Nhưng dù thế giới buồn tẻ hay vui nhộn, con người ta cũng cần phải có cơm để ăn. Tôi lại đang gặp khó khăn về chuyện đó.
Những tháng đầu tiên sau giải phóng, mẹ tôi còn gởi tiền cơm vào cho tôi nhưng thời gian gần đây thì ngưng hẳn. Tôi biết gia đình đang gặp hoàn cảnh khó khăn. Ba tôi vắng nhà, mẹ tôi một mình nuôi sáu đứa con hẳn là vất vả, gian nan, nhất là từ trước đến nay mẹ tôi chỉ biết trông nom nhà cửa, con cái, đâu có quen cày cuốc như công việc hiện nay.
Dượng tôi vẫn đi làm ở cơ quan cũ, dì tôi công tác ở hội phụ nữ, trong nhà chẳng dư dả gì. Do đó, tôi luôn cảm thấy áy náy về tình trạng "ăn theo" của mình.
Thường thường để nhẹ gánh cho gia đin`h dì tôi, tôi chỉ ăn cơm ở nhà bữa tối. Còn bữa trưa, tôi ăn ké với mấy đứa bạn trong trường.
Đứa nào muốn ăn cơm tập thể thì mua phiếu. Tới bữa, cứ gom đủ bốn phiếu, bếp ăn phát một mâm. Khi lãnh cơm, thay vì lấy bốn cái chén, thằng Bảo lấy dư ra một cái cho tôi ăn ké.
Tôi sống như vậy được một tuần thì Kim Dung can thiệp.
Kim Dung cũng ở lại trường buổi trưa nhưng nó ăn cơm trong lon guigoz đem theo. Trong khi đám con trai tụi tôi xúm xít ở nhà ăn tập thể thì Kim Dung và mấy đứa con gái khác ngồi dựa lưng vô cột, giở cơm ra ăn.
Một buổi trưa, lúc tôi chuẩn bị đi ăn với tụi thằng Bảo thì Kim Dung ngoắc tôi:
- Ông lại đây tôi nhờ cái này chút!
Tôi bước lại. Kim Dung đưa lon guigoz cơm cho tôi:
- Phần của ông nè!
Thấy tôi ngần ngừ, nó nhấn lon cơm vào tay tôi:
- Cầm đi! Tôi có phần đây rồi!
Vừa nói, nó vừa lấy từ trong giỏ ra một lon cơm khác.
Lâu nay, Kim Dung đã tập cho tôi có "bản lĩnh" trong chuyện này nên tôi cầm lấy lon cơm ăn tỉnh, chẳng mắc cỡ gì hết. Tôi giở lon cơm thấy có mấy con tép, ăn một hồi thấy phía dưới toàn chả lụa. Tôi liếc nó:
- Làm gì mà chôn kỹ vậy?
Nó cười:
- Để phía trên ông ăn hết, lát nữa lấy gì ăn cơm!
Kể từ bữa đó, trưa nào Kim Dung cũng "nuôi" tôi. Mãi đến khi tôi ra trường.
Nhưng không vì vậy mà tôi không nghĩ đến chuyện kiếm việc làm thêm, mặc dù tôi chưa biết mình sẽ làm được những việc gì.
Một hôm, thằng Bảo khoe tôi:
- Tao tìm được việc làm rồi! Mày làm không?
Tôi mừng rỡ:
- Làm gì vậy?
- Đạp xích-lô!
Tôi xịu mặt:
- Mày giỡn hoài!
Nó nhướng mắt:
- Tao nói thật chứ nói chơi với mày sao!
Tôi nhìn nó, vẻ nghi ngờ:
- Tụi mình làm sao đạp xích-lô nổi?
Nó cười toe:
- Sao không nổi! Tao đạp mấy ngày nay rồi!
Tôi nhếch mép:
- Xạo đi mày!
Nó khoát tay:
- Mày không tin thì tối nay tao ghé!
Tối đó, thằng Bảo đạp xích-lô đến nhà tôi thật. Nó để xích-lô ngoài hẻm rồi chạy vào kêu tôi. Chưa thấy xe đâu, chỉ mới nhìn thấy nó, tôi đã tin liền. Không biết nó kiếm ở đâu một cái áo màu cháo lòng cũ xì, cái quần vá chằng vá đụp lại thêm cái mũ ka-ki của lính, trông nó giống hệt mấy tay đạp xích-lô chuyên nghiệp. Dòm nó, tôi không nhịn được cười.
Nó dẫn tôi ra "tham quan" chiếc xích-lô. Vừa chỉ chỏ, nó vừa dẫn giải:
- Tụi mình đi học ban ngày, chỉ có thể chạy xe vào ban đêm, từ năm giờ chiều trở đi. Xe thuê bên cầu chữ Y, đáng lẽ phải đặt tiền cọc nhưng chỗ này tao quen nên người ta thông cảm không bắt đóng.
Tôi vừa rờ rẫm chiếc xe vừa nghe nó hùng hồn thuyết minh, trong bụng đã thấy khoai khoái.
Lát sau, Bảo bắt tôi leo lên xe để nó hướng dẫn thực tập. Nó dạy tôi cách bẻ lái, quay đầu, bóp thắng.
Thoạt đầu, tôi chạy tới chạy lui trong hẻm. Sau thấy dễ, tôi phóng ra đường, thằng Bảo chạy kè kè bên cạnh, miệng la inh ỏi:
- Chầm chậm chút! Chầm chậm chút!
Khi quanh về đến nhà, tôi nói với nó:
- Vậy là ngày mai tao hành nghề được rồi!
Nó khịt mũi:
- Chưa đâu! Mày phải học thuộc các địa danh đã!
- Địa danh gì? Người ta kêu chở đi đâu thì tao cứ địa chỉ đó mà chở đi chứ lo gì!
Nó nhăn mặt:
- Khổ quá! Ông không biết gì hết! Mấy bữa nay con chạy xe, con mới phát hiện ra một điều là thiên hạ ít bao giờ nói số nhà và tên đường ra cả. Họ chỉ bảo "về ngã ba ông Tạ" hay "tới công trường Cộng Hòa" gọn lỏn thế thôi! Nếu ông hỏi lại chỗ đó là chỗ nào thì người ta cho ông là gà mờ, không đáng tin cậy và họ sẽ đón xe khác ngay.
Hóa ra đạp xích-lô mà cũng phức tạp gớm!
Ngày hôm sau, thằng Bảo đưa tôi một tấm bản đồ địa lý dành riêng cho dân đạp xích-lô do nó biên soạn, trong đó chỉ rõ cổng xe lửa số 6 ở chỗ nào, ngã tư Nancy ở đâu...
Tôi bỏ mất ba ngày để học "địa lý", mồm luc' nào cũng lẩm bẩm: Xóm Gà, Xóm Chiếu, Cây Sứ, Cây Điệp, Lăng Ông, Lăng Cha... đến sái cả quai hàm.
Học "địa lý" xong, tôi còn phải học "kinh tế": chở từ đâu đến đâu lấy bao nhiêu tiền! Rồi chở một người thì sao, hai người thì sao, ba người thì sao...
