinh tiết có phần thanh cao
Nàng tiên:
Ôi chao! Thơ ngầm bay trong giải nắng
Lồng vào trong xiêm áo mỏng manh sao
Tiếng ai cười vang lên trong im lắng
Khiến lòng ta hồi hộp biết dường bao
Chim phụ họa:
Tiếng tiêu nào từ phương xa bay vẳng
Tiếng thanh thanh mà rất mực tương tư
Tiếng tiêu:
Ta là khúc phượng cầu hoàng năm trước
Đem ân tình trải khắp cả trời duyên
Cho Quân Thụy lấy nàng Thôi thuyền quyên
Nàng:
Em là Trần Thương Thương
Ngụ ở bến Tầm Dương
Đi tìm chàng thi sĩ
Trong pho sách kim cương
Thi sĩ:
Em là Trần Thương Thương
Anh là Hàn Mặc Tử
Không phải cách âm dương
Có khi còn hội ngộ…
Chim hót:
Hỡi ôi! Người tục khách tình
Đến đây nhìn sững cho mình thêm ghen
Má ơi má núng đồng tiền
Môi sao, ướt đỏ ta thèm biết bao
Nắng ơi, nắng có lên cao
Làm sao da thịt hồng hào thế kia
Mùi thơm ai nỡ bay lìa
Xem duyên tác hợp rồi về mà đang
Thi sĩ:
Thương Thương em, trời cho ta kỳ ngộ
Nói cho ra thần diệu của vàng bay
Đôi nhụy thắm in trên màu rực rỡ
Đây đôi chim gù gật với niềm say.
Nàng:
Tất cả là trân châu vô giá
Dành cho anh riêng hưởng hạnh phúc này…
Và đã có một khoảng thời gian nào đó, dù là ngắn ngủi, Hàn Mặc Tử cũng đã sống đầy đủ những ước mơ của mộng đẹp. Anh viết:
Non nước tâm tình rộng bốn phương
Để em làm nhạc, tôi làm hương
Đêm nay đại yến Lâm xuân cát
Điêu Thuyền đàn khúc Tề tuyên vương
Xong rồi, đôi ta qua Đào nguyên
Em làm rượu ngọt, anh làm men
Tiên cố không đợi không duyên mời mọc
Say thôi gò má đỏ rần lên
…….
Nàng:
Tình quân hỡi, muôn năm em chỉ muốn
Sống bên anh cho thắm đượm tình yêu
Mùa xuân em sẽ rất nhiều hoa bướm
Bởi thơ anh tô điểm đẹp trăm chiều
Thi sĩ:
Gặp em đây, khác gì trong giấc mộng
Biết làm sao cho thỏa hết tình thương
Tiếng lòng anh vẫn luôn luôn đồng vọng
Luôn luôn reo kêu gọi đến tình nương
Chỉ có em làm thơ anh mãnh liệt
Tình anh vang như luồng gió van lơn
Chỉ có em lòng anh yêu tha thiết
Yêu điên cuồng không một phút nào hơn
Nàng:
Nói làm chi, những câu mê sướng quá
Nói những câu khờ dại cả người em…
Phải chăng anh tài hoa cao trọng lắm
Đã bao lần thét tiếng ở đền vua
Bao lời ngọc đắm say, lời ngọc thắm
Bao giai nhân hâm mộ tấm tình thơ
Chim hót:
Ôi chàng kia! Thực ra chiều phong vận
Hãy nghe ta cao hót khúc bình an
Tiếng tiêu:
Song le nàng vẫn luôn luôn cách biệt
Bến Ô Giang lành lạnh khóc Sâm Thương
Ta vẫn còn ngân bao lời tha thiết
Trong nắng mai dìu dặt mối sầu vương.
Trong hạnh phúc no đầy, Hàn Mặc Tử linh cảm có ngày cách biệt: «Thinh không tan như bào ảnh hư vô », anh viết:
Lá muôn năm còn no trong khoái lạc
Anh còn run cho đến phút chia lý…
Bây giờ đây khóc than niềm ly hận
Hỡi Thương Thương người ngọc của lòng anh
Ta nhìn em với bao lời ta thán
Khiến hoa, chim nghe được cũng không đành
Nàng:
Người mộng hỡi, từ nay ta mới biết
Sao thơ anh nhuộm toàn màu ly biệt
Rên không thôi, nức nở cả ban đêm
Nói chi anh những câu buồn xa cách
Đoàn viên đây còn nắm chắc trong tay
Yêu nhau thôi, nguồn thơm chan chứa mạch
Cho em lau mắt lệ thế niềm say…
Thi sĩ:
Than ôi! Hỡi lời biệt ly chan chứa
Anh sắp đi rồi hai hàng lệ ứa
Cả đau thương dồn dập xót tâm bào
Khi xa em đã bao lần vọng tưởng
Mơ trong mơ làm hoảng hốt đêm trăng
Nàng:
Em quyết níu với bao tơ nắng dịu
Níu thơ anh và níu cả hồn anh
Hoa cỏ sẽ làm ơn theo chứng kiến
Biệt ly nào rứt được mối thâm tình
Thi sĩ:
Anh chỉ ngó say em trong chốc lát
Để hồn thơ rào rạt với mây bay
Gần bên em để hưởng bao khoái lạc?