Thằng Bảo "dạy" cái gì, tôi lấy sổ tay ghi chép cái đó, mặc dù tôi nhẩm sức mình chỉ chở nổi hai người là cùng, mà trong hai người đó phải có một người là... con nít kia!
Chỉ có một chiếc xe nên tôi với thằng Bảo phải thay phiên nhau đạp, nó một ngày tôi một ngày.
Buổi xuất hành đầu tiên của tôi, nó đạp xe đạp theo hộ tống và xem có sai sót gì về nghiệp vụ thì uốn nắn kịp thời.
Đi ngang một ngã ba, thấy có hai người đang đứng trên lề đường, tôi thắng xe lại, hỏi:
- Anh chị về đâu?
Hai người lắc đâù làm tôi cụt hứng, đạp đi luôn.
Thằng Bảo chạy rề rề theo, cao giọng lên lớp:
- Dân trong nghề không bao giờ gọi khách là "anh chị" mà phải nói "thầy Hai về đâu?" mới đúng điệu!
Thằng Bảo nói làm tôi nhớ lại ngày đầu tiên tôi đến Sài Gòn, người ta kêu tôi là thầy Hai khiến tôi sướng rơn trong bụng.
- Mà nếu người ta muốn đi thì người ta tự động kêu mày, không việc gì phải hỏi thẳng vào mặt họ như vậy! - Bảo tiếp tục bài giảng - Thay vì dừng xe lại thì mày thả tà tà ngang qua mặt họ. Nếu họ không thấy mày thì mày gõ cái thắng tay kêu "lắc cắc" để họ chú ý.
Tôi vừa đạp xe vừa lẩm nhẩm cho nhớ những lời dặn dò vàng ngọc của nó.
Bữa đó, rảo đến khoảng chín giờ tối, tôi cũng chạy được mấy cuốc xe ra trò.
Thằng Bảo theo tôi đến sáu giờ thì bỏ về. Trước khi chia tay, nó nói:
- Tao có để chai nước với sợi xích sắt sau nệm xe cho mày đó!
- Chi vậy?
- Chai nước để uống khi nào khát, còn sợi xích để đánh lộn.
Tôi há hốc miệng:
- Đánh lộn?
- Chứ sao! Tao giấu sợi xích ở đó để đề phòng khi bị giựt xe, mình có vũ khí mà chiến đấu.
Tôi rụt vai:
- Ốm nhom như tao mà chiến đấu cái mốc gì! Hễ tụi nào xông vào giựt xe là tao bỏ chạy trước!
- Không được! Mày phải chiến đấu đến... giọt máu cuối cùng! Mày làm mất xe là tao đi tù liền!
May mà suốt thời gian đạp xích-lô, tôi chưa bị giựt xe lần nào. Chắc là thằng Bảo chưa đến số đi tù!
*
Gia đình dì tôi và gia đình bác Tám không ai biết tôi đi đạp xích-lô. Tôi giấu biến. Nếu biết, tất dì dượng tôi sẽ cản. Chiều nào chạy xe, tôi đi bộ ra Ngã Bảy, nhận bàn giao xe từ người chạy xe ban ngày. Buổi tối, sau khi trả xe, tôi lại thả bộ về nhà. Dì tôi hỏi, tôi bảo là đi dạy kèm.
Thông thường, chạy xe đến khoảng chín, mười giờ tối, tôi đã kiếm đủ số tiền cơm nước cho một ngày. Từ giây phút đó, để giữ sức ngày mai đi học, tôi không rước khách nữa, chỉ đạp xe tà tà đi trả.
Trời tối. Gió mát. Những ánh đèn thủy ngân toả ra một thứ ánh sáng êm dịu, mơ màng trên đường vắng. Đó đây vẳng lại những tiếng lá trò chuyện thì thầm. Những lúc ấy, vừa thong thả đạp xe đi tôi vừa nhớ Quỳnh da diết.
Giá như Quỳnh không thay đổi, giá như tình cảm giữa hai đứa tôi vẫn như ngày nào thì lúc này, sau khi đã lo xong phần cơm áo, tôi sẽ ghé đón Quỳnh đi chơi. Tôi sẽ chở Quỳnh đi ăn bánh cuốn, đi ăn kem, yaourt, đi uống chanh muối... nói chung là tất cả những thứ gì Quỳnh thích. Chúng tôi sẽ đi dạo bên bờ sông, sẽ đi trên những con đường thanh vắng ngập đầy lá rụng, nói chung chúng tôi sẽ...
Đang mơ mơ màng màng, tôi bỗng nghe "sầm" một tiếng, chiếc xích-lô lủi vô lề ngã chổng kềnh, còn tôi bắn xuống mặt đường, ê ẩm cả người. Vừa buồn cười vừa đau, tôi ngồi thở một lúc mới lồm cồm ngồi dậy đỡ xe lên.
Tay lái xe xích lô rất nhẹ, chạy xe không chăm chú là ủi vô lề như chơi. Tính tôi lại hay vừa đi vừa nghĩ ngợi lông bông nên bị nằm đất hoài. Nhưng đối với tôi, những cú ngã này không thấm thía gì so với cú ngã trong tình yêu.
Chuyện tôi đạp xích-lô, Quỳnh không biết nhưng Kim Dung lại biết.
Tôi đã cố tình giấu Kim Dung nhưng không hiểu thằng Bảo mách lẻo những gì mà một hôm Kim Dung hỏi tôi:
- Ông chạy xe đã ngon lành chưa?
Tôi giả bộ ngây thơ:
- Xe gì?
Kim Dung đập vào tay tôi:
- Đạp xích-lô chứ đâu phải ăn cắp ăn trộm gì mà ông giấu!
Tôi đành cười khì.
Nó đề nghị tỉnh bơ:
- Tối nay ông ghé chở tôi đi chơi đi!
- Đi đâu?
- Thì đi loanh quanh!
- Tôi hay lủi vô lề lắm!
- Lủi vô xe tải mới sợ chứ lủi vô lề thì ăn nhằm gì!
Thế là tối đó tôi ghé nhà Kim Dung. Kim Dung bây giờ không còn ở căn nhà cũ. Nó đổi căn nhà kia cho nhà nước lấy, căn nhà này, nhỏ hơn. Nó bảo căn nhà cũ rộng quá, buồn thiu, đôi khi lại gợi lại hình ảnh của mẹ nó khiến nó muốn khóc.
Nó nói nhớ mẹ thì tôi tin nhưng nó nói nó khóc thì tôi không tin lắm. Tôi chưa thấy nó khóc bao giờ.
Thấy tôi đỗ xịch xe trước cửa, Kim Dung mừng lắm. Nó nhảy tót lên xe, kêu:
- Tới luôn bác tài!
Tôi nhướng cổ, hỏi:
- Tới đâu?
Nó khoát tay:
- Muốn tới đâu thì tới!
Tôi chẳng biết tới đâu nên cứ chở nó chạy lòng vòng bốn phương tám hướng.
Chạy đã, chúng tôi ghé vào quán ăn.
Khi ăn xong, tôi giành trả tiền. Kim Dung gạt phắt:
- Ông chạy xích-lô được mấy đồng mà đòi làm tàng! Để tôi trả cho! Ông bà già tôi đi rồi nhưng tôi vẫn còn giàu, ông cứ yên chí!
Trên đường về, Kim Dung nổi hứng đề nghị:
- Ông nhường cho tôi chở một lát coi!
Tôi hoảng hồn:
- Thôi, cho tôi can! Kim Dung đụng phải người ta chắc tôi đi tù sớm!
Tôi nói y chang giọng thằng Bảo.
Kim Dung làm ra vẻ ngoan ngoãn:
- Không sao đâu! Tôi chạy cẩn thận mà!
Nhưng mặc cho nó "dụ khị", tôi vẫn lắc đầu nguầy nguậy.
Mấy hôm sau, Kim Dung kêu tôi đạp xe vô trường coi văn nghệ.
Tôi từ chối:
- Tụi nó thấy tụi nó cười chết!
- Làm gì mà cười!
- Cười chứ! Tôi chở Kim Dung tới cổng trường thì được! Lúc nào tan hát, tôi ghé đón về!
Kim Dung lắc đầu:
- Ông không đi thì tôi đi làm gì! Thôi, tôi với ông chạy lòng vòng chơi đi!
Thế là tôi chở nó đi chơi.
Thường thường, cứ mỗi lần chở Kim Dung đi chơi, tôi lại nhớ đến Quỳnh. Tôi cứ ao ước giá như Kim Dung là Quỳnh thì tôi sẽ hạnh phúc biết mấy.
Chẳng thà không nghĩ thì thôi, chứ đã nghĩ đến Quỳnh, mà lại cứ "giá như", "giá như" hoài, tôi cảm thấy đau khổ và buồn tủi vô cùng. Những lúc ấy, chân tay tôi rã rời, bải hoải, chạy xe hết muốn nổi.
Thực ra, dạo này sức khỏe tôi cũng không được tốt lắm. Một phần lo ôn thi tốt nghiệp, một phần lo đạp xích-lô, lại thêm cú sốc tình cảm nặng nề, người tôi đâm ra uể oải, lờ đờ như người nghiện thuốc.
Đi đâu về nhà, tôi cứ trèo lên gác nằm lăn đùng ra đó.
Lan Anh lúc này đã là một cô nữ sinh cấp ba mười sáu tuổi. Càng lớn nó càng dễ thương. Dễ thương nhất là nó rất thương tôi.
Biết tôi buồn, nó không biết làm sao an ủi, chỉ biểu lộ tình cảm bằng cách chăm sóc tôi nhiều hơn.
Có hôm, tôi đang ngồi học bài, nó tự động mua cà phê đem để trước mặt tôi.
Tôi mỉm cười hỏi nó:
- Tiền ở đâu mà mua vậy?
- Tiền của em.
- Em làm gì có tiền?
- Mẹ cho, em để dành!
Nó làm tôi cảm động quá chừng. Tôi nắm tay nó, khẽ nói:
- Em tốt lắm! Cảm ơn em!
Nó dòm tôi:
- Sao bữa nay tự nhiên anh nói năng khách sáo quá vậy?
Tôi cười cười không đáp và cúi xuống học bài tiếp. Lan Anh ngồi im lặng một hồi rồi bỗng nhiên thốt lên:
- Em ghét chị Quỳnh!
Nói xong, nó chạy mất. Chắc nó sợ tôi giận vì nó dám công khai ghét Quỳnh của tôi!
Dì tôi hình như cũng biết tâm sự của tôi nhưng dì giữ ý không nói ra.
Mãi đến khi tôi thi tốt nghiệp xong, dì tôi mới hỏi:
- Cháu làm gì mà buồn buồn vậy?
Tôi nhìn dì không đáp. Nhưng ánh mắt đau khổ của tôi đã nói biết bao điều.
Dì tôi trầm ngâm một lúc rồi thở dài:
- Cháu nên quên con Quỳnh đi, cháu ạ!
Trước đây, Trâm đã khuyên tôi như vậy một lần. Vả lại, tôi cũng chẳng chờ đợi dì tôi báo điều gì tốt lành. Nhưng khi nghe câu nói tàn nhẫn đó thốt ra từ miệng dì tôi, tôi vẫn không tránh khỏi trạng thái choáng váng. Tôi hỏi dì, giọng nhẹ như hơi thở:
- Nhưng tại sao vậy, dì?
Dì tôi nhìn tôi bằng ánh mắt buồn bã:
- Cháu khờ quá! Ba cháu đi học tập cải tạo, còn gia đình người ta là gia đình cách mạng, cháu hiểu không?
Tôi chết lặng người, nửa hiểu nửa không. Ba tôi đi học tập thì sao? Gia đình cách mạng thì sao? Tôi có trách nhiệm gì trong chuyện ấy? Tôi và Quỳnh yêu nhau kia mà! Mẹ Qùynh chẳng bảo đợi tôi ra trường rồi sẽ tính toán cho hai đứa tôi là gì! Tôi quay cuồng trong hàng trăm câu hỏi không lời giải đáp và thiếp đi trong một giấc mơ ảm đạm.
Những ngày sau, khi tỉnh táo hơn tôi lại càng cảm thấy tuyệt vọng hơn. Trên thực tế, thái độ của Quỳnh và của gia đình Quỳnh chính là câu giải đáp. Dù không thuyết phục, nhưng nó cứ vẫn là một câu giải đáp, ít ra là giải đáp cho tôi.
Đã vậy, anh còn biết làm gì bây giờ, Quỳnh ơi?
*
Ngày ra trường, tôi tình nguyện nhận nhiệm sở ở một tỉnh miền Tây xa lắc xa lơ. Tôi muốn đi thật xa thành phố, thật xa Quỳnh, xa hẳn những kỷ niệm của một thời yêu đương thơ mộng.
Khi nhận giấy bổ nhiệm, nghĩ đến câu nói trước đây của chị Kim "chừng naò ra trường em về quê chị dạy đi", tôi không khỏi thấy cay cay nơi mắt.
Thằng Bảo và Kim Dung cũng được phân về các tỉnh, đứa đi Long An, đứa lên Sông Bé.
Trước hôm chia tay, ba đứa tôi đi chơi với nhau suốt một ngày. Sau khi chạy lông nhông khắp thành phố, ba đứa lại chui vào quán nước quen thuộc trước cổng trường.
Ngồi uống cà phê mà đứa nào đứa nấy mặt mày buồn xo. Tôi "yếu đuối" đã đành. Kim Dung thường ngày phớt tỉnh là thế mà bữa nay mặt cũng như đưa đám. Ngày cuối cùng bên nhau, nó chẳng buồn che giấu tình cảm của mình.
Thằng Bảo tỉnh hơn một chút. Nó đề nghị:
- Bắt đầu từ năm tới, vào dịp nghỉ hè hằng năm, cứ đúng bốn giờ chiều ngày một tháng bảy, tụi mình đều gặp nhau ở quán cà phê này. Nếu chết thì thôi, còn sống thì thế nào cũng phải mò tới, tụi mày đồng ý không?
Ý kiến của nó thì hấp dẫn nhưng coi bộ khó thực hiện quá. Tôi tặc lưỡi:
- Tao nghi quá.
- Nghi cái gì?
- Có đứa quên!
- Dẹp mày đi! Không có quên gì hết! Phải ghi vào sổ tay!
Kim Dung nhún vai:
- Chết thì không chết, nhưng lỡ què giò thì sao?