Thưa em không, anh đâu dám mê say
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với áo sương anh nằm chết như trăng
Không nhìn thấy nàng tiên mò đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm
Tiếng tiêu đuổi theo văng vẳng:
Bến Ô Giang còn lâm ly khúc hát
Trong sương bay gởi nỗi buồn tiêu tao.
Bỏ nàng đi để hồn ta man mác
Ta theo nàng von vót lắng trên cao…
Duyên Kỳ Ngộ là một thiên tình sử tráng lệ nhưng bi đát mà người đời sau vẫn còn nhắc nhở.
Thương Thương, hai tiếng thoảng bên tai
Như lời thầm thỉ hẹn yêu ai
Lâng lâng hồn phách theo vào mộng
Để viết nên trang đẹp tuyệt vời
Ai đưa tiên nữ đến vùng đau
Nghe tiêu dìu dặt suối hòa reo
Ôm trăng say chết bên bờ mộng
Chờ gió ngàn phương gọi đón nhau
Nơi đây hò hẹn tuổi trăng thơ
Sóng nước trùng dương gởi ước mơ
Cô nàng tiên nhỏ đi mô mất
Bỏ mặc thi nhân đợi dưới mồ.
Cuộc tình của Hàn Mặc Tử với nàng Thương Thương “tiên” bị gián đoạn tức tưởi vì gia đình Thương Thương “đòi” xin anh ngưng lại nguồn hứng cái tình thơ xao xuyến đó và đã cảm thấy bị ngợp rồi.
Anh nhã nhặn vui lòng chấm dứt, giữa lúc anh đang sáng tác một vở kịch thơ “Quần tiên hội”, một cuộc gặp gỡ khác trong cảnh Bồng Lai, mà anh nhờ cải trang thành tiên nữ để đi lọt vào “chiều thứ thư của thế giới có bốn mùa xuân cả bốn”.
Cũng như Đương Minh Hoàng du Nguyệt điện với Dương Quý Phí hay Orphe xuống địa ngục tìm lại Eurydyce trong thần thoại, mà trong bài Chiêm bao và sự thực, anh đã mơ hồ chứng minh là có thực.
Anh viết: Có hay không, hư hay thực là những huyền ảo chập chờn trước mắt.
Và, anh đã sống trong mối tình huyền ảo chập chờn với Thương Thương mà Duyên Kỳ Ngộ đã ghi lại những hình ảnh tuyệt vời rất thần tiên đó.
Giấc mộng qua đi, anh lại trở về với thực để chê trích đời thường tầm thường quá, không hiểu được anh.
Anh phân trần:
NÓI TIÊN TRI
Ta muốn làm quen phong vị mới
Sao người trưởng thượng nói tiên tri
Chơi cho rất mực tài hoa ấy
Để thấu tai người áo cổ-y (quan lớn)
Bao giờ lời hát tan ra nhụy
Mới biết duyên ngầm ở Quý Phi
Bao giờ ai hòng hỏi hương báu
Ngoài cõi tâm tư sẽ lỗi nghì
Chắc đâu di lụy cho nhân quả
Thôi cứ say mèm với nữ nhi
Đời không có ngọc trong pho sách
E hết khôi nguyên ở Phượng Trì
Không, không, thánh chúa mê nhan sắc
Quên màu trang điểm ở Kinh Thi
Có tôi vô sự trong thiên hạ
Cưới hết thuyền quyên tuổi dậy thì
Tương tư ai thiếu bao nhiêu lệ
Cứ khóc cho hoàn mộng biệt ly.
Thương Thương, cho đến nay cái tên đáng yêu đó chỉ là một thứ trò đùa tao nhã, không ác ý của một gia đình thượng lưu, mà người bạn tâm giao của Hàn Mặc Tử đã mở cho anh một chân trời mới để xem thiên tài anh dẫn đưa đến đâu.
Người bạn đó đã thành công lớn với sức tưởng tượng vô cùng phong phú và đa dạng của Hàn Mặc Tử.
Vì vậy, những tác phẩm xuất phát từ mối tình Thương Thương đã đưa tên tuổi Thương Thương gắn liền với tên tuổi Hàn Mặc Tử, sáng chói trong lịch sử Thi văn của đất nước.