Tôi cười:
- Tôi sẽ đem xích-lô tới rước.
Bảo nói:
- Xích-lô của thằng Chương không chở được thì tôi đẩy xe lăn tới chở bà, lo gì!
Chúng tôi bốc phét một hồi, mặt mày tươi tỉnh được đôi chút.
Đúng lúc đó, thằng Bảo đột ngột đứng dậy nói:
- Thôi, đang hồi vui vẻ mình nên chia tay! Nấn ná một lát nó buồn trở lại, tao đi hết nổi!
Nói xong, nó vội vã lên xe vọt thẳng như muốn chạy trốn chúng tôi.
Còn lại hai đứa, tôi đưa Kim Dung về.
Chúng tôi chạy xe song song bên nhau nhưng không ai nói gì. Tự nhiên tôi bỗng nhớ đến câu "Ôi cảnh biệt ly sao mà buồn vậy" trong một truyện ngắn của Sơn Nam và thấy lòng mình chùng xuống. Trong những ngày đau khổ vì Quỳnh, tôi đã tìm thấy ở Kim Dung một niềm an ủi, một chỗ dựa tình cảm đáng tin cậy. Với một người bạn chân thành như nó, tôi cảm thấy rất yên tâm, không sợ phải gặp những thay đổi tráo trở. Lâu nay, sự có mặt của Kim Dung trong cuộc đời tôi đã trở thành thân thiết tự nhiên, bây giờ sắp phải xa nó, tôi cảm thấy lòng mình trở nên trống vắng kỳ lạ.
Chúng tôi vẫn im lặng đi bên nhau, trầm ngâm, phiền muộn.
Mãi đến khi gần về tới nhà, Kim Dung mới nói:
- Mai mốt ông nhớ viết thư cho tôi nghen!
- Chưa biết Kim Dung dạy trường nào làm sao viết thư?
- Ừa hén!
Tôi khịt mũi:
- Hay là Kim Dung viết thư cho tôi trước?
- Tôi cũng đâu có biết ông dạy trường nào!
- Kim Dung cứ gởi về địa chỉ ở thành phố nhờ Lan Anh chuyển.
Nó liếc tôi:
- Lan Anh nào nữa đó?
Tôi cười:
- Không phải đâu! Lan Anh là em tôi, con bà dì.
- Còn chuyện của ông và Quỳnh tới đâu rồi?
Kể từ khi biết chuyện tình cảm của tôi, đây là lần đầu tiên Kim Dung hỏi về Quỳnh. Trước nay, tôi vẫn luôn thầm cảm ơn sự phớt lờ của nó. Bây giờ, trước lúc chia tay, có lẽ nó cùng muốn biết sơ qua tình hình yêu iếc của tôi.
Tôi buồn bã đáp:
- Thôi rồi!
- Ai thôi ai?
- Quỳnh thôi tôi.
Tôi sợ Kim Dung sẽ hỏi tôi "tại sao", "vì đâu", tôi phải giải thích rắc rối, rầy rà. Nhưng Kim Dung chẳng hỏi. Nó chỉ tặc lưỡi, bình luận:
- Vậy cũng đáng!
Nghe cái giọng cà khịa của nó tuy đang rầu thúi ruột, tôi cũng phải phì cười. Lúc trước tôi mất xe, nó cũng bảo là đáng, bây giờ tôi mất người yêu, nó cũng giở giọng đó. Nó đúng là... Kim Dung!
Trước khi đi, tôi có qua chào gia đình bác Tám.
Mọi người tiếp đãi tôi rất tử tế. Có cả mấy đĩa bánh ngọt bày trên bàn. Nhưng quả thực tôi chẳng buồn ăn một chút gì. Trâm nài nỉ mấy lần, tôi mới cầm lấy một cái bánh.
Mẹ Quỳnh nói:
- Cháu đi nhớ biên thư về cho bác!
Nếu mối quan hệ vẫn như trước đây, lời dặn dò đó sẽ làm ấm lòng tôi biết bao nhiêu. Nhưng lúc này, tôi hiểu rằng đó chỉ là lời đưa đẫn ngọt lạt theo kiểu xã giao. Vì vậy, tôi chỉ dạ lí nhí trong miệng cho qua.
Tôi vẫn ngồi đúng chỗ tôi thường ngồi trước đây khi kèm mấy chị em Quỳnh học, cả chị Kim, Trâm, Quỳnh cũng vẫn ngồi quanh chiếc bàn với dáng ngồi quen thuộc nhưng không khí gần gũi, thân mật ngày nào đã hoàn toàn biến mất nhường chỗ cho những mẩu chuyện gượng gạo và rời rạc.
Chỉ có Trâm và chị Kim trò chuyện với tôi. Quỳnh ngồi lặng lẽ bên cạnh, nét mặt không biểu lộ một cảm xúc gì rõ rệt. Đôi mắt Quỳnh vẫn có vẻ hồn nhiên trong sáng, đôi môi vẫn duyên dáng chết người, nhưng lúc này tôi chỉ đủ can đảm nhìn lướt qua và vẫn không thể nào tin được cái đôi mắt ngây thơ ấy lại che giấu đằng sau nó những tình cảm thất thường.
Lúc tôi về, Trâm theo tôi ra tận chỗ cửa lưới. Nó nói:
- Anh đi đường bình an nghen!
- Ừ. Cảm ơn Trâm.
Đột ngột Trâm nắm lấy tay tôi, nghẹn ngào:
- Anh đừng buồn nữa! Tôi đã cố hết sức để giúp anh nhưng không thay đổi được gì!
Lần đầu tiên tôi thấy Trâm khóc. Tôi cứ tưởng những giọt nước mắt hoàn toàn xa lạ với con người có tính cách cứng cỏi như Trâm. Nhưng bây giờ những giọt nước mắt kia đang lăn tròn trên má Trâm và rơi trên tay tôi nóng bỏng.
Tôi lặng người vì bất ngờ, vì xúc động và cả nỗi đau đang quằn quại trong ngực. Và tôi cũng buồn bã nhận ra tâm hồn của hai chị em Quỳnh rất khác xa nhau. Giá như tình cảm của Quỳnh cũng chân thật, hồn hậu được như Trâm thì đời tôi sẽ đỡ khổ biết bao!
Khi nỗi bồi hồi đã lắng xuống, tôi khẽ bảo Trâm:
- Trâm cứ yên tâm! Tôi sẽ cố gắng vượt qua!
Nó siết chặt tay tôi:
- Chừng nào nghỉ hè anh nhớ về thăm tôi nghen!
Tôi gật đầu:
- Ừ, tôi sẽ về thăm Trâm.
Nó lại nói:
- Tính tôi bộp chộp, ưa nghịch phá, có gì anh đừng giận tôi nghen!
Tôi mỉm cười:
- Tôi có giận Trâm hồi nào đâu!
Nó cùng cười và lấy tay quệt nước mắt:
- Không giận thì thôi! Mai mốt đi dạy xa có cần gì anh nhớ biên thư cho tôi!
- Có gì cần đâu mà cần!
- Thì anh cứ hứa đi!
- Hứa sao?
- Hứa là nếu có cần thì anh biên thư cho tôi! Tôi chỉ nói là "nếu" chứ bộ!
- Ừ, tôi hứa.
Hứa xong, tôi mới được Trâm cho về.
Về nhà, tôi mới biết là hồi chiều Trâm mua cho tôi một cây viết máy, một cây thuốc lá và một gói cà phê nhờ Lan Anh trao lại. Lan Anh cũng sắm cho tôi đủ thứ, nào là xà phòng, khăn mặt, bàn chải... Chắc nó lại lấy trong số tiền "mẹ cho, em để dành" của nó. Dì dượng tôi thì nhét trong túi xách của tôi một xấp tiền không biết bao nhiêu, chỉ thấy dày cộm.
Sáng hôm sau, tôi ra khỏi nhà từ lúc trời còn tờ mờ. Theo tôi ra bến xe là hình bóng của Quỳnh, chập chờn và ám ảnh.
*
Công việc dạy học mới mẻ và vất vả cũng giứp tôi nguôi ngoai phần nào đau khổ. Chỗ tôi dạy là một vùng quê hẻo lánh, trường lớp lụp xụp, học trò thì lôi thôi lếch thếch. Thầy và trò không chỉ dạy học mà còn xúm nhau lợp nhà, đắp vách, san nền, đóng bàn đóng ghế. Khi rảnh, học trò còn dắt thầy đi câu cá, đào khoai.
Tình cảm thân thiết của học trò và sự quí mến của bà con địa phương đã giúp tôi khuây khỏa rất nhiều.
Và chính bản thân tôi cũng bắt tôi ngày đêm lao đầu vào công việc không một phút giây xao lãng, một phần vì thương học trò, phần khác để đầu óc không có thì giờ rảnh rỗi nghĩ ngợi vu vơ.
Nhờ vậy, tôi không có nhiều thời gian để nhìn ngắm và gặm nhấm nỗi đau khổ của mình. Thậm chí có lúc tôi tưởng đã có thể quên được Quỳnh và tôi vừa mong vừa không mong điều đó xảy ra.
Nhưng rồi dần dần tôi phát hiện ra tình yêu của tôi đối với Quỳnh vẫn còn sống mãnh liệt trong tôi, không cháy bỏng như trước đây nhưng dai dẳng, âm ỉ, không phai nhạt và han gỉ một chút nào. Thường ngày nó bị đè nén dưới xô bồ công việc, dưới sự cưỡng bách của ý chí, nhưng cũng như con thú bị nhốt trong chuồng chỉ chực chờ sự lơi lỏng của tôi là nó lại vùng thoát ra và kêu lên những tiếng kêu nhói buốt.
Nhất là vào những mùa nổi, nỗi nhớ Quỳnh dâng lên từng ngày theo con nước. Ngó ra tứ bề trời nước bao la, lòng tôi không khỏi dợn buồn. Những hình ảnh êm đẹp ngày nào lại hiện về nhức nhối.
Buổi chiều ngắm mặt trời lặn bên kia rặng tràm, tôi nhớ Quỳnh. Buổi tối nằm nghe gió hú trên mái lá, tôi nhớ Quỳnh. Buổi sáng vừa mở mắt ra, tôi lại nhớ Quỳnh. Nhưng nỗi nhớ ban ngày dù sao cũng không đến nỗi dai dẳng lắm. Tôi có thể vùi đầu vào soạn giáo án hoặc xách cuốc ra vườn khơi mương, dẫy cỏ để xua đuổi nó đi. Chỉ trong những giấc mơ, tôi hoàn toàn bất lực trong việc ngăn cản sự đùa cợt tàn nhẫn của Qùynh. Cô bé hiện đến và cũng y như ngày xưa, kêu tôi chở đi học trên những con đường quen thuộc, rồi lại nhõng nhẽo bắt tôi trèo lên hái hoa trên cây sứ năm nào. Khi tôi tụt xuống đất đưa chùm hoa cho Quỳnh, cô bé cười với tôi bằng mắt và chìa tay ra:
- Anh cầm tay em đi!
- Chi vậy?
- Dắt em đi chơi!
Tôi sung sướng nắm bàn tay xinh xắn, ấm áp của Quỳnh nhưng chưa kịp bước đi, ba Quỳnh đã xuất hiện với nét mặt giận dữ:
- Bỏ tay ra!
Tôi giật mình thức giấc và thấy hai tay mình đang đặt trên ngực, tay này đang nắm lấy tay kia. Những lúc ấy tôi chỉ biết thở dài nằm chờ sáng. Ngủ lại, tôi sợ Quỳnh lại hiện về đùa cợt với trái tim đang ốm của tôi.
Nằm thao thức day qua trở lại, bất chợt tôi nhớ đến câu Kiều tôi đọc trong kỳ thi vấn đáp năm xưa:
- Khi về hỏi liễu Chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay?
Và tôi buồn rầu tự hỏi không biết bây giờ Quỳnh đã có "người mới" nào chưa. Ý nghĩ đột ngột đó càng làm tôi thêm day dứt. Mà tình yêu cũng thật lạ, nhiều khi tôi cũng lấy làm ngạc nhiên không hiểu tại sao Quỳnh đã cư xử với tôi tệ bạc như thế, tôi vẫn cứ nuôi trong lòng một tình yêu đẹp đẽ và một niềm hy vọng mơ hồ đối với Quỳnh. Đã nhiều lần tôi tìm mọi lý lẽ để lên án Quỳnh, để tự chứng minh rằng đó là một con người tầm thường, bội bạc, không đáng để nhớ thương chút nào nhưng vẫn không sao thuyết phục được trái tim ngốc nghếch, ù lì của tôi.
Chính vì vậy mà mặc dù Quỳnh đã thực sự quay lưng với tôi, tôi vẫn thấp thỏm lo sợ Quỳnh sẽ đến với một người con trai khác.
Nhưng tôi, kẻ đang ở xa Quỳnh hàng trăm cây số về khoảng cách địa lý và hàng tỉ tỉ năm ánh sáng về khoảng cách tình cảm, làm sao có thể ngăn chặn được điều không may đó!
Trong một lá thư gởi cho tôi vào khoảng cuối năm dạy học đầu tiên, Lan Anh báo cho tôi biết Quỳnh đã có người yêu mới. Đó là anh Phong, bí thư phường đoàn.
Từ lâu tôi đã chuẩn bị tinh thần để đón nhận loại tin "báo tử" này nhưng khi đọc thư Lan Anh,tôi vẫn rơi vào trạng thái sững sờ, cay đắng. Thế là "cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay"! Đối với tôi, mọi chuyện thế là xong, u ám, đen đủi. Bây giờ tôi chỉ muốn nói với Quỳnh một điều: Hãy tha cho anh, đừng trở về đêm đêm bắt anh dắt em đi chơi nữa!
Sau khi nhận được tin đó, tôi chẳng còn thiết tha viết thư về cho dì tôi và Lan Anh nữa. Tôi sợ những lá thư của người quen sẽ làm tôi nhớ đến mối tình tôi đang muốn quên đi. Hè đó, tôi ở luôn lại trường, không về thành phố. Qua năm sau, tôi được điều động qua dạy một trường khác và tiếp tục im hơi lặng tiếng suôt' một thời gian dài, cắt đứt liên lạc thư từ với mọi người, trừ Bảo, Kim Dung và gia đình tôi ngoài quê. Trong những lá thư viết cho tôi, Bảo và Kim Dung chửi tôi tơi bời về chuyện tôi liên tiếp không thực hiện nghiêm chỉnh cái khoản "đúng bốn giờ chiều ngày một tháng bảy hằng năm" mà chúng tôi đã đề ra. Tôi chỉ biết viết thư xin lỗi và "nhận khuyết điểm" chứ không tiện giải thích lý do.
Hai năm sau, cảm thấy mình đã biệt tích quá lâu, cảm thấy nhớ dì dượng tôi, nhớ Lan Anh, nhớ Trâm, nhớ Kim Dung và Bảo da diết, tôi lần mò trở về thành phố. Lúc này, tôi tin rằng mặc dù tôi vẫn còn yêu Quỳnh nhưng nỗi đau khổ đã lặng dần theo thời gian, không còn cồn cào đến mức có thể gây cho tôi những cú sốc như ngày nào.
Vừa thấy tôi ló mặt vô cửa, Lan Anh đứng bật dậy khỏi đi-văng, sửng sốt:
- Trời đất ơi, anh Chương đó hả?
Tôi mỉm cười:
- Thì anh chứ ai!
Lan Anh lộ vẻ mừng rỡ nửa như muốn chạy lại ôm tôi như ngày nào nửa ngần ngừ mắc cỡ. Bây giờ nó đã là một cô gái phổng phao, xinh đẹp ra trò nên nó chỉ dám nắm tay tôi hỏi:
- Anh đi đâu mà biệt tăm biệt tích vậy?
- Thì anh vẫn dạy học dưới đó!
- Sao bao nhiêu thư em gửi cho anh đều bị trả lại hết?
- Tại anh chuyển sang trường khác.
Nó cấu tôi một cái đau điếng:
- Vậy mà không báo cho em biết!
Tôi cười hì hì, không trả lời. Nhưng có lẽ Lan Anh đoán biết lý do nên nó không hỏi tới. Nó ngắm nghía tôi kỹ lưỡng một lúc rồi nhận xét:
- Anh đen thùi lùi!
Bất giác tôi nhìn xuống hai cánh tay mình. Đúng là so với hồi còn ở thành phố, da tôi bây giờ sạm đi nhiều vì nắng gió. Nhưng Lan Anh nhận xét như vậy còn nhẹ. Lát nữa Trâm nhìn thấy tôi, dám nó trợn mắt phát biểu oang oang:
- Trông anh đen thui như cục than hầm!
Nghĩ tới Trâm, tự nhiên tôi nôn nao muốn gặp nó ngay. Tôi hỏi Lan Anh:
- Chị Trâm có nhà không?
Lan Anh không trả lời mà nhìn xuống đất. Thái độ khác thường của nó khiến tôi bỗng tái hẳn người đi. Tôi nắm hai vai Lan Anh lay mạnh:
- Có chuyện gì vậy em? Chị Trâm đâu rồi?
Như không nén được, Lan Anh đột ngột ôm chầm lấy tôi và gục đầu lên vai tôi khóc rưng rức. Và trong những tiếng nức nở xé gan xé ruột đó, tôi nghe như vẳng lại từ cõi xa xăm nào một giọng nói đứt quãng, nghẹn ngào:
- Chị Trâm chết rồi!
Tôi như bị đóng đinh xuống đất, người chết điếng. Sự thật hãi hùng đến mức tôi không thể nào tin được. Tôi hỏi một câu ngô nghê và cố nghĩ Lan Anh sẽ lắc đầu:
- Có thật không em?
Nghe tôi hỏi, thay vì trả lời, Lan Anh càng khóc to hơn. Còn tôi thì rơi vào một trạng thái đờ đẫn kỳ lạ.
Không buồn bã, không khổ đau, không một cảm giác gì rõ rệt, tôi thấy mình đang bước đi trên những cụm mây trắng nõn đuổi theo Trâm, mặc những giọt lệ ướt đẫm hai má và mằn mặn, bỏng rát trên môi. Trâm đi phía trước, thỉnh thoảng quay lại nháy mắt và mỉm cười nghịch ngợm với tôi. Nhưng dù tôi cố hết sức chạy theo vẫn không làm sao đuổi kịp Trâm. Khoảng cách giữa hai đứa mỗi ngày một xa. Tôi hốt hoảng kêu lên:
- Trâm ơi, chờ tôi với!
Trâm liền đứng lại và quay nhìn tôi. Tôi thấy Trâm không cười nữa. Mà Trâm khóc, hệt như đêm hôm nào Trâm tiễn tôi lên đường. Và cũng như đêm hôm ấy, Trâm nói:
- Anh đừng buồn nữa nghen!
Tôi gật đầu.
- Tính tôi bộp chộp, ưa nghịch phá, có gì anh đừng giận tôi nghen!
Tôi lại gật đầu.
- Mai mốt đi dạy xa có cần gì anh biên thư cho tôi nghen!
- Ừ, tôi sẽ biên thư cho Trâm! - Tôi sụt sịt nói.
- Rồi chừng nào nghỉ hè anh nhớ về thăm tôi nghen!
Tôi quệt nước mắt, đáp:
- Ừ, tôi sẽ về thăm Trâm!
Đột nhiên Trâm thở dài:
- Nhưng mà rồi anh đâu có biên thư cho tôi, nghỉ hè anh cũng đâu có về thăm tôi! Thôi anh ở lại đi, tôi đi đây!
Trâm vừa nói dứt, tôi không còn thấy Trâm đâu nữa. Chỉ có Lan Anh vẫn đang thổn thức trên vai tôi.
*
Khi chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, Trâm đang là phó bí thư phường đoàn, đã tình nguyện đi bộ đội, bất chấp sự ngăn cản quyết liệt của gia đin`h. Tám tháng sau, Trâm hy sinh ở Xa-Mát, Tây Ninh. Ngày tôi về lại thành phố, Trâm đã mất hơn một năm.
Trước khi nhập ngũ, Trâm có viết thư cho tôi một lá thư nhờ Lan Anh chuyển. Nhưng lúc đó tôi đã chuyển sang trường mới, thư không có người nhận nên bị trả lại.
Lan Anh kể xong, liền chạy đi lấy lá thư của Trâm đưa cho tôi.
Tôi run run cầm lá thư. Phong bì đã ngả vàng, bên ngoài đề địa chỉ trường cũ của tôi. Địa chỉ này chắc Trâm hỏi Lan Anh. Tôi bồi hồi xé phong bì và mở thư ra đọc.
Trâm viết:
Anh Chương thân mến,
Khi anh nhận được thư này, có lẽ tôi đã lên đường ra biên giới. Kỳ hè vừa rồi, tôi ngóng anh dài cổ nhưng chẳng thấy anh về. Nhưng tôi cũng đoán ra được lý do tại sao anh không về nên tôi chẳng trách anh đâu.
Anh cứ yên tâm mà trốn kỹ dưới đó đến chừng nào anh cảm thấy mọi chuyện đã thực sự qua đi. Dù sao tôi cũng tiếc là không được gặp anh một lần trước khi đi. Trong thời gian qua, tôi luôn luôn coi anh như một người anh, một người bạn thân trong gia đình và tôi cũng luôn luôn mong mỏi chuyện tình cảm của anh và con Quỳnh sẽ dẫn đến một kết thúc tốt đẹp, vui vẻ. Lúc đó, tôi sẽ rất sung sướng được coi anh là em rể của tôi và tôi sẽ tha hồ ăn hiếp anh. Nhưng rốt cuộc mọi chuyện lại chẳng đi tới đâu.
Ngay lúc này đây, tôi vẫn cảm thấy xấu hổ với anh, với dì Ba, với nhỏ Lan Anh về thái độ của gia đình tôi đối với anh trong những ngày vừa qua. Lúc trước, có một lần anh hỏi tôi về những thay đổi tình cảm của con Quỳnh, tôi nói với anh là tôi chưa thể trả lời được. Và bây giờ, không gặp anh thì qua lá thư này tôi sẽ nói cho anh rõ để tôi khỏi áy náy trước khi đi xa.
Chuyện bắt đầu từ hồi mới giải phóng, lúc anh về thăm quê. Trong những ngày đó, ba tôi có họp gia đình lại để tính toán công việc và bàn định tương lai cho mấy đứa tôi. Bữa đó, mẹ tôi có nêu chuyện của anh với con Quỳnh và kể lại những điều trao đổi giữa mẹ tôi và dì anh trước đây. Ba tôi gạt phắt với lý do gia đình tôi bây giờ là gia đình cách mạng, ba tôi là đảng viên, là cán bộ cách mạng trong khi ba anh là sĩ quan chế độ cũ và đang chuẩn bị đi học tập cải tạo. Do đó, nếu lấy anh, lý lịch con Quỳnh sẽ bị ảnh hưởng và tương lai không phát triển được. Mẹ tôi hồi nào đến giờ vẫn phục tùng ba tôi nên không cãi lại tiếng nào. Chị Kim không phát biểu ý kiến riêng mà quay lại hỏi con Quỳnh. Lúc đó, con Quỳnh khóc, nó nói là nó yêu anh. Ba tôi nạt một tiếng, nó ngồi im và sau đó chạy lên gác nằm khóc tiếp. Chỉ có tôi vốn quen tính bướng bỉnh nên dám cãi lại ba tôi. Tôi hỏi tại sao ba tôi vẫn thường khen anh là một thanh niên tốt mà bây giờ lại không cho con Quỳnh lấy anh. Ba tôi nói sợ ảnh hưởng về sau. Tôi nói: chuyện về sau làm sao biết được và xử sự như vậy là ích kỷ. Ba tôi mắng tôi hỗn và nói đó là làm theo quan điểm cách mạng. Tôi lại cãi: cách mạng đem lại hạnh phúc cho con người chứ đâu có phá hoại hạnh phúc của con người! Ba tôi gầm lên: mày nói ai phá hoại, và tát cho tôi một cái như trời giáng. Tối đó, tôi và con Quỳnh nằm ôm nhau khóc rấm rứt. Lúc đó, tôi thương con Quỳnh dễ sợ!
Nhưng tôi vẫn nghĩ mọi chuyện sẽ không đến nỗi nào. Tôi làm công tác đoàn nên có quen biết nhiều chú, nhiều anh từ trên quận xuống làm việc. Gặp ai, tôi cũng hỏi quan điểm của họ về chuyện anh và con Quỳnh. Một số người cho ba tôi đúng. Nhưng cũng có một số người cho ba tôi sai. Nghe vậy, tôi mừng lắm. Vì qua đó tôi biết rằng đây không phải là chủ trương chính sách của cách mạng mà chỉ là quan điểm của mỗi cá nhân, bởi vì nếu là chủ trương, chính sách thì mọi cán bộ, đảng viên đều phải thống nhất chứ đâu có kiểu mỗi người nói một cách như vậy.
Tôi về bàn với con Quỳnh và rủ nó cùng thuyết phục ba tôi. Nhưng ba tôi vẫn không lay chuyển. Ông mắng cả hai đứa nhưng cho tôi là đứa xúi giục nên lại tặng tôi thêm một cái tát.
Mặc dù bị đánh đau nhưng tôi không hề sợ hãi vì tôi tin rằng tôi đang làm một việc đúng đắn để bảo vệ hạnh phúc của anh và con Quỳnh. Tôi dự định sẽ nhờ một số chú ở trên quận có quan điểm rộng rãi về chuyện này đến nói chuyện và thuyết phục ba tôi. Còn nếu không được, tôi sẽ tính cách khác.
Không ngờ tôi chưa kịp làm gì, con Quỳnh đã cản. Nó sợ làm to chuyện, ba tôi giận đuổi nó ra khỏi nhà. Tôi trấn an nó: không ai đuổi mày đâu! Nhưng nó cương quyết không chịu, nó bảo: thôi, nghe lời ba đi cho rồi! Tôi hỏi nó: mày yêu anh Chương không? Nó bảo: yêu, nhưng nếu ba cấm thì không yêu cũng được! Anh nghe nó ăn nói vậy có được không! Tôi lại nói: nếu vậy mày là một đứa phản bội. Nó bảo, nó chưa hề nói với anh là nó yêu anh và ngược lại anh cũng chưa bao giờ thổ lộ tin`h yêu với nó nên không thể bảo nó phản bội được! Tôi không biết con Quỳnh có nói thật không nhưng nếu dẫu sự thật là như vậy, lẽ nào nó không phải là đứa con gái phản bội! Tình yêu đâu phải chỉ được nói ra ngoài miệng lưỡi mà còn bộc lộ trong cách quan hệ với nhau nữa chứ, phải không anh Chương?
Kể từ đó, tình cảm của tôi đối với con Quỳnh đã phai lạt đi nhiều. Tôi hoàn toàn thất vọng khi nhận ra nó là một đứa con gái hời hợt, vô tâm, thích được chiều chuộng và không hề có trách nhiệm với ai kể cả với chính bản thân mình. Vì vậy, tin`h yêu mà nó dành cho anh trước đây là có thật nhưng không sâu sắc, sẵn sàng sụp đổ bất cứ lúc nào nếu gặp sóng gió. Tuy mới lớn nhưng nó lại an phận như người già cho nên nó sợ đấu tranh, dù đấu tranh cho hạnh phúc của chính mình.
Tiếc rằng tôi nhận ra điều đó quá muộn, nếu không tôi đã chẳng tìm cách ngăn cản anh đi chơi với chị Kim Dung dù rằng tôi không biết giữa hai người có chuyện gì hay không.
Anh Chương thân mến,
Trước đây tôi đã không kể gì với anh mặc dù tôi vô cùng đau khổ khi trông thấy vẻ mặt thẫn thờ của anh bởi vì tôi luôn có mặc cảm tôi là con của ba tôi và là chị của con Quỳnh. Cũng chính vì tâm trạng nặng nề đó mà hôm nay tôi tình nguyện ra mặt trận mặc dù mẹ tôi khóc lóc và ba tôi tìm đủ mọi cách để ngăn cản. Nhưng tôi không phải là con Quỳnh. Tôi đã quyết đi là đi cho bằng được!
Bây giờ thì anh đã đi xa và tôi cũng sắp sửa đi xa, không biết ngày nào mới gặp lại nhau nên tôi viết lá thư này cho anh. Lúc này, tôi thương anh và nhớ anh kinh khủng, anh có biết không? Gặp anh thì chắc tôi không dám nói những câu "tin`h cảm ướt át" như vậy nhưng bây giờ anh đang ở xa lắc xa lơ, tôi chẳng sợ anh cười đâu!
Đừng buồn nữa nghe anh Chương! Anh hãy cố gắng vượt qua như anh đã nói với tôi hôm nào. Dù ở xa nhưng tôi vẫn luôn luôn cầu mong anh sẽ tìm được một người yêu xứng đáng, xứng đáng gấp trăm lần con Quỳnh! Trong những ngày sắp tới, tôi sẽ cố tìm một nhánh lan rừng thật đẹp, lúc nào cũng mang theo bên min`h để chờ chừng nào anh có tin vui, tôi sẽ đem về tặng cho cô bạn của anh, anh có thích vậy không?
Nước mắt tôi nhòe trên những trang thư Trâm viết. Những dòng chữ ngả nghiêng, lay động như những cánh rừng trước gió. Trên cánh rừng nào, Trâm đã ngã xuống mà không kịp chờ tôi báo tin vui?
Cơ hồ đã chục năm trôi qua kể từ ngày Trâm mất. Những ngày, những tháng, những năm lặng lẽ và lạnh lùng lướt qua những cuộc đời, những số phận.
Tôi bây giờ đã trên ba mươi tuổi và từ lâu đã chuyển về dạy học ở thành phố. Ngày ngày tôi vẫn đạp xe đến trường trên chiếc xe đạp thời còn đi học.
Thời gian và nỗi lo toan cuộc sống đã phủ những lớp bụi mờ lên trí nhớ ngày càng chậm chạp của tôi. Riêng hình ảnh Trâm vẫn luôn tỏa sáng, rực rỡ và dịu dàng, không gì che khuất nổi.
Hàng năm, cứ đến ngày giỗ, tôi lại ra đặt hoa trước mộ Trâm. Có lần tôi đem đến cho Trâm một cụm lan rừng xin được của một đứa bạn thanh niên xung phong. Những lúc đó, tôi thường ngồi vẩn vơ hàng giờ ngoài nghĩa trang, trong lòng cồn lên bao kỷ niệm. Thôi, Trâm hãy nghỉ ngơi, sang năm tôi sẽ lại đến thăm Trâm! Trước khi ra về, bao giờ tôi cũng nói thầm với Trâm như thế.
Thằng Bảo bây giờ cắm rễ luôn ở Long An. Nó làm hiệu trưởng trường trung học và đã có một vợ, hai con. Gặp tôi, nó thường chắt lưỡi hít hà:
- Ước chi tao được như mày!
Tôi cười:
- Độc thân khổ thấy mồ chứ sung sướng gì mà ham!
Nó lại xuy^'t xoa:
- Nhưng mà sướng lâu quá rồi, bây giờ tao đang muốn khổ!
Cái thằng làm tới hiệu trưởng rồi mà giọng lưỡi vẫn còn bạt mạng như thời sinh viên.
Thỉnh thoảng nó vẫn lên thành phố đi chơi với tôi và Kim Dung.
Kim Dung đã nghĩ dạy, chuyển sang làm báo. Cái nghề phóng viên coi bộ hợp với nó hơn là nghề sư phạm. Cũng như tôi, Kim Dung chưa chịu lập gia đình. Tôi và thằng Bảo thúc nó, nó nheo mắt:
- Quí vị cứ yên chí! Khi nào muốn, tôi sẽ moi ra một đấng ông chồng ngay tức khắc!
Chồng mà nó làm như cục đất không bằng! Nhưng nghe nó bảo vậy, tôi và thằng Bảo cũng không giục nữa, để khi nào muốn "moi" thì nó "moi".
Thằng Bảo bây giờ vẫn còn khoái làm thơ. Lâu lâu nó lại chìa ra một bài thơ, năn nỉ Kim Dung:
- Bà làm báo, bà coi thử có được thì đăng giùm tôi!
Kim Dung đọc xong bài thơ liền gật gù:
- Đăng được nhưng không thể đăng trang văn nghệ!
Thằng Bảo mắt sáng trưng:
- Đăng trang nào cũng được!
- Tôi đăng ở trang bạn đọc, mục "thơ cậy đăng"!
Nói xong, Kim Dung nhe răng cười hì hì. Còn thằng Bảo thì giật phắt bài thơ lại:
- Bà đừng có chọc quê tôi! Báo bà không biết phát hiện tài năng thì để tôi đăng báo khác!
Nhưng suốt một thời gian dài, không tờ báo nào chịu "phát hiện tài năng" của nó cả khiến mỗi lần gặp tôi và Kim Dung, nó "xả xú-páp" bằng cách bắt hai đứa tôi phải ngồi nghe thơ của nó. Thấy chúng tôi ngồi nghe với vẻ nóng ruột, nó trợn mắt:
- Không ai in thơ tao thì lâu lâu tụi mày cũng phải cho tao xuất bản bằng... miệng một bữa chứ!
Ba đứa chúng tôi hiện vẫn thường xuyên gặp gỡ và chuyện trò với nhau vui nhộn như vậy, chẳng khác gì hồi trước.
Lan Anh thì sau khi thi rớt đại học, xin vào làm ở một nhà máy dệt. Nó đã có chồng và hiện đang ở nhà chồng, tuần nào cũng ghé về thắm tôi và dì dượng Ba.
Đã mười năm trôi qua nhưng mỗi khi nhắc đến Trâm, Lan Anh vẫn thường rơm rớm nước mắt.
Và cuối cùng là Quỳnh, niềm vui và nỗi khổ một thời của tôi. Cô bé đã lấy chồng, nhưng không phải lấy Phong. Phong là người Hoa, trong thời gian xảy ra cái gọi là "nạn kiều", anh ta đã bỏ về nước.
Tôi không biết tên người chồng mới của Quỳnh, chỉ biết anh ta là chủ một tiệm may lớn. Hai vợ chồng Quỳnh đã có một con, cuộc sống có vẻ sung túc.
Đôi khi chạy ngang tiệm may, tôi vẫn nhìn thấy Quỳnh. Có một lần, vâng, chỉ có một lần thôi, tôi dừng xe lại đứng nói chuyện dăm ba câu với Quỳnh trước cửa. Thú thật đó là những câu chuyện nhạt phèo, chán ngắt nhưng chẳng hiểu sao khi nhìn vào mắt Quỳnh, tôi bỗng cảm thấy bồi hồi, xao xuyến lạ lùng chẳng khác nào tôi đang đứng trước Quỳnh mười lăm năm về trước. Đúng là lạ lùng, bởi vì tôi biết chắc rằng tình yêu của tôi đối với Quỳnh thực sự đã chết từ lâu.
Khi đạp xe đi, bỗng dưng tôi bâng khuâng tự hỏi, rằng không biết trong vô vàn những kỷ niệm tươi đẹp ngày xưa, đối với Quỳnh bây giờ có còn một chút gì để nhớ hay không.
Thành Phố Hồ Chí Minh 1988
Nguyễn Nhật Ánh